Pháp
quyền, Pháp trị và nền dân chủ giả hiệu
August 28, 2012One Bình Luận
Pháp quyền, Pháp trị và nền dân chủ giả hiệu
RULE OF LAW
vs RULE BY LAW
Bài viết này nhằm bốn mục đích:
- Đóng góp ý kiến
vào việc cải tổ Hiến Pháp.
- Đáp ứng đề nghị
của luật sư Đặng Dũng từ trong nước kêu gọi giới luật học hải ngoại đóng góp
những nghiên cứu chuyên môn giúp nâng cao kiến thức luật học cho giới lãnh đạo
chính trị, lãnh đạo luật học và sinh viên luật trong nước.
- Giải đáp câu hỏi
của một nữ sinh viên luật trong nước gửi các luật gia hải ngoại về từ ngữ liên
quan.
- Góp phần thảo
luận với các luật gia hải ngoại trên hệ thống emails nội bộ về từ ngữ đề cập
Rule of law là dân
chủ. Rule by law là dân chủ giả hiệu.
Rule of Law được
giới luật VNCS dịch là Pháp Quyền, Rule by law là Pháp Trị. Nhưng nhiều người
chưa hiểu rõ nội dung của hai cụm từ này. Ngay cả không ít những người dùng nó
cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa. Chưa kể giới lãnh đạo chính trị CS lại luôn muốn
lường gạt nhân dân bằng cách nhập nhằng ý nghĩa của hai cụm từ này để tỏ rằng
phương cách cai trị của đảng cũng dân chủ.
Giáo sư Vũ Quốc
Thúc, một trong các giáo sư luật hàng đầu của Việt Nam Cộng Hòa, mới đây đã xác
nhận tại miền Nam Việt Nam trước 1975 ông không nghe nói tới từ Pháp Quyền mà
chỉ nghe nói tới cụm từ “Nguyên Tắc Thượng Tôn Luật Pháp.”
Là một trong hàng
ngàn học trò trực tiếp của Giáo Sư, tôi tin sự xác định của ông. Và trong một
số bài viết về tư pháp (trong vụ án Cù Huy Hà Vũ), tôi cũng dùng cụm từ Nguyên
Tắc Thượng Tôn Luật Pháp để dịch Rule of Law.
Phân tích một cách
chuyên môn, chi tiết, Rule of law có cả ba nghĩa:
Rule according to law; rule under law; or rule according to a higher law (http://legal-dictionary.thefreedictionary.com/Rule+of+law).
Trong nghĩa thứ nhất, “ rule according to law” thì kẻ cầm quyền (chính phủ)
không thể trừng phạt hình sự hay dân sự một người nào mà không nghiêm chỉnh
tuân theo những thủ tục tố tụng và những đạo luật được hình thành một cách cẩn
trọng và được định danh một cách rõ ràng (well-established and clearly defined
laws and procedures).
Trong nghĩa thứ hai Rule under law, không một ngành nào
của chính phủ được đứng trên luật pháp, và không một viên chức công quyền nào
có thể hành xử một cách độc đoán hay đơn phương (unilaterally), đứng ngoài luật
pháp. Hay nói một cách ngắn gọn, “Không ai được đứng trên luật pháp”.
Trong
nghĩa thứ ba, rule according to the higher law, thì chính quyền không thể cưỡng
hành một đạo luật thành văn nào nếu đạo luật đó không phù hợp với một số nguyên
tắc bất thành văn, phổ quát (universal) của sự công bằng (fairness), đạo đức
(morality), và công lý (justice) là những nguyên tắc đứng trên mọi hệ thống
luật pháp do con người tạo lập (that transcend human legal systems.)
Khi dùng
từ higher law, các học giả phương tây muốn nói tới luật tự nhiên (natural law).
Tóm lại, những nguyên tắc của luật tự nhiên đứng trên mọi luật pháp do con
người hình thành.
Quan điểm cho rằng
có những nguyên tắc pháp lý có sẵn
trong thiên nhiên (Natural law theory) mà những đạo luật do con
người lập ra cần tuân thủ thường được tóm gọn trong thành ngữ “Một đạo luật bất
công không thực sự là luật” (an unjust law is not a true law, lex iniusta non
est lex,) trong đó từ “bất công” (unjust) được định nghĩa là trái với luật tự
nhiên.
Luật tự nhiên đôi khi cũng được tóm gọn trong thành ngữ (maxim) tương tự
“một đạo luật bất công thì chẳng phải là luật gì cả (“an unjust law is no law at
all”).
Và chính từ luật
tự nhiên mà luật do con người tạo ra (hiến pháp và luật pháp) có được tính cách
cưỡng hành (a b c Shiner, “Philosophy of Law”, Cambridge Dictionary of
Philosophy).
Luật tự nhiên thật gần gũi với khái niệm đạo đức (morality). Chính
vì thế, về bản chất, Rule of law là
một khái niệm về thuần túy đạo đức (an intrinsically moral notion).
Tóm lại, để xây
dựng một chế độ pháp quyền (hay thượng tôn luật pháp-Rule of law), cần phải có
những đạo luật và những thủ tục được xây dựng một cách tốt đẹp và được định
danh một cách rõ ràng (well-established and clearly defined laws and
procedures); đồng thời những đạo luật đó phải có nội dung phù hợp với những
nguyên tắc bất thành văn, phổ quát (universal) là công bằng (fairness), đạo đức
(morality), và công lý (justice).
Cụm từ “Rule of law”
lần đầu tiên được thấy trong một đơn trình từ hạ viện Anh (House of Commons)
gửi lên Hoàng Đế James I của Anh Quốc vào năm 1610. Đơn đó ca ngợi việc dân
chúng được hạnh phúc và tự do dưới sự dẫn dắt và cai trị bởi rule of the law (http://en.wikipedia.org/wiki/Rule_of_law#Antiquity).
Tới tk 19 thành ngữ Rule of law trở thành phổ thông bởi luật gia Anh quốc A.V.
Dicey. Nhưng khái niệm này quen thuộc đối với các tư tưởng gia cổ điển phương
tây (Hy Lạp) từ 2500 năm trước như Plato (427-327 trước công nguyên) và
Aristotle (384-322 trước công nguyên). Plato viết, “Ở đâu luật pháp dưới trướng
nhà cầm quyền thì sự xụp đổ của quốc gia (state) không xa; nhưng ở đâu mà luật
pháp đứng trên chính quyền thì tình hình có nhiều hứa hẹn và dân chúng vui
hưởng trọn vẹn những ân sủng của thượng đế ban cho quốc gia. Aristotle thì viết
“Luật pháp nên cai trị” (Law should govern).
Rule of law hàm ý rằng mọi công
dân đều phải tuân theo luật pháp (every citizen is subject to the law), dù
người đó là vua, tổng thống, chủ tịch nước, hay tổng bí thư đảng. Ý niệm này ngược
với ý tưởng vua đứng trên luật pháp bởi lý thuyết vương quyền (divine right),
theo đó quyền của nhà vua tới từ thượng đế chứ không phải từ sự đồng lòng của
nhân dân. (http://en.wikipedia.org/wiki/Rule_of_law).
Như vậy trong suốt
thời quân chủ, trước khi nước cộng hòa đầu tiên của thời cận đại ra đời (Hoa Kỳ
năm 1776), với lý thuyết vương quyền, trên thế giới hoàn toàn không có quốc gia
nào áp dụng nguyên tắc thượng tôn luật pháp (Rule of law); mà, nói một cách đơn
giản, tất cả mọi quốc gia đều theo nguyên tắc Rule by law, tức nguyên tắc luật
pháp phục vụ nhà cầm quyền.
Trong chế độ đó vua đứng trên luật pháp, hay vua là
luật pháp (king is law). Chỉ có điều cụm từ Rule by law thời đó chưa xuất hiện.
Vào năm 1776, khái
niệm “không ai đứng trên luật pháp” đã phổ biến trong giai đoạn Hoa Kỳ khởi đầu
lập quốc. Ví dụ, vào lúc khởi đầu cuộc cách mạng dành độc lập của Hoa Kỳ, ông
Thomas Paine đã viết một tập sách mỏng có tên Common Sense nhằm kêu gọi đòi độc
lập khỏi Anh Quốc, trong đó ông viết, “Ở Hoa Kỳ, luật là vua (the law is king).
Trong khi ở các quốc gia quân chủ độc đoán Vua là luật (King is law), thì ở
những quốc gia tự do luật phải là vua (law ought to be king) và không thể là gì
khác.”
Trong hai thế kỷ
tiếp theo đó nhiều quốc gia quân chủ tiến bộ đã biến thành quân chủ lập hiến
hay cộng hòa, một chính thể không có vua, Rule of law trở nên phổ biến và quần
chúng ngày càng khát vọng dân chủ.
Trước trào lưu đó, một số kẻ cầm quyền ở
những quốc gia theo chính thể cộng hòa (không có vua) nhưng vẫn có tham vọng
duy trì quyền lực (power) toàn diện như của một vị vua, đã bắt buộc phải lừa
bịp dân chúng bằng cách xây dựng những cơ chế ban hành và áp dụng luật pháp
(quốc hội và tòa án) cùng những bản hiến pháp và các đạo luật chỉ có tính dân
chủ giả hiệu.
Những cơ quan lập pháp và tư pháp ở những quốc gia đó hoặc không
có tính cách độc lập và bình đẳng với hành pháp (các quốc gia cộng sản), hoặc
chỉ độc lập một cách hình thức (các quốc gia phát xít và không ít các quốc gia
chậm tiến hiện nay).
Những bản hiến pháp và những đạo luật của những quốc gia
đó không đáp ứng những điều kiện của nguyên tắc Rule of law như được trình bày
ở trên. Dưới những chế độ giả hiệu dân chủ, đa số ngôn từ trong hiến pháp và
những đạo luật đều tương tự như những bản hiến pháp và luật pháp của các quốc
gia dân chủ. Nhưng sẽ có vài từ hay cụm từ hay vài điều khoản có vẻ bình thường
như những điều khoản khác nhưng lại có hiệu quả loại bỏ hoàn toàn tính chất dân
chủ của bản văn luật pháp đó.
Ví dụ điều 4 của Hiến Pháp ViệtNamhiện nay và một
số điều khoản khác nữa. Hoặc cơ quan soạn thảo hiến pháp hay luật (quốc hội) và
những cơ quan có nhiệm vụ giải thích và áp dụng các luật lệ đó (tòa án) bề
ngoài cũng có vẻ được hình thành và sinh hoạt dân chủ như các cơ quan tương tự
ở các quốc gia dân chủ, nhưng trong thực tế, các cơ quan lập pháp và tư pháp ở
các quốc gia độc tài đều hoàn toàn bị điều khiển bởi kẻ hay nhóm cầm quyền và
phục vụ quyền lợi của nhóm cầm quyền.
Ví dụ tình trạng quốc hội và tòa án hiện
nay ở ViệtNam. Nói chung, các quốc gia phát xít (Đức, Ý, Nhật hay Tây Ban Nha
thời Franco) hay các quốc gia chậm tiến hiện nay, hoặc các quốc gia cộng sản
đều có hình thức dân chủ giả hiệu như vậy.
Khi nghiên cứu hệ thống pháp lý tại
các quốc gia dân chủ giả hiệu này, các luật gia phương tây đã tạo ra cụm từ
Rule by law.
Chính những học
giả phương tây cũng công nhận hai cụm từ Rule of law và Rule by law đã tạo ra
nhầm lẫn vì bề ngoài có vẻ tương tự về từ vựng. Rule by law hoàn toàn khác và
đối nghịch với Rule of law. Kẻ cầm quyền cai trị bằng nguyên tắc rule by law
không phải vì luật pháp cao hơn họ mà vì làm như thế có lợi cho họ. Với rule of
law, luật pháp ở tầng cao hơn và kẻ cầm quyền phải tuân thủ; còn trong chế độ
rule by law, kẻ cầm quyền dùng luật pháp như một phương tiện có lợi nhất cho họ
để thống trị (http://branemrys.blogspot.com/2005/08/rule-of-law-vs-rule-by-law.html).
Nói cách khác,
trong chế độ Rule of law thì luật pháp là vua còn trong chế độ Rule by law thì
kẻ cầm quyền là vua, đứng trên luật pháp. Trong chế độ Rule of law luật pháp
dùng để bảo vệ dân chúng, mang lại phúc lợi cho dân chúng, chống lại sự lạm
quyền (abuse power) của kẻ hay nhóm cầm quyền.
Trong chế độ Rule by law, luật
pháp được tạo ra và được giải thích, theo ý muốn của kẻ cầm quyền nhằm phục vụ
đặc quyền, đặc lợi của kẻ hay nhóm cầm quyến. ViệtNamhiện nay đang ở tình trạng
Rule by law chứ không phải Pháp Quyền (Rule of law).
Bài này chủ yếu
chỉ nhằm làm rõ nghĩa và sự khác biệt giữa hai cụm từ Rule of law và Rule by
law mà nhu cầu cải tổ Hiến Pháp hiện nay khiến các giới luật học, giới lãnh đạo
chính trị và một thành phần dân chúng ở Việt Nam quan tâm.
Như đã trình bày ở
trên, theo Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, một trong những giáo sư luật hàng đầu của Việt
Nam Cộng Hòa và cũng từng là Giáo Sư tại một đại học Luật bên Pháp đã cho biết,
trước 1975 miền nam không có từ ngữ Pháp Quyền mà chỉ có cụm từ “Nguyên Tắc Thượng
Tôn Luật Pháp” để dịch cụm từ Rule of law. Luật Sư Nguyễn Tường Bá, từng là Thủ
Lãnh Luật Sư Đoàn của Việt Nam Cộng Hòa cũng mới nhắc tôi nhớ rằng, Giáo Sư Vũ
Văn Mẫu, một trong những Giáo sư hàng đầu khác của Việt Nam Cộng Hòa mà tôi
cũng từng là học trò trực tiếp của ông, đã dùng từ Pháp Trị để dịch cụm từ Rule
by law nhằm nói tới phái Pháp Gia (School of Legalism) của Hàn Phi Tử ở Trung
Hoa vào tk 3 trước công nguyên.
Khi dịch sang
tiếng Việt, phương pháp dịch từng chữ (mot à mot) đã mang theo tất cả sự lẫn
lộn có sẵn của hai nhóm từ Rule of law và Rule by law. Thật khó phân biệt sự
khác nhau, đối chọi nhau của hai từ Pháp Quyền và Pháp Trị khi dịch Rule of law
là Pháp Quyền và Rule by law là Pháp Trị.
Cả hai cụm từ Pháp Quyền và Pháp Trị
trong tiếng Việt đều có ý nghĩa tích cực về mặt từ vựng, tức đều mang cho người
đọc cảm giác một môi trường dân chủ. Trong khi trong tiếng Anh, Rule of law có
ý nghĩa tích cực, có tính dân chủ; trái lại Rule by law có ý nghĩa tiêu cực,
độc tài, hay dân chủ giả hiệu.
Hiện nay, tại Việt
Nam, cả hai từ Pháp Quyền và Pháp Trị đều được xử dụng rộng rãi, nhưng ngay cả
người dùng nhiều khi, có thể nói rất nhiều khi, cũng không nắm trọn ý nghĩa của
từ ngữ. Giới luật gia và trí thức tranh đấu cho nhân quyền và cho một Việt Nam
dân chủ, khi dùng từ Pháp Quyền hay Pháp Trị đều muốn nhắc tới nội dung của cụm
từ Rule of law. Điều này là dĩ nhiên, bởi vì Rule of law là nguyên tắc cơ bản
của nền dân chủ. Trong khi giới lãnh đạo chính trị, giới lãnh đạo đảng hay
chính phủ, hoặc do ngu dốt, hoặc chủ ý lừa bịp dân chúng, luôn rêu rao muốn xây
dựng chế độ Pháp Quyền (Rule of law) nhưng lại ủng hộ những hạn chế của luật
pháp và chống đối một sự độc lập cần thiết của quốc hội và tòa án với hành pháp
và nhất định đòi duy trì sự độc quyền lãnh đạo của đảng. Như thế là muốn áp
dụng Rule by law.
Để tránh tình
trạng nhập nhằng, cản trở tiến trình và nhu cầu cải tổ Hiến Pháp theo chiều
hướng dân chủ thực sự, giới học thuật tư pháp ở Việt Nam, mà cụ thể là các tiến
sĩ, giáo sư, viện sĩ lãnh đạo và giảng dậy tại các trường đại học luật, lãnh
đạo các cơ quan tư pháp, tòa án, phải đưa ra một định nghĩa rõ ràng cho các từ
vựng Pháp Quyền và Pháp Trị. Cách tốt nhất, vì Rule of law và Rule by law là
hai khái niệm cơ bản của học lý phương tây, sau mỗi khi dùng từ vựng Pháp Quyền
hay Pháp Trị, người sử dụng nên chua thêm tiếng Anh (hay tiếng Pháp) để nói rõ
nội dung của từ vựng mình sử dụng. Trong khi hệ thống tư pháp và pháp luật của
ta còn non trẻ, các từ vựng pháp lý chuyên môn chưa có đủ và chưa rõ ràng,
chúng ta không nên e sợ bị “mất chủ quyền ngôn ngữ” qua việc chua thêm ngoại
ngữ mỗi khi xử dụng một từ chuyên môn pháp lý tiếng Việt.
Trái lại, việc chua
thêm ngoại ngữ như vậy trên thực tế sẽ giúp chúng ta diễn tả được điều muốn nói
và thực hiện đúng điều chúng ta muốn làm. Theo cá nhân tôi, thay vì dùng từ
Pháp Quyền thì cụm từ “Thượng Tôn Luật Pháp” là chính xác nhất và dễ hiểu nhất
để diễn tả ý nghĩa của cụm từ Rule of law. Đồng thời để tránh việc nhà cầm
quyền lừa dối nhân dân, cụm từ Rule by law nên được dịch là “Giả Pháp Quyền”.
Một sự rõ ràng, phân biệt trong dịch
thuật sẽ mang lại tính rõ ràng cho hệ thống tư pháp và pháp luật của Việt Nam,
một trong mấy yếu tố căn bản của chế độ Thượng Tôn Luật Pháp, tức Rule of law;
đồng thời sẽ buộc giới cầm quyền CSVN phải hoặc chấp nhận xây dựng một nhà nước
Pháp Quyền thực sự như họ đang rêu rao, tức phải tôn trọng hoàn toàn những yếu
tố căn bản của nguyên tắc Rule of law; hoặc họ phải công nhận trước nhân dân là
họ không chấp nhận dân chủ và cai trị bằng chế độ “Giả Pháp Quyền” (Rule by
law) như họ đang thực hiện.
Luật gia Nguyễn Tường
Tâm
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment