From: hung vu <
Date: Wednesday, June 12, 2013, 4:52 AM
Tạ Phong Tần BI. VC ĐƯA ra Bắc
S.T.T.D
Tưởng Năng Tiến
2013-06-11
Sông Mã chụp từ vị trí cổng trại Thanh
Cẩm. Nguồn ảnh: Gia Đình Thanh Cẩm
Sông Mã chụp từ vị trí cổng trại Thanh Cẩm. Nguồn ảnh: Gia
Đình Thanh Cẩm
Khi mới vào Nam, ông Nguyễn Đăng Mạnh đã
“nẩy ra ý khái quát” thế này:
“Vào Sài Gòn ngay sau 1975, người miền
Bắc quả đã bị choáng ngợp. Nếu có chê thì chê theo một định kiến cũ kỹ về
mặt đạo đức. Thí dụ, đàn bà con gái mặc áo dài không có áo lót, hở ra bên
hông (Ông Vũ Thuần Nho gọi là triangle sexuel) Nhiều cô mặc áo như cái
maillot, có cô mặc quần soóc đi ngoài đường…vv…
Quan sát cảnh vật và sinh hoạt của con
người từ Bắc vào Nam, tôi nảy ra ý khái quát này: từ Bắc vào Nam là đi từ
miền đất nghèo đến nơi giầu có, từ chỗ hàng năm hễ gặp hạn hán hay lụt
lội là đói khát, đến nơi dường như sờ đâu cũng có cái ăn, cây trái, tôm
cá ê hề, muốn chết đói cũng khó.
Nhưng mặt khác, đi từ Bắc vào Nam là đi
từ nơi văn hoá cao đến nơi văn hoá thấp.” (Hồi Ký Của Giáo Sư Nguyễn Đăng
Mạnh).
Có lẽ vì độ “vênh” văn hoá giữa hai miền
rõ ràng (như thế) nên hàng trăm ngàn viên chức, văn nghệ sĩ, và sĩ quan
miền Nam đã được đưa ra Bắc học tập cho ... chóng tốt. Duy có điều đáng
tiếc là khí hậu (cũng như điều kiện sinh sống) “nơi văn hóa cao” không
hiền hoà và tử tế gì cho lắm nên không ít “học viên” đã bỏ mạng tại chỗ,
ngay khi chương trình cải tạo vừa mới bắt đầu:
“Anh em từ trong Nam ra cứ yên trí là
‘học tập một tháng’, nên quần áo mang đi theo làm gì nhiều cho nặng. Ra
đây, đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm
ướt nên cái lạnh càng thêm thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà
tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ các thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc
cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ
run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều.
Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo…
Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn
La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay (1976). Đúng là ‘Giậu đổ bìm
leo’, vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh
hồn…Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có quan hệ ‘hữu cơ’ với nhau. Càng đói
thì càng rét-mà càng rét thì càng đói.
Anh em đã có người ‘nằm xuống’ vì đói
lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng sáng 17-11- 1976
bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977
(không rõ là ngày 3 hay ngày 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô
Qúy Thuyết, Tòa án Quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng
lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh
cứng từ lúc nào rồi.” (Phan Lạc Phúc. Bạn Bè Gần Xa. Westminster, CA: Văn
Nghệ, 2000 – Trích dẫn lại từ Bên Thắng Cuộc. Osinbook, 2012. Vol.1.)
Đói lạnh (có lẽ) chỉ làm cho những người
tù từ miền Nam chóng chết, chứ không chóng tốt. Không những thế, những kẻ
sống sót, với thời gian (xem chừng) mỗi lúc một thêm khó cải tạo hơn. Xin
đơn cử một trường hợp tiêu biểu:
“…Trương Văn Sương quê ở Chùa Dơi tỉnh
Sóc Trăng bị bắt vào khoảng những năm 1977- 1978. Và tổng số thời gian ở
tù của anh cũng đã ngót 28 đến 30 năm ròng rã… Anh đã từng là sĩ quan của
quân lực Việt Nam Cộng Hoà trước đây.
Không bao giờ anh và những người tù án
nặng ở buồng 6 viết bản nhận tội. Cứ mỗi lần như vậy thì anh Sương đều là
người đứng đầu đấu tranh và ban giám thị trại Nam Hà phải điều hàng chục
binh sĩ và cán bộ công an xuống khoá tay, đưa anh đi cùm biệt giam ở nhà
kỷ luật...
Suy nghĩ của tôi khi viết bài này là chỉ
mong Đảng CSVN, nhà nước Việt Nam và Bộ công an thôi đi hãy đừng cố chấp,
hãy đừng mong mỏi gì được mấy dòng chữ ‘tôi nhận rõ tội lỗi, thật thà ăn
năn hối cải’ ở nơi anh Trương Văn Sương và nhiều người tù khác nữa theo
“4 tiêu chuẩn 1269” vô hồn, vô nghĩa kia nữa. Mà hãy cao hơn thế là tình
người, là lòng nhân đạo, là sự bao dung, là sự khoan dung và sự đại
lượng…hãy thả vô điều kiện những người tù như anh Trương Văn Sương ra
khỏi trại giam vì anh đã ở tù gần 30 năm là quá đủ rồi...”
(Nguyễn Khắc Toàn – Tù Nhân Trương Văn
Sương & Những Người Tù Khác).
Những lời kêu gọi “sự khoan dung và sự
đại lượng” (thượng dẫn) được gửi đi vào năm 2006, và đã hoàn toàn rơi vào
hư không. Ông Trương Văn Sương đã qua đời 5 năm sau, vào hôm 11 tháng 7
năm 2011, tại trại Nam Hà. Người tù cải tạo này, tiếc thay, đã
không “tiếp thu” được chút “chính nghĩa cách mạng” nào ráo trọi – sau 33
năm học tập ở một nơi xa nhà hàng ngàn cây số!
Nguồn
ảnh: Đặc San Thanh Cẩm
Tuy thế, những trại tù ở miền Bắc
vẫn mở rộng cửa tiếp tục chào đón những tù nhân từ miền Nam – như
tin loan của BBC, nghe được vào hôm 22 tháng 5 năm 2013:
“Blogger Tạ Phong Tần, người bị chính
quyền Việt Nam kết án tù vì tội 'Tuyên truyền chống Nhà nước' nhưng lại
được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh là 'Phụ nữ dũng cảm' đã bị chuyển
trại giam từ Đồng Nai ra Thanh Hóa hôm 3/5. Hiện tại bà đang bị giam giữ
tại Phân trại số 4 thuộc Trại giam số 5, thị trấn Thống Nhất, huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hóa.
Bà Tạ Minh Tú, em gái bà Tạ Phong Tần, đã có chuyến ra Bắc thăm nuôi chị
mình hôm 15/5. Nói với BBC từ quê nhà Bạc Liêu, bà Tú cho biết bà đã nói
chuyện với bà Tần trong khoảng 30' dưới sự giám sát của bốn cán bộ trại
giam.
Theo đó, bà Tần than phiền ở nơi giam
giữ mới này nước nôi rất khan hiếm. Có khi bà không có nước rửa ṃăt.
‘Không có chỗ tắm chỉ có hồ nước khoảng
10m2 cho 200 người giành nhau tắm như là ăn cướp,’ bà Tú thuật lại lời bà
Tần.
Theo lời kể của bà Tú thì bà Tần cáo
buộc 'chính quyền biết rõ tình trạng bệnh tật của bà là viêm họng và đau
khớp' nên chuyển bà ra ngoài Bắc với điều kiện khí hậu thất thường và mùa
đông lạnh giá bất lợi cho bệnh tật của bà.
‘Họ cố tình làm cho gia đình không thăm
nuôi được do nhà quá xa xôi với lại chi phí cao quá nếu có bệnh hoạn gì
nếu gia đình không biết thì chết không ai biết luôn,’bà Tú thuật lại lời
bà Tần...‘Trước khi đi chị cũng gửi lời thăm hỏi các cha và nói là cứ yên
tâm chị vẫn trước sau như một, không có gì thay đổi,’ bà Tú nói.”
Khẩu khí của Tạ Phong Tần dễ khiến cho
tôi thốt nhớ đến những chuyện (vô cùng) phiền phức đã xẩy ra cho nhân
viên ở trại giam Nam Hà, vài năm về trước, vẫn theo như lời của nhà báo
Nguyễn Khắc Toàn:
“Lúc đó anh Sương đã hô khẩu hiệu chống
đối rất to: ‘Đả đảo CSVN đàn áp tù chính trị, các cán bộ công an có giỏi
thì hãy bắn tôi đi. Trương Văn Sương này suốt đời chiến đấu cho lý tưởng
tự do…’ làm cho hàng chục cán bộ công an, quản giáo và các binh sỹ công
an trẻ rất e ngại. Họ đã có lệnh sẽ bịt miệng và bằng cách dùng khăn tẩm
ê te và hơi cay để trấn áp không cho anh Trương Văn Sương tiếp tục thét
gào phản kháng nữa.”
Xem như thế thì chỉ còn hy vọng vào điều
kiện địa dư khắc nghiệt ở nơi văn hoá cao mới có thể khuất phục được
người tù bất khuất Tạ Phong Tần. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một niềm hy vọng
(mong manh) thôi vì không phải ai cũng có thể bị “khí hậu thất thường và
mùa đông lạnh giá” đốn gục như mong đợi:
"Tôi đã sống bẩy năm trên vùng
thượng du của tỉnh Thanh Hoá, bên bờ con sông Mã, và đã bẩy mùa xuân
chứng kiến những kỳ diệu của đất trời, núi sông và lòng mình. Đấy là một
nơi hiểm trở, trại đóng ngay bên sườn núi trông xuống sông, bên kia sông
là một bình nguyên nho nhỏ, rồi lại tiếp tục núi. Hai đầu sông được chắn
bởi núi, bốn phiá toàn núi, gần xa đậm nhạt khác nhau".
Chữ "trại" trong đoạn văn vừa
dẫn là một trại tù, và người say mê mô tả cảnh "kỳ diệu của đất trời
núi sông" là một tù nhân. Một người tù "quắt queo đói lạnh, tả
tơi đứng bên sông núi" (suốt từ năm này sang năm khác) mới cảm nhận
hết được lẽ chuyển đổi vi diệu của đất trời, để ghi lại được những câu
văn diễm lệ:
"Mùa thu núi bỗng mơ màng. Bầu trời
trong xanh hơn và núi như phủ mờ một làn suơng khói mỏng. Trời càng se
lạnh núi càng xa cách, càng rời xa vẻ thực tế tầm thường để tự biến mình
thành huyền ảo.
Vào mùa thu sông Mã đã thôi gầm lên khúc
độc hành, vẻ đục ngầu dữ tợn của mùa hè đã trôi mất, bây giờ lặng lẽ
trong xanh để hoà hợp với dáng núi đang trong một chuyển cung yểu điệu.
Trời, núi, sông và người cùng vào một
cơn ngất ngây buồn như tiên cảm một nỗi lạnh tê đầy bất trắc. Các ruộng
bắp ven sông đã úa vàng. Công việc thu hoạch mùa màng vào những buổi
chiều mùa thu mang một vẻ đẹp cổ điển với ánh nắng vàng xiên xiên, lá bắp
khô xào xạc, và bếp lửa nấu nước ở bờ ruộng vuơn cột khói lên
cao..."(Phạm Xuân Đài. "Nét Xuân Sơn". Hà Nội Trong Mắt
Tôi. Westminster, CA:Thế Kỷ, 1994.)
Tác giả đoạn văn thượng dẫn đã sống sót
trở về, sau nhiều năm “tả tơi quắt queo sống trong đói lạnh” ở Thanh Hoá.
Ông nguyên là chủ biên của Tạp Chí Thế Kỷ 21, và hiện đang chủ trương
trang Diễn Đàn Thế Kỷ, có trụ sở đặt tại miền Nam – California.
Đã đôi lần, tôi có hân hạnh tiếp chuyện
với ông Phạm Xuân Đài, và ông Phan Nhật Nam – một người tù khác, sống qua
hàng chục năm biệt giam ở trại tù giam Thanh Cẩm. Thái độ sống, cũng như
ngòi bút, của cả hai ông bao giờ cũng đậm nét bao dung và tử tế. Những tù
đã qua, xem ra, đã không gây cho họ một chấn thương tâm thần nào ráo
trọi.
Những năm tù sắp tới cũng chưa chắc sẽ
gây được tổn hại nào đáng kể cho Tạ Phong Tần. Nhưng bản án khắc nghiệt,
cùng cách hành sử đê tiện, vừa qua – chắc chắn – sẽ có ảnh hưởng tiêu cực
không nhỏ đến sự tồn vong (vốn đã rất mong manh) của nhà nước hiện hành.
Không ai, kể cả những người lạc quan và cực đoan nhất hiện nay, có thể
tin rằng chế độ bạo ngược này có thể tiếp tục cầm quyền thêm mười năm
nữa.
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment