- Trả Lại Sự Thật 2 1/5: 45
NĂM BIẾN CỐ ĐAU THƯƠNG TẠI HUẾ MẬU THÂN 1968 (39:12)
- Trả Lại Sự Thật 2 2/5: 45
NĂM BIẾN CỐ ĐAU THƯƠNG TẠI HUẾ MẬU THÂN 1968 (44:58)
NHỮNG BUỔI THẢO LUẬN TRỰC TIẾP (LIVE
BROADCAST) THEO LỊCH TRÌNH MỖI THỨ BẢY LÚC 3 GIỜ CHIỀU CALI (TỨC MỖI CHỦ
NHẬT 6 GIỜ SÁNG VIỆT NAM) NHƯ SAU:
III. PHỐI TRÍ LỰC
LƯỢNG ĐỊCH VÀ PHỐI TRÍ LỰC LƯỢNG QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ ĐỒNG MINH
PHÒNG THỦ HUẾ. (29.12.12)
IV. KẾT QUẢ VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA TRẬN MẬU THÂN HUẾ. (5.1.13)
V. ỦY BAN TRUY TỐ
TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN. (12.1.13)
ĐẶC BIỆT XIN KÍNH MỜI QUÝ ĐỒNG BÀO KHẮP NƠI THAM GIA
NHỮNG BUỔI THẢO LUẬN TRỰC TIẾP QUA MỘT TRONG CÁC PHƯƠNG TIỆN SAU
FACEBOOK.COM/UY.BAN, UBTTTADCSVN.BLOGSPOT.COM,
USTREAM.TV/CHANNEL/UBTTTADCSVN, HOẶC ĐIỆN THOẠI VÀO SỐ 626-257-1057.
Đính kèm phần Slideshow bao gồm chứng cứ và tài liệu đã
được dùng trong Buổi Họp Báo ngày 13/10/2012. Audio Quảng Độ và Võ Văn Ái
sỉ nhục VNCH và kích động chia rẽ ở các trang 40, 42, và 48.
Đệ I VNCH 1955-1963
Đệ II VNCH 1964-1975
Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm
Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan (1-2-1930
14-7-1998)
Yểm Trợ Quỹ Pháp Lý Truy Tố Cộng
Sản Việt Nam
(Những Bí Mật Chưa Được Tiết Lộ Giai Đoạn
1966- 1968- 1972)
$30.00
$30.00
Monday, December 3, 2012
12/03/2012
UBTTTADCSVN
THÍCH TRÍ QUANG - THÍCH MINH CHÂU
THÍCH ĐÔN HẬU - THÍCH THIỆN SIÊU
___________________________
LIFE Magazine - April 22, 1966
(6) - Monk Triumvirate Calling the Turn. /Thích Trí Quang, Thích Hộ
Giác... thách thức sẽ tiếp tục kích động tín đồ biểu tình.
THÍCH TRÍ QUANG
Thích
Trí Quang sanh năm 1922, tại làng Diêm Điền, thị xã Đồng Hới, thuộc tỉnh
Quảng Bình. Vì là nơi nghèo khổ truyền kiếp, nên dân làng Diêm Điền có tính
bảo thủ, rất cực đoan, và hết sức quá khích. Thượng tọa (TT) Trí Quang đã
xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ và Trí Quang là người anh cả
của 3 người em trai. Thuở nhỏ, TT Trí Quang đã được cha mẹ đặt tên cho là
Phạm Văn Bồng. Phạm Văn Bồng và người em kế đã phải sớm nương thân cửa Phật
để kiếm miếng ăn, họ qui y với Hòa Thượng Phổ Minh, trụ trì ở Đồng Đình.
Về
sau bốn anh em nhà họ Phạm đã được Hòa Thượng Phổ Minh dùng bốn chữ: Quang,
Minh, Chính, Đại, để cải danh cho. Vì thế Phạm Văn Bồng đã cải danh thành
Phạm Quang, sau trở thành Thích Trí Quang. Còn ba người em tên là: Phạm
Minh, Phạm Chánh, và Phạm Đại.
Nhờ
nương thân nơi cửa Phật, nên hai anh em Phạm Quang (Trí Quang) và Phạm Minh
đã được học hành chút đỉnh, khoảng lớp Ba tiểu học. Còn hai em là Phạm
Chánh và Phạm Đại đều chịu cảnh thất học. Phạm Minh đã sớm rời bỏ lớp áo tu
hành, tham gia kháng chiến. Nhờ có chút đỉnh chữ nghĩa nên Phạm Minh đã
được phục vụ trong Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Xã tại địa phương. Còn hai
người em, tên Phạm Chánh và Phạm Đại thì xung vào Bộ Đội.
Chẳng bao lâu
sau, Phạm Chánh được kháng chiến quân phong làm Tiểu Đội Trưởng Dân Quân Du
Kích. Nhưng đến ngày 4.6.1947, Phạm Chánh đã bị lính Pháp phục kích bắn
chết tại Đức Phổ, thuộc phía Tây thành phố Đồng Hới. Lúc bấy giờ Phạm Chánh
mới 21 tuổi. Còn người em út tên Phạm Đại làm điều dưỡng viên trong Bộ Đội
CSBV vẫn còn sống cho đến năm 1954, khi chia cắt đất nước.
TRÍ QUANG BỊ BẮT
Ở
Đồng Hới, thuở ấy ai cũng biết Hòa thượng (HT) Phổ Minh là một vị cao tăng,
đức độ. Ngài đã có gia đình rồi mới đi tu. Nhưng ngài chỉ thông thạo Hán
Văn, và biết chút đỉnh chữ Quốc Ngữ, chớ không am tường Tây học.
Khoảng năm
1934, bác sĩ Lê Đình Thám đã cùng với Thượng Tọa Thích Mật Thể lập ra
trường An Nam Phật Học ở Huế, nhắm mục đích đào tạo tăng sĩ.
Năm 1942, lúc
đó Trí Quang vừa tròn 20 tuổi, đã được tuyển vào học tại trường này, và thọ
giáo với Hòa Thượng Thích Trí Độ, giám đốc trường. Năm sau, 1943, Trí Quang
tốt nghiệp khóa Phật Học Trung Cấp.
Hòa
Thượng Thích Trí Độ đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1941, lúc đảng này còn
hoạt động trong bóng tối. Đến năm 1945, sau khi Việt Minh (VM) cướp chánh
quyền, HT Thích Trí Độ được CSVN cử giữ chức chủ tịch trung ương Giáo Hội
Phật Giáo Cứu Quốc (PGCQ). Vì thế HT Trí Độ đã kéo một số tăng sĩ theo CS,
trong đó có Thích Thiện Minh, làm chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Trị...
Về
phần Trí Quang, khi CSVM tuyên bố “toàn quốc kháng chiến”, và ra lịnh cho
quần chúng phải tản cư khỏi các đô thị lớn như: Hà Nội, Huế và Sài Gòn
v.v... vào khoảng cuối năm 1946, Trí Quang trở về Diêm Điền, để giữ chức
chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Bình.
Đến
năm 1947, Trí Quang hoạt động cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của
CSVM, tên Nguyễn Toại (còn gọi là Toại Béo), ở Đồng Đình, và Nguyễn Tịch ở
Đồng Phú.
Chẳng bao lâu sau, cũng trong năm 1947, Trí Quang, Toại Béo, và
Nguyễn Tịch đều bị Phòng Nhì Pháp theo dõi bắt trọn ổ. Lần này, Trí Quang
và Nguyễn Tịch đã bị giam ở Trạm Thiên Văn Tam Tòa. Ít lâu sau Trí Quang
cũng đã được Pháp trả tự do.
Nhưng sau khi được trả tự do ít lâu, Trí Quang
lại bị Phòng Nhì của Tây bắt lần nữa, vì tội vẫn còn tiếp tục hoạt động bí
mật và duy trì liên lạc với các cán bộ CSVM. Sau một thời gian bị giam, Trí
Quang đã được một viên chức bảo hộ của Pháp ở Huế bảo lãnh.
Lần này Trí
Quang đã phải làm tờ cam kết không hoạt động cho CSVM nữa. Sở dĩ Trí Quang
được viên chức bảo hộ Pháp đứng ra bảo lãnh là do đức Đoan Huy Hoàng Thái
Hậu, thân mẫu của Vua Bảo Đại, đã nghe lời xin của An Nam Phật Học mà đứng
ra yêu cầu chính quyền Pháp tha cho Trí Quang.
Sau
lần phóng thích thứ nhì, Trí Quang liền vào Huế, trụ trì ở chùa Từ Đàm. Từ
đó, bề ngoài Trí Quang làm ra vẻ chỉ chăm lo Phật sự, nhưng bên trong vẫn
tiếp tục hoạt động ngấm ngầm cho CSVM.
Theo
hồ sơ của sở Mật Thám Pháp còn để lại tại Trung Tâm Văn Khố Bộ Chỉ Huy Cảnh
Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế thì Thích Trí Quang gia nhập đảng Cộng Sản vào
năm 1949.
Theo
Tố Hữu, Ủy Viên Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, cánh tay mặt của Hồ tặc
Hồ Chí Minh thì chính Tố Hữu là người đứng ra làm lễ và chấp nhận cho Trí
Quang tuyên thệ vào đảng Cộng Sản Việt Nam vào năm 1949 tại mật Khu Lương
Miêu Dương Hòa thuộc Tỉnh Thừa Thiên.
TRÍ QUANG VỚI PHONG TRÀO HÒA BÌNH
Khoảng
năm 1953, CSVM mở chiến dịch vận động Phong Trào Hòa Bình trong nước và hải
ngoại để áp lực Pháp phải ngưng chiến ở Đông Dương. Vì thế Ủy Ban Bảo Vệ
Hòa Bình được CS lập ra, do HT Thích Trí Độ lãnh đạo. Ở miền Nam, Trí Quang
đã hoạt động tích cực để ủng hộ ủy ban này. Đến năm 1954, sau Hiệp Định
Genève, luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở Sài Gòn cũng thành lập “Phong Trào Hòa
Bình” để yểm trợ cho đường lối chánh trị của Cộng Sản Bắc Việt(CSBV). Ở
Huế, lúc bấy giờ Trí Quang đang làm hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học, cũng
hưởng ứng lời kêu gọi của CSBV, thành lập một Phong Trào Hòa Bình tương tợ
như của LS Nguyễn Hữu Thọ. Nhân sự nòng cốt của Phong Trào Hòa Bình ở Huế,
do Trí Quang thành lập, ngay từ giây phút đầu tiên đã gồm toàn cán bộ CS
nằm vùng thuộc chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến. Ngoài ra, còn có
sự tham gia của một số trí thức miền Trung như: Nguyễn Cao Thăng, bác sĩ
Thú Y Phạm Văn Huyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Nguyễn Văn Đẳng v.v...
Ngày
29.8.1954, Phong Trào Hòa Bình (PTHB) đã tổ chức lễ ra mắt tại Sài Gòn, và
phổ biến tuyên cáo 2 điểm:
Yêu
cầu quân Pháp rút khỏi miền Nam, và phải tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử
theo tinh thần hiệp định Genève. Gần một tháng sau, ngày 21.9.1954, Phong
Trào Hòa Bình tổ chức một cuộc biểu tình khá lớn tại Sài Gòn đòi chánh phủ
của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phải trả những người Bắc di cư về lại miền Bắc
và tổ chức hiệp thương, rồi tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc.
Trước
tình thế đó, bắt buộc chánh phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phải tỏ thái
độ. Ngày 7.11.1954, chánh phủ ra lịnh bắt giam tất cả những nhân vật trí
thức đã tham gia hoạt động trong phong trào này. Ở Sài Gòn, LS Nguyễn Hữu
Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, Kha Văn Dưỡng, cùng với
một số ký giả như Nguyễn Bảo Hóa, Trần Chi Lăng... đều bị bắt.
Ở
Huế, Thích Trí Quang, Nguyễn Cao Thăng, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ,
Phạm Văn Huyến v.v...cũng không thoát khỏi mạng lưới an ninh. Nhưng, ở miền
Trung, ông Ngô Đình Cẩn đã dùng lời ngon ngọt, đem tiền bạc, địa vị và lợi
lộc ra chiêu dụ Trí Quang và đồng bọn. Ông Cẩn tin chắc rằng: với những tài
liệu cụ thể của Phòng Nhì Pháp, chứng minh rõ ràng Trí Quang đã từng hoạt
động ngấm ngầm cho CS từ lâu, hiện đang nằm trong tay ông, thì Trí Quang sẽ
không đời nào dám cựa quậy, hay sanh lòng phản trắc nữa.
Đến
ngày 9. 2.1955, chánh phủ Ngô Đình Diệm đã ra lịnh tống xuất 26 nhân vật
đầu xỏ của Phong Trào Hòa Bình ra Hải Phòng, trao cho CSBV. Nhưng trong số
đó đã không có Trí Quang, không có Lê Khắc Quyến, Nguyễn Cao Thăng, và
Nguyễn Văn Đẳng... Chẳng bao lâu sau, Lê Khắc Quyến đã được ông Ngô Đình
Cẩn trọng đãi, làm y sĩ riêng cho thân mẫu của Ngô Đình Cẩn, lại còn được
bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại Học Y Khoa, Viện Đại Học Huế, giám đốc bịnh
viện trung ương Huế. Nguyễn Cao Thăng được làm chủ nhân ông công ty bào chế
thuốc tây OPV, Nguyễn Văn Đẳng, từ ngạch Thừa Phái được chuyển ngạch sang
Tham Sự Hành Chánh, rồi được bổ nhiệm đi giữ chức tỉnh trưởng. Từ năm 1955
đến 1963, Nguyễn Văn Đẳng đã được bổ làm tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị
trưởng Huế.
Riêng
Trí Quang thì được ông Cẩn bỏ tiền ra giúp đỡ trùng tu lại chùa Từ Đàm cho
thêm phần khang trang. Nên biết chùa Từ Đàm đã xây nên từ năm 1703, thời
Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Khởi đầu chùa này mang tên “Ấn Tôn Tự”. Đến đời
vua Thiệu Trị (1841- 1847) chùa đổi tên là Từ Đàm (3 chữ “Ấn Tôn Tự” bị coi
như phạm húy). Vì là một ngôi cổ tự, xây cất bằng những vật liệu thô sơ,
nên đến thời Bảo Đại chùa Từ Đàm đã bắt đầu bị hư mục.
Bởi
thế trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1963, đồng bào miền Trung,
nhất là dân Huế, không còn ai lấy làmlạ khi thấy thỉnh thoảng ông Cẩn đã
đến chùa Từ Đàm ăn cơm chay với TT Trí Quang. Ngoài ra ông Cẩn còn tích cực
yểm trợ cho các hoạt động Phật Giáo của Trí Quang, ở chùa Từ Đàm, tô điểm
thêm hào quang và làm tăng thêm uy tín cho Trí Quang.
Ông Cẩn đinh ninh rằng: với hồ sơ của Phòng Nhì Pháp
trong tay cộng thêm sự giúp đỡ tiền bạc dồi dào, chắc chắn ông đã nắm gọn
được cả phần hồn lẫn phần xác của Trí Quang. Nhưng ông Cẩn đã sai lầm hoàn
toàn. Con rắn CS dù đã lột da bao nhiêu lần, nó vẫn là con rắn.
Ông
Ngô Đình Cẩn đã chơi trò “nuôi ong tay áo”, vì thế mà ông Cẩn và cả gia
đình ông ta đã bị Trí Quang tàn sát, đồng thời kéo theo cả sự sụp đổ của
chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.
TRÍ QUANG VÀ ĐỆ I VNCH
Cho
đến nay ai cũng biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị quân đội, theo lệnh của
Mỹ, làm đảo chánh. Ngược lại, nếu bấy giờ Mỹ chưa muốn lật đổ Diệm thì dù
cho Trí Quang, Thiện Minh và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung có mọc
thêm ba đầu sáu tay cũng không làm nên chuyện. Ngày nay Quảng Độ Nói năm
1963 Phật Giáo đã làm một ‘cuộc Xuống Đường không tiền khoáng hậu’ để lật
đổ một chính thể ‘ngoại bang’, thật là láo khoét. Thực chất Trí Quang chỉ
là một tu sĩ Phật Giáo có một trình độ học vấn rất đơn sơ của bậc tiểu học,
với một mớ chữ Hán giới hạn đủ để đọc kinh sách. Trí Quang không có trình
độ Hán học của một nhà Nho,và cũng không có chút hiểu biết gì về Tây học.
Ngoài tiếng mẹ đẻ, Trí Quang không nói được một ngoại ngữ nào, dù là Anh
hay Pháp ngữ. Bởi thế, ta thấy đi đâu Trí Quang cũng phải dắt theo Đại Đức
Thích Nhật Thiện, như một bí thư kiêm thông dịch viên. Với căn bản đó, nên
tầm hiểu biết của Trí Quang rất hạn hẹp.
Theo
hồ sơ của Phòng Nhì Pháp, người ta được biết, Võ Đình Cường vốn là một đảng
viên CS thâm niên. Cường đã được kết nạp vào đảng từ năm 1943, cùng một
lượt với TT Thích Minh Châu, về sau Minh Châu đã trở nên Viện Trưởng Viện
Đại Học Vạn Hạnh. Võ Đình Cường đã được CS chỉ định công tác tuyên vận
trong giới Phật Giáo miền Trung. Suốt trong thời gian từ 1947 cho đến 1965,
Võ Đình Cường đã bị bắt giam vì tội hoạt động cho CS nhiều lần, nhưng đều
được Trí Quang bảo lãnh, xin trả tự do. Kể từ cuối năm 1963, tựa vào thế
lực Phật Giáo đấu tranh miền Trung đang trên đà thắng lợi, Võ Đình Cường đã
ra mặt hoạt động công khai, không còn e ngại gì mạng lưới an ninh của chế
độ đệ nhị CH miền Nam.
Sau
năm 1975, Võ Đình Cường đã được đảng CSVN cử làm dân biểu quốc hội, kiêm
tổng biên tập tạp chí Giác Ngộ, cơ quan tuyên vận chánh thức của lực lượng
Phật Giáo thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN. Trụ
sở tạp chí Giác Ngộ đặt ở số 85 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, thành phố
Sài Gòn.
Theo
dõi, quan sát kỹ lưỡng cuộc đấu tranh từ khởi đầu, 5.1963, cho đến ngày
miền Nam mất vào tay Cộng Sản Việt Nam, 30.4.1975, người ta nhận ra các
phương thức xách động quần chúng đô thị đấu tranh kiểu Cộng Sản đã được Trí
Quang và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung đem ra áp dụng triệt để. Trí
Quang và Phật giáo miền Trung đã đẻ ra một tổ chức chánh trị hoạt động song
hành lấy tên là “HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC” và nhóm “LẬP TRƯỜNG”, sặc mùi
Cộng Sản, do toàn cán bộ CS nằm vùng đứng ra lãnh đạo như: Lê Khắc Quyến,
chủ tịch chi bộ Thuận Hóa, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Ngọc Bang, Cao
Huy Thuần, anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, và Lê Văn Hảo
(hiện đang ở Pháp)...
Vì
cái tên “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” sặc sụa mùi CS và lộ liễu quá, khó thu
hút được các thành phần khác, nên chỉ một thời gian ngắn sau, Trí Quang ra
lịnh cho cải danh là “LỰC LƯỢNG TRANH THỦ CÁCH MẠNG”. Đây chỉ là trò “bình
mới rượu cũ”, một thủ đoạn chánh trị quen thuộc của CS, chẳng khác nào như
đảng Cộng Sản Việt Nam cải danh thành đảng Lao Động vậy!
Lực
Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, hậu thân của Hội Đồng Dân Nhân Cứu Quốc, ra đời
với sự tham gia bí mật của nhiều cán bộ cao cấp CSBV, nhắm mục tiêu thừa
thắng xông lên, mượn danh nghĩa nhân dân bị độc tài gia đình trị áp bức nổi
dậy, cướp chánh quyền miền Nam bằng bạo lực chánh trị. Nếu mục tiêu lớn,
toàn quốc không đạt được, Trí Quang sẽ tiến tới kế hoạch thỏa hiệp với một
số tướng lãnh gốc miền Trung, tranh đấu đòi “MIỀN TRUNG TỰ TRỊ”, làm cho
chế độ miền Nam bị tê liệt. Trong thời gian kể từ sau ngày 1.11.1963 trở
đi, Trí Quang tuy khoác áo tu hành, nhưng thực ra là một lãnh chúa quyền
khuynh thiên hạ, các tướng lãnh cầm quyền đều kiêng dè, nể mặt. Điều này ai
cũng đã thấy biết. Đặc biệt nhất là Tướng Dương Văn Minh.
TRÍ QUANG DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Hiện
nay Thích Trí Quang hãy còn sống ở Việt Nam. Nhưng từ 1975 cho đến bây giờ,
không ai nghe nói đến một hoạt động nào, hay một lời tuyên bố nào của Trí
Quang.
Theo
bài báo “CON ĐƯỜNG KHÚC KHỈU” của Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ cao cấp đặc
trách Ban Tôn Giáo Vận đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kể lại những thành tích
của ông ta trong thời gian còn hoạt động bí mật thì sau ngày 30.4.1975, Trí
Quang đã bị CSVN liệt vào thành phần “CIA CHIẾN LƯỢC”.
Đỗ
Trung Hiếu đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1956, và là một cán bộ nằm vùng,
hoạt động trong khối Phật Giáo ở miền Nam, đặc trách theo dõi các cuộc đấu
tranh của Phật Giáo từ năm 1963. Vì thế Hiếu đã quen biết rất nhiều tăng sĩ
thế lực thuộc cả hai phe Ấn Quang của Thích Trí Quang và Việt Nam Quốc Tự
của HT Thích Tâm Châu. Đỗ Trung Hiếu kể, khi được lịnh vận động khối Phật
Giáo để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN), (tức tổ chức Phật
Giáo Quốc Doanh), ông ta đã trình bày vai trò quan trọng không thể thiếu
của Trí Quang với các thượng cấp chỉ huy trực tiếp là Trần Bạch Đằng và
Xuân Thủy. Lúc bấy giờ Xuân Thủy đang giữ chức Bí Thư Trung Ương Đảng, kiêm
trưởng ban Dân Vận Trung Ương, còn Trần Bạch Đằng làm Phó Trưởng Ban.
Khi
nghe Đỗ Trung Hiếu nói về vai trò cần thiết của Trí Quang trong tổ chức
GHPGVN, Trần Bạch Đằng đã gạt phắt đi, và không đồng ý cho Trí Quang tham
dự vào tổ chức này. Vì theo nhận xét của Trần Bạch Đằng thì Trí Quang thuộc
loại “CIA CHIẾN LƯỢC”, không thể nào dùng được nữa.
Ít
lâu sau Nguyễn Văn Linh thay thế Xuân Thủy lên làm Trưởng Ban Dân Vận Trung
Ương, cũng hoàn toàn đồng ý với Trần Bạch Đằng, cho rằng Trí Quang là người
không thể xài được nữa.
Kết
quả, ngày 4.11.1981, đại hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo VN (quốc doanh)
gồm có sự tham gia của phe Ấn Quang, tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, đã
bầu ra một Hội Đồng Trị Sự như sau: chủ tịch HT Thích Trí Thủ, phó chủ tịch
HT Thích Trí Tịnh, còn HT Thích Đôn Hậu làm phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật của
Hội Đồng Chứng Minh... Như vậy, bạn đọc đã thấy rõ, trong suốt cuộc chiến
Quốc- Cộng ở VN, dù cho Trí Quang đã lập nên được rất nhiều công trạng lớn
với CSVN, nhưng Trí Quang đã bị các đồng chí của hắn phát hiện Trí Quang là
một CIA chiến lược vì vậy mà con đường hoạn lộ của hắn trong đảng Cộng Sản
Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã bị tắc nghẽn. Bản chất vốn là tên
hèn hạ, khiếp nhược, nên chắc chắn rằng sau tháng 4.1975 và cho đến khí hắn
về 9 tầng địa ngục hắn sẽ mãi mãi âm thầm ngậm miệng.
THƯỢNG TỌA THÍCH MINH CHÂU VIỆN TRƯỞNG VIỆN ĐẠI HỌC VẠN HẠNH KIÊM
VIỆN TRƯỞNG HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT TẠI SÀIGÒN (CHÍNH LÀ ĐINH VĂN NAM
MỘT CÁN BỘ CAO CẤP CỦA CỘNG SẢN HÀ NỘI)
|
Thích Minh Châu trong một
"chuyến công tác" tại
Triều Tiên (daidoanket.vn)
|
|
Thích Minh Châu (giữa)
|
Thích
Minh Châu, một cán bộ cao cấp của Cộng Sản Hà Nội nằm vùng trong Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất đã qua đời hôm 1.9.2012 tại Sài Gòn, hưởng thọ 94 tuổi.
Năm
1964, Thích Minh Châu đã được GHPGVNTN can thiệp bằng mọi giá để buộc Tướng
Nguyễn Khánh phải cho ông từ Ấn Độ về Sài Gòn làm Viện Trưởng Viện Đại Học
Vạn Hạnh và ông đã từng giữ chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục trong Giáo
Hội Phật Giáo Ấn Quang cho đến sau năm 1975.
QUÊ QUÁN
Ở
Việt Nam, ít ai biết đến hành tung của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện
Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam… vì
ông giấu rất kỹ. Hòa Thượng Thích Minh Châu có tên thật là Đinh Văn Nam, sinh ngày 20.10.1918.
Tài
liệu VNCH ghi ông sinh ở làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An. Gia đình Hòa Thượng Minh Châu thuộc dòng dõi khoa bảng. Thân phụ
ông là cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học của nhà Nguyễn, thân mẫu là bà Lê
Thị Đạt.
Ông
là con thứ 3 của gia đình có 8 con, theo thứ tự như sau: Đinh Văn Kinh là
con trưởng, đến Đinh Văn Quang, Đinh Văn Nam (tức Hòa Thượng Minh Châu),
Đinh Văn Linh, Đinh Văn Phong, Đinh Thị Kim Hoài, Đinh Thị Kim Thai và Đinh
Thị Khang.
Trong năm 1940, Đinh Văm Nam đã lập gia đình với cô Lê
Thị Bé. Đinh Văn Nam ở với vợ là Lê Thị Bé được 3 năm, sinh được hai người
con, một trai và một gái. Người con trai đầu lòng tên là Đinh Văn Sương.
Người con gái tên là Đinh thị Phương.
Năm
1943, Đinh Văn Nam vào Huế và xin làm thừa phái (thư ký) cho tòa Khâm Sứ
của Pháp ở Huế. Từ đó ông rất ít khi về Nghệ An thăm vợ con.
Theo
hồ sơ của mật thám Pháp để lại, Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc Trường An
Nam Phật Học ở Huế gia nhập Đảng Cộng Sản năm 1941, còn Đinh Văn Nam và Võ
Đình Cường gia nhập đảng Cộng Sản năm 1943.
Bác
sĩ Lê Đình Thám đã phân công cho Võ Đình Cường hoạt động trong giới Phật
tử, còn Đinh Văn Nam hoạt động trong giới tăng sĩ.
PGVNTN
ĐƯA CÁN BỘ CỘNG SẢN CAO CẤP ĐINH VĂN NAM TỨC THÍCH MINH CHÂU VÀO HOẠT ĐỘNG
TẠI SÀIGÒN.
Năm
1964, khi GHPGVNTN mới được thành lập, Viện Hoá Đạo của Giáo Hội này đã
viết văn thư xin chính phủ Nguyễn Khánh cho Thượng Tọa Thích Minh Châu ở Ấn
Độ được về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh sắp được thành lập. Tướng
Nguyễn Khánh yêu cầu cơ quan an ninh sưu tra lý lịch.
Cơ
quan an ninh đã sưu tra hồ sơ và tìm thấy Đinh Văn Nam và Võ Đình Cường đã
vào Đảng Cộng Sản năm 1943. Đinh Văn Nam có vợ và hai con đang ở miền Bắc.
Cơ
quan an ninh liền liên lạc với Tòa Đại Diện VNCH ở Ấn Độ và xin cho biết
trong thời gian ở Ấn Độ, Thích Minh Châu đã sinh hoạt như thế nào. Tòa Đại
Diện cho biết trong thời gian ở Ấn Độ, Thích Minh Châu đã hoạt động cho Hà
Nội. Tòa Đại Diện đã cung cấp nhiều bằng chứng về sự kiện này.
Bằng
chứng thứ nhất:
Năm
1952, Trung Quốc đã mở Hội Nghị Hòa Bình Châu Á và Thái Bình Dương ở Bắc
Kinh. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gởi một phái đoàn tới tham dự. Phái đoàn do
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường làm trưởng đoàn. Thích Minh Châu từ Ấn Độ đã lén
qua Bắc Kinh tham gia phái đoàn. Sau hội nghị, phái đoàn đã đưa ra một bản
tuyên bố trong đó có đoạn như sau: “Nhân dân thế giới đều đồng tình, đòi
quân đội ngoại quốc xâm lược phải rút ra khỏi 3 nước Việt, Miên, Lào, 3
nước Việt, Miên, Lào độc lập hoàn toàn và thực sự.”
Bằng
chứng thứ hai:
Ngày
10.2.1958 Hồ Chính Minh qua Ấn Độ vận động thống nhất Việt Nam, đòi tổng
tuyển cử. Công việc tiếp đón đều do Thích Minh Châu phụ trách. Hà Nội có
cho ông Nguyễn Di Niên đi theo làm thông dịch. Nhưng khi đến Ấn Độ, Thích
Minh Châu là thông dịch viên chính của Hồ Chí Minh. Tòa Đại DiệnVNCH có gởi
về một tấm hình Thích Minh Châu chụp chung với Hồ Chí Minh tại Red Fort ở
thủ đô Delhi, trong một cuộc mít-tinh do Thích Minh Châu tổ chức.
Tướng
Nguyễn Khánh đã thông báo các tài liệu này cho Viện Hóa Đạo biết và nói
rằng chính phủ rất tiếc không thể cho Thích Minh Châu trở về Việt Nam được,
vì ông đang hoạt động cho Việt Cộng ở Ấn Độ.
Vốn
tự coi mình là một tổ chức quyền lực tối cao, sống trên và ngoài luật pháp
quốc gia, GHPGVNTN liền gởi cho Tướng Nguyễn Khánh một văn thư nói rằng
ngoài Thích Minh Châu ra, hiện tại không tăng sĩ Phật Giáo nào có đủ khả
năng làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, vậy xin cứ để cho Thích Minh
Châu về, Giáo Hội bảo đảm sẽ không cho Thích Minh Châu hoạt động cho Việt Cộng
nữa.
Thích
Trí Quang còn đe dọa rằng nếu Tướng Nguyễn Khánh không đáp ứng nhu cầu
chính đáng của Phật Giáo, Phật Giáo bị bắt buộc phải hành động.
ĐỆ TAM TĂNG THỐNG THÍCH ĐÔN HẬU
|
Thích Đôn Hậu khi đi Mông Cổ
tuyên truyền chống VNCH năm 1969,
Việt Cộng Tôn Thất Dương Tiềm
(phía sau) tháp tùng (vietbao.vn)
|
-
Pháp danh Trừng Nguyên, hiệu Đôn Hậu, thuộc đời thứ 8 phái thiền Liễu Quán,
thế danh là Diệp Trương Thuần. Sinh ngày 16 tháng 12 năm 1905 tức ngày Mười
Ba tháng Giêng năm Ất Tỵ. Sinh quán tại làng Xuân An, Tổng An Đồn, phủ
Triệu Phong Tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Diệp Văn Kỷ làm nghề lương y, mẹ là
Nguyễn Thị Cựu, bà mất năm Diệp Trương Thuần mới có 9 tuổi.
-
Xuất gia vào năm 19 tuổi, vào ngày 19 tháng 6 năm 1923 tức năm Quý Hợi,
Chùa Tây Thiên và nhận sư Tâm Tịnh trù trì chùa Tây Thiên làm Sư Phụ. Chùa
Tây Thiên nằm về phía tây nam thành phố Huế thuộc quận Hương Thủy tỉnh Thừa
Thiên.
-
1945, thay thế bác sĩ Lê Đình Thám giữ chức Chánh Hội Trưởng Hội An Nam
Phật Học Thừa Thiên và, cũng trong năm nầy, nhận chức Trù trì Quốc tự Linh
Mụ.
-
1946, giữ chức Chủ Tịch Phật Giáo Liên Hiệp Trung Bộ.
-
1947, bị sở Mật Thám Pháp tại Huế bắt giữ vì can tội hoạt động cho Việt
Minh Cộng Sản. Đức Đoan Huy Hoàng Thái hậu tức Đức Từ Cung thân mẫu vua Bảo
Đại đứng ra bảo lãnh nên được Mật Thám Pháp trả tự do.
-
1963, thực hiện chỉ thị của Cộng Sản Hà Nội (theo lời khai của Thành Ủy
Viên thành ủy Việt Cộng Hoàng Kim Loan bị Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa
Thiên-Huế bắt vào mùa hè năm 1972) , lãnh đạo quần chúng tham gia vào cuộc
nổi loạn lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa, sát hại Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm.
Năm
1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Thích Đôn Hậu
được cử làm Chánh Đại Điện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh
(miền Trung).
Tháng
1 năm 1968, Thích Đôn Hậu được Cộng Sản Hà Nội mời tham gia Mặt Trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Tháng
1 Mậu Thân 1968, Thích Đôn Hậu là Phó Chủ Tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân
Chủ và Hòa Bình Việt Nam. Đây là một lực lượng chính trị thứ 2 vừa được Bộ
Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh thành lập trước Tết Mậu
Thân 1968 chỉ có mấy ngày. Lực Lượng Chính trị thứ nhất là Mặt Trận Giải
Phong Miền Nam. Liên Minh các Lực Lượng Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam là lực
lượng chủ lực chính trong vụ tàn sát 5327 thường dân vô tội và bắt đi mất tích
1200 người trong những ngày Tết Mậu Thân tại Huế. Sau đó Thích Đôn Hậu cùng
với một số nhân vật chủ yếu trong tổ chức nầy thoát ly ra Bắc. Trong suốt 8
năm, từ 1.1968- 30.4.1975 bọn chúng là khách quý của Bộ Chính Trị đảng Cộng
Sản Việt Nam (Lê văn Hảo trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Nguyễn An đài
RFI Pháp quốc). Cũng trong thời gian nầy bọn chúng thực hiện những cuộc
thăm viếng ngoại giao tuyên truyền cho chính phủ Cộng Sản Hà Nội tại các
nước Cộng Sản như Trung cộng, Mông Cổ, Nga Sô v.v…
Tháng
6 năm 1968, Thích Đôn Hậu là Ủy Viên Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ Lâm Thời
Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
-1970,
công du Nga sô, Trung Cộng; 1971, công du Mông Cổ Tất cả các lần công du
nầy không ngoài mục đích tuyên truyền cho Cộng Sản Việt Nam về cuộc chiến
xâm lăng miền Nam mà bọn chúng cho là chính nghĩa.
-1975,
cố vấn cho Ban chỉ Đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội PGVNTN.
-1976,
Đại Biểu Quốc Hội Khóa VI nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
-1976,
Ủy viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Đây là
một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trở
lại Huế sau ngày 30.4.1975 và những năm cuối đời, Thích Đôn Hậu quay trở
lại chống đối chính phủ Cộng Sản Việt Nam chẳng phải hối hận, vì lầm đường
theo Cộng Sản mà sát hại dân Huế vào Mậu Thân 1968. Y chống lại bọn Cộng
Sản chỉ vì bị chúng vắt chanh bỏ vỏ, ngay cả một chút cơm thừa canh cặn bọn
chúng cũng không bố thí cho ông ta.
Giả
thử rằng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 ông Thích Đôn Hậu được bọn Cộng Sản
Việt Nam tâng bốc đưa vào ghế Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam, chức cao quyền
trọng v.v… thì sẽ không bao giờ có chuyện “Ngài chống Cộng Sản quyết liệt”
như luận điệu truyên truyền của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo Hải Ngoại của
Thích Viên Lý và Võ văn Ái, có phải vậy không hai “Ngài” Viên Lý và Võ văn
Ái?
Thích
Đôn Hậu tạ thế ngày 23 tháng 4 năm 1992 tại Chùa Linh Mụ, Huế.
THÍCH THIỆN SIÊU TRÙ TRÌ CHÙA TỪ ĐÀM, HUẾ
Pháp
danh Tâm Phật, hiệu Thiện Siêu, tục danh Võ Trọng Tường, sinh ngày Mười Lăm
tháng Bảy năm Tân Dậu tức năm 1921, chánh quán làng Thần Phù, huyện Hương
Thủy tỉnh Thừa Thiên.
Xuất
gia năm 14 tuổi tức năm 1935 tại chùa Quan Thánh tức là Chùa Ông phía sau Chùa
Diệu Đế thuộc Quận II thị xã Huế. Sư Phụ là Thầy Mật Khế. Sau đó chuyển lên
tu tại Chùa Trúc Lâm thuộc xã Thủy Xuân, Quận Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên.
Khi được thành lập, do Thích Trí Độ và cư sĩ Lê Đình Thám, Hội An Nam Phật
Học mở trường đào tạo tăng ni. Thích Thiện Siêu được tuyển vào học trường
nầy. Trường nầy được đặt tại Chùa Bảo Quốc, ngay dưới dốc Nam Giao gần chùa
Từ Đàm.
Theo
khuyến dụ của Thích Trí Độ và cư sĩ Lê Đình Thám, Thích Thiện Siêu gia nhập
đảng Cộng Sản Việt Nam vào năm 1944.
-1947,
được cử làm Trù Trì Chùa Từ Đàm, Huế.
-1962,
giữ chức hội Trưởng Hội Phật Học Thừa Thiên.
-1963,
là một trong những thành phần lãnh đạo chủ chốt của phong trào tranh đấu
Phật Giáo tham gia cuộc phản loạn lật đổ nền Đệ I Việt Nam Cộng Hòa và sát
hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Thích
Thiện Siêu nằm trong Chi Bộ Đảng Cộng Sản Thuận Hóa tại Huế của Bác sĩ Lê
Khắc Quyến. Y hoạt động trong Tổ Trí Thức Vận và Tôn Giáo Vận nội thành gồm
có Bác Sĩ Hoàng Bá, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm,
Giáo sư Nguyễn Đóa, Giáo sư Nguyễn Tuân, Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa
Thiên Huế Đoàn Công Lập (từ 7.1966- 2.1968). Tổ chức trí thức vận và tôn
giáo vận nầy có hai trạm giao liên (gặp gỡ, tiếp xúc). Trạm thứ nhất là
phòng mạch của bác sĩ Hoàng Bá ở ngay đường Phan Chu Trinh thuộc Quận III
thị xã Huế gần cầu Nam Giao. Trạm thứ hai là Chùa Trúc Lâm thuộc xã Thủy
Xuân quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
-1964,
giữ chức Phó Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Miền Vạn Hạnh.
Sau
1963-1966, chùa Từ Đàm của Thích Thiện Siêu là cơ quan đầu não chỉ huy cuộc
biến động chính trị. Đây là Trung Tâm Quyền Lực, là Dinh Quốc Phụ của Thích
Trí Quang.
Tết Mậu Thân 1968, chùa Từ Đàm là nơi đặt Bộ Chỉ Huy An
Ninh của mặt Trận Huế. Nơi đây là trung tâm thẩm vấn, tra khảo, và xử bắn
tù nhân, những Quân Cán Chính VNCH mà Việt Cộng đã bắt giữ trong thời gian
bọn chúng chiếm Huế.
Tháng
5.1972, Mùa Hè Đỏ Lửa, tổ chức trí vận nầy đã bị Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc
Gia Thừa Thiên phá vở và một số cán bộ nội thành nầy đã bị bắt giữ.
-1981,
Thích Thiện Siêu công du hội nghị Hòa Bình tại Moscow.
-1985,
Thiện Siêu được Cộng Sản Việt Nam đề cử làm Trưởng Phái đoàn Phật Giáo Việt
Nam công du hai nước Mông Cổ và Nga.
Từ
4.1987, Thiện Siêu được bầu vào đại biểu Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam liên
tiếp 3 khóa: Khóa 8, khóa 9, và khóa 10.
-1989,
làm Trưởng phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tham dự hội nghị Hòa Bình Á Châu tổ
chức tại Mông Cổ.
-1994,
làm Trưởng Phái Đoàn công du Ấn Độ.
-1995,
làm Thành viên của Phái Đoàn Quốc Hội Việt Nam do chủ tịch CS Nông Đức Mạnh
dẫn đầu đi thăm một số nước Đông Âu và Nghị Viện Âu Châu.
-1999,
làm Trưởng Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam công du Trung Cộng.
-2000,
nhận lãnh Huân Chương Độc Lập hạng II do đảng Cộng Sản Việt Nam và chính
phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trao tặng.
Tạ thế ngày 3 tháng 10 năm 2001 tại Chùa Từ Đàm, Huế,
thọ 81 tuổi.
Kết
luận: Trong cuộc chiến tranh Quốc
Cộng, lợi dụng sự tôn trọng tự do và nhân quyền của của chính phủ VNCH,
cộng sản đã cài cấy quá nhiều cán bộ nằm vùng nội tuyến trên các mặt trận
quân sự và an ninh chính trị. Về mặt chính trị, cộng sản sử dụng 3 mũi tấn
công, một là tôn giáo vận, hai là trí thức vận, ba là quần chúng vận. Ba
mũi tấn công này nhằm mục đích tạo nên một bộ mặt xã hội xáo trộn toàn diện
về chính trị, trong đó dân chúng Miền Nam chống chính phủ VNCH. Từ đó, bọn
cộng sản mới có thể dối gạt dân chúng Hoa Kỳ rằng dân Miền Nam thích cộng
sản, và từ đó mới có thể đẩy mạnh phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ nhằm tiến
tới việc áp lực chính quyền Hoa Kỳ bỏ cuộc, tức là chấm dứt viện trợ cho
Miền Nam Việt Nam, trong lúc đó thì Hà Nội luôn được bảo đảm nguồn viện trợ
dồi dào của khối cộng sản đặc biệt là Trung Cộng. Có như vậy cộng sản sẽ
dứt điểm được Miền Nam.
Để
công bằng trong vấn đề phán xét, hãy điểm lại thành quả của ba chiến lược
chính trị nói trên.
Trong
ba mũi nhọn chính trị này, mũi nhọn quần chúng Việt Cộng đã hoàn toàn thất
bại, cộng sản đã không thể nào quyến dụ dân chúng Miền Nam đi theo cộng
sản.
Mũi
nhọn thứ hai là trí thức vận, một số người được chính phủ VNCH tạo điều
kiện cho ăn học, kể cả du học và có đời sống cao hơn hơn người dân trung
bình tại Miền Nam rất nhiều, nhưng thay vì dùng sở học đó để giúp dân giúp
nước chống lại cộng sản thì bọn trí thức vận này lại đi theo giặc cộng,
phản dân hại nước, chẳng hạn Lê
Văn Hảo, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Hoàng Phủ Ngọc Tường Hoàng Phủ
Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Trần Ngọc Liễn, Tôn Nữ
Thị Ninh, Nguyễn Hữu Thái, Trịnh Công Sơn, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi,
Hoàng Văn Giàu, Ngô Kha, Phạm Thị Xuân Quế v.v. Tuy nhiên mũi nhọn
trí thức vận này cũng không làm nên cơm cháo gì, cũng không sách động được
ai ngoài chính bọn chúng với nhau đăng đàn diễn thuyết chống chính phủ VNCH
với nhau mà thôi.
Mũi
nhọn thứ ba Tôn Giáo Vận, đây thực sự là thứ vũ khí vô cùng oan khiên, đã
giúp cộng sản thành công trong chiến lược gây dựng và phát động tinh thần
phản chiến trong công luận Hoa Kỳ. Nói một cách ngắn gọn, cộng sản đã thành
công khi sử dụng những tên cán bộ đầu trọc tổ chức biểu tình bị thiêu bàn
thờ Phật xuống đường kêu gào Phật Giáo bị đàn áp.
Tiêu
biểu trong nhóm này là Thích
Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Minh Châu, Thích Thiện Siêu và sau đó là
Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, Thích
Thiện Hoa v.v. Dùng những
tên cộng sản cho cạo trọc đầu để sách động quần chúng quả thật hữu hiệu gấp
trăm lần Trí Thức Vận và Quần Chúng Vận.
Những
chiêu bài mà GHPGVNTN đã gán cho chính quyền VNCH như sau: Độc Tài Gia Đình
Trị, Đàn Áp Phật Giáo, Độc Tài Quân Phiệt.
Thế
nào gọi là độc tài? Khi tổng thống được bầu chọn thì ông đương nhiên là
tổng tư lệnh quân đội, và quân đội phải phục tùng lệnh của ông, do đó ông
có toàn quyền bổ nhiệm tất cả những người mà ông nghĩ rằng tốt cho việc
điều hành đất nước, để lèo lái đất nước theo một hướng mà người tổng thống
muốn. Đó là nguyên tắc lãnh đạo và điều hành đất nước, cớ sao lại gọi là
độc tài quân phiệt? cớ sao lại cho là độc tài gia đình trị đàn áp đối lập?
Chẳng lẽ bầu tổng thống lên rồi để cho PGVNTN hay các đảng phái chính trị
khác tự động chia ghế trong chính phủ và quyết định chính sách quốc gia hay
sao? Nếu như vậy, thì đây là thứ “chính phủ hội đồng”, có nghĩa một tập hợp
mà ai muốn làm gì thì làm, như vậy đó là lãnh đạo hay phá hoại? Thưa thứ
lãnh đạo hội đồng đó chính là “hội đồng phá hoại” không hơn không kém. Điển
hình của loại chính phủ này đó là sáu chính phủ trong hai năm 1964-1966 sau
khi TT Ngô Đình Diệm bị sát hại, bao gồm Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan
Khắc Sữu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát. Dân chủ không phải là thứ hổ lốn
muốn làm gì thì làm của các ông bà đối lập thời kỳ 1954-1963, trong khi
Tổng Thống được dân bầu ra thì phải chấp nhận sự đòi hỏi của đảng phái và
của quý vị. Khi không được chia ghế thì chụp mũ là độc tài gia đình trị.
Quả thật, đó là thứ suy nghĩ ngu xuẩn của một thế hệ chính trị gia và các
đảng phái chính trị bát nháo dưới thời lập quốc của chính phủ TT Ngô Đình
Diệm. Tư tưởng này đã bị cộng sản lợi dụng và kích động qua phong trào Phật
Giáo Tranh Đấu một cách hữu hiệu, đưa đến tiêu diệt quan hệ lãnh đạo quốc
gia, trong lúc kẻ thù cộng sản nắm chặt quan hệ lãnh đạo trong tay, toàn bộ
Miền Bắc phải đi theo một hướng, răm rắp tuân theo mọi chỉ thị của Đảng hy
sinh chống Mỹ. Kẻ nào có tư tưởng chống đối là lập tức bị thanh trừng và
mất mạng. Cứ so sánh hai sức mạnh lãnh đạo của hai miền Nam Bắc để thấy
rằng hơn ai hết chính nhóm Phật Giáo Tranh Đấu của GHPGVNTN là kẻ phá hoại
hàng đầu chính quyền Miền Nam qua phong trào Phật Giáo Tranh Đấu và phong
trào Bàn Thờ Phật Xuống Đường và hàng loạt các hoạt động chính trị khác cho
đến tận ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kết
tội TT Ngô Đình Diệm là đàn áp Phật Giáo trong lúc ông đã hết lòng giúp đỡ
phát triễn Phật Giáo, cho thành lập hội
Phật Học này hội Phật Giáo kia và cho xây thêm trên 2000 ngôi chùa! Điểm
lại tình hình phát triễn tôn giáo nói chung dưới thời TT Ngô Đình Diệm, thì
thấy chỉ có Phật Giáo là được ưu đãi nhất, thế nhưng bọn cộng sản và
đám thầy chùa Phật Tử cộng sản vẫn lập đi lập lại ông đàn áp Phật Giáo, vì
sao? vì đó là bổn phận của bọn cộng sản đầu trọc đối với Hồ Chí Minh. Kết
quả của phong trào Phật Giáo Tranh Đấu là TT Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình
Nhu bị giết, đất nước không có lãnh đạo giỏi, trở thành miếng mồi ngon cho
cộng sản, một đối thủ có quan hệ lãnh đạo quá mạnh vì độc tài khát máu thực
sự. Chín năm sau ngày TT Ngô Đình Diệm qua đời, bọn cộng sản và những bọn thầy
tu cộng sản tiếp tục quậy phá tình hình chính trị Miền Nam.
Hãy
đọc những gì ông Thích Quảng Độ đã đăng báo New York Times ngày 18 tháng 2
năm 1967:
“Nhân dân miền Nam muốn chiến tranh chấm
dứt. Hầu hết không phải Việt cộng nhưng nếu không chấm dứt thì họ sẽ tham
gia vào Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Chính
quyền Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của chúng tôi và
không đại diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng
tôi và được điều khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân
dân Việt Nam trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này
không tồn tại một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt
Nam của chúng tôi bằng cách điều đình với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và
Bắc Việt cũng như sự rút quân của Mỹ” (*).
Tháng 10 năm 1974, trả lời phỏng vấn của AP Thích Quảng
Độ nói: “Nếu Thiệu không chịu xuống thì Ấn Quang sẽ kéo Thiệu xuống” (**).
Cuối cùng Ấn Quang đã kéo Thiệu xuống được, Ấn
Quang giao đất nước lại cho Dương Văn Minh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Tôn Giáo Vận mà Bác và Đảng giao phó.
GHPGVNTN
tức Ấn Quang còn có chối không làm cộng sản nữa không?
Danh
sách của cơ quan USMACV đã điểm danh những tên tuổi phá hoại như sau:
1) Thích Trí Quang.
2) Thích Huyền Quang.
3) Thích Thiện Hoa.
4) Thích Pháp Trí.
5) Thích Pháp Siêu.
6) Thích Trí Thủ.
7) Thích Thanh Vân.
8) Thích Minh Châu.
9) Thích Hộ Giác.
10) Thích Đôn Hậu.
11) Thích Thiện Minh.
12) Thích Nhất Hạnh.
Danh
sách của USMACV này còn rất thiếu, nhưng có lẽ cũng đủ làm bằng chứng cho
Người Việt Quốc Gia hiểu sâu bản chất của những kẻ già mồm vừa ăn cướp vừa
la làng, đã phá hoại chính quyền VNCH cho tan nát, nay mở miệng chống cộng,
đó chính là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Liên Thành
Edited
by Khối Kỹ Thuật UBTTTADCSVN
11/14/2012 UBTTTADCSVN
** Thích Nhất Hạnh, Cao Ngọc Phượng, Thích Trí Quang, và
THÍCH QUẢNG ĐỘ đăng 3 bài báo phản chiến trên tờ New York Times
trong cùng ngày 9 tháng 4 năm 1967. Chúng cắt máu Việt Nam Cộng Hòa bằng
những ngôn từ phản phúc rằng Việt Nam Cộng Hòa không hợp pháp và không nên
tồn tại. (Bấm vào hình bên dưới để mở lớn, xem mục số 4.)
** Ảnh phóng to một trong ba bài báo ghi rõ hai lãnh đạo
cao cấp nhất của Ấn Quang là Cộng
sản Trí Quang và Quảng Độ
đồng ký tên trong bản tin rằng
chúng không chấp nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Ở mục số 2:
"nhân dân miền Nam muốn chiến tranh chấm dứt. Hầu hết không phải Việt
cộng nhưng nếu không chấm dứt thì họ sẽ tham gia vào Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam."
Ở mục số 4: "chính quyền
Nam Việt Nam hiện nay không phải là chính quyền của chúng tôi và không đại
diện cho nhân dân chúng tôi. Nó được Mỹ áp đặt lên chúng tôi và được điều
khiển bởi những tên lính đánh thuê cho Pháp chống lại nhân dân Việt Nam
trước 1954. Nếu chúng tôi được bầu cử tự do, chính quyền này không tồn tại
một ngày. Chúng tôi muốn tự chúng tôi giải quyết vấn đề Việt Nam của chúng
tôi bằng cách điều đình với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt cũng
như sự rút quân của Mỹ. "
Phần sau lá thư ký tên Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ
viết: chúng tôi không chấp nhận cuộc chiến tranh đang xảy ra mà trong đó có
sự hiện diện của các quân đội nước ngoài và quân đội bị ảnh hưởng bởi ngoại
bang.
Posted
in:
0 comments:
Search
Thành Phần Việt Gian Phá Hoại ĐỆ I và ĐỆ II VNCH
Việt gian CS Thích Trí Quang
Thích Quảng Độ biểu tình cho cái gọi là
đòi tự do tôn giáo năm 1963. Ảnh Queme.net. Thich Quang Do speaks at a
rally for the socalled religious freedom in Saigon, 1963
VGCS biểu tình chống chính phủ VNCH
Thích Nhất Hạnh, Thích Huyền Quang, Võ Văn
Ái, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Lạc, Thích Giác Đức,...
Thích Đôn Hậu khi đi Mông Cổ tuyên truyền
chống VNCH năm 1969, Việt cộng Tôn Thất Dương Tiềm (phía sau) tháp tùng.
Ảnh vietbao.vn
Thích Đôn Hậu Nguyễn Hữu Thọ bà Tuần Chi
Hình chụp năm 1976 tại chùa Thiên Mụ:
Thích Đôn Hậu, Chủ tịch Ủy ban Hòa bình Thống nhất Dân tộc của MTDTGPMN vui
vẻ trò chuyện với TBT Lê Duẩn (trái) và TTL Võ Nguyên Giáp (phải) - Ảnh
VNExpress
Labels
Mậu Thân 68/ Hue Massacre 1968
TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
- P.O. Box 6147, Fullerton, CA 92834
- Email: ubtttadcsvn.vg@gmail.com or huemauthan1968@gmail.com
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment