Sunday, August 24, 2014

Có cần thiết chống Diễn biến hòa bình nữa hay không?


Có cần thiết chống Diễn biến hòa bình nữa hay không?

Giang hồ Xử lý ùn tắc giao thông Chỉ Có Ở Việt Nam - Hot nhất



Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-08-22

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
anhvu08222014.mp3Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
712448692012050312151268-305.jpg
Tướng Ngô Xuân Lịch phát biểu tại buổi Tọa đàm về đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” tại Hà Nội (ảnh minh họa chụp trước đây).
Courtesy photo





Đảng CSVN luôn lên án điều mà họ gọi là ‘diễn biến hòa bình’ vì cho rằng gây hại cho tổ chức này. Tuy vậy, trên thực tế cho thấy, Đảng CSVN đã tự diễn biến một cách mạnh mẽ, với biểu hiện ngày càng xa rời CNXH để xích gần với chủ nghĩa tư bản phương Tây. Chính quyền VN có còn cần chống Diễn biến hòa bình nữa hay không?

Không thích ứng sự thay đổi

Diễn biến hòa bình là khái niệm của một số quốc gia độc tài sử dụng để nói về một chiến lược chính trị của các nước phương Tây nhằm can thiệp vào tình hình chính trị nội bộ của họ.

Khái niệm này được xem là một quá trình chuyển đổi hòa bình từ một thể chế độc tài sang dân chủ, thông qua sự chuyển biến về nhận thức và tư tưởng. Trong chiến lược Diễn biến hòa bình, các vấn đề nhân quyền và dân chủ luôn được coi trọng.

Hiện nay, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã không có lựa chọn nào khác là phải xây dựng quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự… gần gũi với các nước phương Tây. Và thực tế cho thấy hầu hết các nguyên lý cơ bản về CNXH đã bị xa rời và đánh mất.

Đánh giá về vấn đề chống Diễn biến hòa bình đang xảy ra ở VN, TS. Nguyễn Quang A nguyên Viện trưởng Viện phản biện IDS thấy rằng: trên thực tế từ năm 1986 Đảng CSVN đã thay đổi về quan điểm và đường lối của mình. Họ buộc phải chấp nhận thay đổi các vấn đề cốt lõi trong lý luận về Chủ nghĩa Mark-Lenin để tự cứu mình tránh khỏi sự sụp đổ.
Diễn biến hòa bình tốt cho từng người VN, tốt cho bản thân Đảng CSVN, bởi vì chỉ có bằng cách ấy Đảng CSVN may ra có thể tồn tại được. 

-TS Nguyễn Quang A

Từ Hà nội TS. Nguyễn Quang A nói với chúng tôi:
“Đảng CSVN đã thay đổi những quan điểm tư tưởng của họ rất nhiều lần và đấy là những lần có thể gọi là những lần diễn biến tư tưởng hay Diễn biến hòa bình trong Đảng. Vì một mục đích duy nhất để duy trì sự tồn tại của Đảng, bởi vì nếu không thích ứng với sự thay đổi của thế giới thì họ cũng sẽ không thể tồn tại được.”
Nói về lý do Đảng CSVN xúc tiến việc chống Diễn biến hòa bình, Nhà báo Nguyễn Vũ Bình nguyên cán bộ của Tạp chí Cộng sản thấy rằng từ năm 1986 đến nay đã cho thấy nhà nước VN đã tự chuyển biến về chủ trương trong mọi vấn đề mà họ gọi tên là Đổi mới. Việc họ nêu lên vấn đề chống Diễn biến hòa bình để muốn chứng tỏ để che dấu với nhân dân là họ vẫn kiên định với CNXH.
Từ Hà nội, Nhà báo Nguyễn Vũ Bình nói:
“Hiện tại nhà nước VN vẫn chưa có sự chủ động trong việc chuyển đổi, song trong một tương lai gần chúng ta rất hy vọng. Vì trong bối cảnh quốc tế và khu vực, đó là sự tráo trở của Trung Quốc sẽ dồn ép, cộng với bối cảnh trong nước việc cạn kiệt nguồn lực và sự dồn nén cùng cực của người dân . Điều đó sẽ dần dần buộc Đảng CSVN phải chuyển đổi, kể cả về chính trị.”
hnb3134048153-400.jpg
Hội nghị chống “Diễn biến hòa bình” tại trụ sở Báo QĐND (Ảnh minh họa chụp trước đây). Courtesy photo.
Trả lời câu hỏi việc chống Diễn biến hòa bình hiện nay có lợi hay có hại cho các đối tượng nào?

TS. Nguyễn Quang A thấy rằng nếu Đảng CSVN trung thành luôn tuyên bố họ không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc VN; như thế Diễn biến hòa bình là sự chuyển đổi trong hòa bình có tác dụng tránh đổ vỡ là một lựa chọn đúng đắn, để chuyển đổi từ thể chế độc đảng như hiện nay thành một chế độ thực sự Dân chủ, theo những giá trị phổ quát của nhân loại.

TS. Nguyễn Quang A nói:
“Diễn biến hòa bình tốt cho từng người VN, tốt cho bản thân Đảng CSVN, bởi vì chỉ có bằng cách ấy Đảng CSVN may ra có thể tồn tại được. Còn cứ nói ngược lại, nếu cứ nói là chống Diễn biến hòa bình để bảo vệ Đảng CSVN thì Đảng CSVN sẽ bị lịch sử vứt vào sọt rác.”

Sai lầm và không có thật

Nhà báo Võ Văn Tạo thấy rằng, dư luận xã hội cho rằng Diễn biến hòa bình dẫn tới việc thay đổi chế độ sẽ khiến cho lực lượng công chức nhà nước, công an, quân đội… sẽ mất hết quyền lợi. Theo ông đây là sai lầm và không có thật, vì bất cứ chính quyền nào cũng cần duy trì một bộ máy công chức cần thiết. Mà bài học Đông Âu và Liên xô là một minh chứng.
Từ Nha Trang, Nhà báo Võ Văn Tạo nói:
“Ông Trần Đăng Thanh dọa rằng nếu Diễn biến hòa bình thay đổi thể chế thì những người ngồi đây sẽ mất sổ hưu, đấy là một sự lừa đảo ghê gớm. Vì không có một thể chế mới nào họ điên rồ mà đẩy những người làm công ăn lương ra đường. Mà thể chế nào cũng phải có bộ máy để duy trì và quản lý đất nước, bộ máy nào cũng phải có lực lượng quân đội để bảo vệ tổ quốc, lực lượng công an để duy trì an ninh trật tự”.
Khi được hỏi trước sự tự chuyển biến rất lớn của Đảng CSVN về đường lối, thì chính quyền VN có cần thiết phải duy trì công tác chống Diễn biến hòa bình nữa hay không?
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình, thấy rằng căn cứ vào tình hình trong nước và thế giới hiện nay thì chuyển đổi thể chế chính trị là vấn đề tất yếu và không thể tránh khỏi. Do vậy chống Diễn biến hòa bình là việc không cần thiết và là thiếu thức thời. Bỏ việc này sẽ tránh được đổ vỡ không cần thiết.
Công tác chống Diễn biến hòa bình nếu không khuyến khích được thì cũng không nên chống nữa, đó là quan điểm đúng đắn nhất. 

-Nhà báo Nguyễn Vũ Bình

Từ Hà nội, Nhà báo Nguyễn Vũ Bình nói:
“Công tác chống Diễn biến hòa bình nếu không khuyến khích được thì cũng không nên chống nữa, đó là quan điểm đúng đắn nhất. Vì nó còn có thể gây đổ vỡ cho Đảng và nhà nước VN trong một tương lai gần sắp tới và người dân sẽ đỡ mất mát nhiều hơn. Việc loại bỏ vấn đề chống Diễn biến hòa bình đó là điều đương nhiên và cần thiết hiện nay.”

TS. Nguyễn Quang A nêu thắc mắc: nếu Đảng CSVN duy trì chủ trương chống Diễn biến hòa bình tức là họ muốn chuyển đổi bằng cách không hòa bình hay sao? Theo ông sự chuyển đổi hay diễn biến là điểm cốt lõi của Chủ nghĩa Mark, đó là điều hết sức mâu thuẫn và trong Đảng CSVN hiện nay chỉ có một bộ phận hết sức nhỏ mà ông gọi là cảnh sát tư tưởng muốn chống Diễn biến hòa bình vì để bảo vệ quyền lợi của mình.

TS. Nguyễn Quang A nói:
“Tôi nghĩ rằng việc chống Diễn biến hòa bình là một chuyện hết sức là vô duyên và lạc lõng. Lẽ ra người ta phải cổ vũ và thúc đẩy cho việc Diễn biến hòa bình, như thế mới thực sự là người vì dân, vì đất nước và vì dân tộc.”

Nhà báo Võ Văn Tạo cho rằng chính Đảng CSVN đang tự diễn biến thông qua các chủ trương đường lối của mình trong một thời gian dài. Đặc biệt là thời gian gần đây, xu hướng thân chủ nghĩa tư bản phương Tây, đặc biệt là Hoa kỳ và chống Trung Quốc là điều không phải bàn cãi.
Nhà báo Võ Văn Tạo nói:

“Con đường Diễn biến hòa bình là một thực tế không thể tránh khỏi, chứ không thể do sự trì kéo của một số phần tử nào đó mà nó không thể đến. Muốn hòa nhập với thế giới, muốn trao đổi về kinh tế thì bắt buộc phải diễn biến, kể cả ở hạ tầng kinh tế và thay đổi về thượng tầng kiến trúc là chính trị. Chống Diễn biến hòa bình là ngớ ngẩn và vô duyên, nó chỉ có hại cho đất nước mà chả có lợi gì cho toàn thể người dân.”
Mục đích cao nhất của mỗi con người cũng như mọi chính quyền đúng nghĩa là phải hướng tới để xây dựng cho mình một xã hội văn minh, dân chủ và tự do. Đó cũng chính là vấn đề tất yếu của nhân loại mà không ai có thể cản trở được.


Nhìn lại xung đột Việt-Trung

Nguyễn Quang Dy

Tháng 5/2014, Hà Nội nóng bỏng bất thường ngay đầu hè. Rõ ràng Trung Quốc góp phần làm cho trái đất nóng lên. Đặc biệt Biển Đông càng nóng bỏng hơn. Trung Quốc đặt giàn khoan khổng lồ HD 981 tại vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng 5 để tranh cướp chủ quyền, thổi bùng lên làn sóng chống Trung Quốc ở Việt Nam và khắp khu vực.
Nghịch lý yêu-ghét trong lịch sử quan hệ Việt-Trung đầy bi kịch thường dẫn đến xung đột lợi ích quốc gia, kể cả chiến tranh. Năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam trong cuộc chiến biên giới đẫm máu, sau ba thập kỷ gắn bó như “môi với răng” vì cùng chung ý thức hệ. Liệu lịch sử có lặp lại lần nữa tại Biển Đông? Nước cờ tiếp theo của Trung Quốc là gì? Liệu Trung Quốc có xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ, giống như vào vòng tay người Nga năm 1979? Việt Nam phải làm gì để có thể sống yên ổn bên cạnh người láng giềng khổng lồ? 

 Bối cảnh lịch sử

Không có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lơi ích vĩnh viễn
Napoleon Bonaparte đã từng nói, “Trung Quốc là gã khổng lồ đang ngủ. Hãy để cho nó ngủ yên, vì khi thức dậy nó sẽ làm đảo lộn thế giới”. Người Mỹ đã không nghe lời khuyên đó. Họ đã giúp gã khổng lồ trỗi dậy bằng chính sách “can dự xây dựng”. Nhưng họ đã đi quá đà nên bây giờ bắt đầu ân hận, phải tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy hung hăng của nó. Kế hoạch “xoay trục” và TPP (Tran-Pacific Partnership) để “tái cân bằng” sự trỗi dậy của Trung Quốc làm ta nhớ lại thập niên 1950 và 1960 khi Mỹ dùng SEATO (South East Asia Treaty Organization) để ngăn chặn nguy cơ Trung Cộng. Hình như lịch sử đang lặp lại, nhưng với trò chơi mới và luật chơi mới.

Ông Kissinger được ghi nhận là kiến trúc sư của Chính sách Trung Quốc, đã có công giúp Trung Quốc trỗi dậy, theo tầm nhìn của ông ta về một trật tự thế giới trong đó Trung Quốc liên minh với Mỹ để chống Liên Xô. Ông ta đã bí mật dàn xếp với người Trung Quốc để đưa Tổng thống Nixon sang Trung Quốc bắt tay Mao Chủ tịch và ký Thông cáo chung Thượng Hải (năm 1972). Theo thỏa thuận, Mỹ sẽ bỏ rơi Nam Việt Nam, thỏa hiệp về chủ quyền Đài Loan, hợp tác giúp Trung Quốc thực hiện “bốn hiện đại hóa”, đánh đổi lấy việc Mỹ sẽ rút quân dần khỏi Nam Việt Nam “trong danh dự”, và lập một liên minh “trên thực tế” chống Liên Xô.
Sau đó ông Brzezinski (Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Carter) đã tiếp tục Chính sách Trung Quốc bằng thỏa thuận ngầm với ông Đặng Tiểu Bình để Trung Quốc xâm lược Việt Nam (1979) và ngầm ủng hộ Khmer Đỏ trong chính phủ liên hiệp ở Campuchea. Việt Nam đã trở thành con tốt trong ván bài nước lớn bất lương này, bị xô đẩy vào vòng tay người Nga (1978-1979). Như vậy người Trung Quốc phải mang ơn ông Kissinger về cơ hội trỗi dậy, với sự ủng hộ của ông ta và “China Lobby”. Có điều ông Kissinger không biết (hoặc không quan tâm) liệu Trung Quốc có giữ lời hứa sẽ trỗi dậy “trong hòa bình” và không “động tới quyền lợi của Mỹ” và đồng minh của Mỹ ở Đông Á hay không.
Có lẽ người Mỹ đã hơi ngây thơ hoặc ảo tưởng và ngộ nhận về sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc mà không tính kỹ những nguy cơ tiềm ẩn. Việc Trung Quốc sẽ trở mặt bắt nạt các nước láng giềng và thách thức Mỹ chỉ là vấn đề thời gian. Ngay cả khi người Mỹ đã “xoay trục” sang Đông Á để ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc, dường như họ vẫn chưa thoát ra khỏi cái bóng của ông Kisinger. 

Những gì đang diễn ra là quá ít và quá muộn để răn đe Trung Quốc và bảo vệ quyền lợi của Mỹ cũng như đồng minh ở khu vực. Người Nhật bây giờ mới tỉnh ngộ và đang vội vã sửa lại hiến pháp để đối phó với Trung Quốc, trong khi các nước khác ở khu vực (như ASEAN) thì hoang mang, bối rối, và bị Trung Quốc phân hóa.

Năm 1979, Trung Quốc xâm lược Việt Nam để “dạy một bài học”, sau khi Việt Nam đánh đổ Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc. Thực chất, Trung Quốc đánh Việt Nam chủ yếu là để gây ấn tượng với người Mỹ rằng Trung Quốc là một đối tác tin cậy trong liên minh chống Liên-Xô và Việt Nam. Đối với ông Đặng Tiểu Bình, sự hỗ trợ của Mỹ để thực hiện “bốn hiện đại hóa” mới là mục tiêu chính để giúp Trung Quốc trỗi dậy. Mọi chuyện khác đều là thứ yếu, chỉ là phương tiện. Đối với lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc trở thành “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”, nên phải liên minh với Liên Xô để chống Trung Quốc.

Phải mất hơn một thập kỷ Việt Nam mới bình thường hóa được quan hệ với Trung Quốc, sau cuộc gặp cấp cao bí mật tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai). Điều này đã diễn ra đúng như lời tiên đoán trước đây của ông Đặng Tiểu Bình là Việt Nam sẽ phải quay đầu lại với Trung Quốc.

 Lý do chính Việt Nam phải quay lại là bức tường Berlin và chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ, cùng với sự tan rã của Liên Xô. Lãnh đạo Việt Nam đã hoảng hốt lo mất chính quyền, nên vội vã làm lành với lãnh đạo Trung Quốc bằng mọi giá, dù phải hy sinh lợi ích quốc gia sống còn, để cứu vãn một ý thức hệ và thể chế chính trị đã lỗi thời.

Thỏa thuận Thành Đô là một sai lầm chiến lược to lớn và một bước ngoặt bất hạnh cho Việt Nam, làm cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải cay đắng nhận xét, “một thời kỳ bắc thuộc mới đầy nguy hiểm đã bắt đầu”. 

Lãnh đạo Viêt Nam đã dại dột chui vào bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, trở thành con tin để họ thao túng, đến tận bây giờ. Suốt hai thập kỷ tiếp theo, các thế hệ lãnh đạo Việt Nam đã buộc phải theo cam kết Thành Đô, như con tin mắc bẫy, với cái giá phải trả ngày càng cao. 

Qua nhiều năm, Trung Quốc đã lặng lẽ cài cắm một mạng lưới sâu rộng gồm tay sai và người ủng hộ họ trong nội bộ Việt Nam, từ trung ương đến các địa phương, để tác động vào các quyết sách quan trọng, không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế và chính trị, mà còn cả quân sự và an ninh. Bản chất quan hệ Viêt-Trung bất bình đẳng, dựa trên lòng trung thành mù quáng về ý thức hệ, là nguyên nhân chính đã kìm hãm cải cách kinh tế và ngăn cản đổi mới chính trị ở Viêt Nam trong suốt hai thập kỷ qua.

Nay một bước ngoặt mới lại xuất hiện khi Trung Quốc đột nhiên kéo giàn khoan khổng lồ HD 981 đặt tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông từ đầu tháng 5, làm lãnh đạo Việt Nam bất ngờ, choáng váng, làm sụp đổ ảo tưởng của họ khi Trung Quốc đã công khai trở mặt, vứt bỏ “16 chữ vàng”. Giàn khoan HD 981 không phải chỉ để khoan dầu, mà còn để khẳng định chủ quyền tại vùng biển tranh chấp mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố là “lợi ích cốt lõi” của mình. 

Thực tế giàn khoan HD 981 là một loại “vũ khí dân sự” để cưỡng đoạt chủ quyền, còn hiệu quả hơn cả hàng không mẫu hạm “Liêu Ninh”. Trung Quốc không bỏ lỡ cơ hội Mỹ và các nước NATO đang bận đối phó với Nga về vấn đề Ukraine, để tăng cường hợp tác với Nga vì nhu cầu năng lượng lẫn địa chính trị. Họ học ngay bài học Nga chiếm Crimea như một chuyện đã rồi, để lấn chiếm Biển Đông bằng giàn khoan khổng lồ HD 981, nhằm thử phản ứng của Việt Nam, ASEAN, Mỹ và các nước khác, chuẩn bị cho nước cờ tiếp theo.

Tình hình quốc nội
Con hổ mới đã biến thành con mèo ốm yếu
Trong khi Trung Quốc trỗi dậy, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, thì Việt Nam lại tụt hậu, không cất cánh lên được. Các tổng công ty lớn của nhà nước theo “định hướng XHCN” là trụ cột nền kinh tế, nhưng đã thua lỗ nặng và trở thành những con nợ khổng lồ. Thành quả cải cách kinh tế gần hai thập kỷ đầy ấn tượng nay đã tan thành mây khói, vì nạn tham nhũng, quản lý tồi, và bị các nhóm lợi ích thao túng trong một cơ chế thân hữu.

 Các nhóm lợi ích tham lam chiếm đất của nông dân làm dự án, câu kết với quan tham và xã hội đen đàn áp dân nghèo, gây nên một làn sóng bất bình khắp nơi, có nguy cơ làm bất ổn định xã hội. Nhiều công nhân tại các doanh nghiệp FDI ở các khu công nghiệp biểu tình đòi tăng lương và cải thiện điều kiện sống, nhưng không được giới chủ đáp ứng tích cực nên đầy bức xúc, dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động gây rối, như các vụ bạo động chống Trung Quốc gần đây đã chứng minh.

Thất bại kinh tế và bất ổn xã hội đã thúc đẩy nhanh khủng hoảng chính trị và lãnh đạo. Các phe phái cầm quyền tranh giành quyền lực ngày càng quyết liệt, làm phân hóa nội bộ lãnh đạo và tê liệt năng lực quản trị đất nước, tới mức khủng hoảng. Đấu tranh quyền lực quyết liệt giữa phe chính phủ do Thủ tướng đứng đầu với phe đảng do Tổng Bí thư đứng đầu, đã diễn ra tại hầu hết các hội nghị trung ương trong năm 2013, cho tới khi tạm thời lắng xuống vào cuối năm do không phân thắng bại phải hòa hoãn. 

Nay sự kiện giàn khoan HD 981 và khủng hoảng trong quan hệ Việt-Trung đã làm gia tăng tranh giành quyền lực, có lợi thế cho Thủ tướng (lên tiếng chống Trung Quốc, nên được dân ủng hộ) và bất lợi cho Tổng Bí thư (im hơi lặng tiếng, nên mất lòng dân). Tuy Việt Nam có cơ hội để thay đổi cơ bản, nhưng lãnh đạo lại chia rẽ vì xung đột lợi ích trước sự đe dọa của Trung Quốc.

Gần bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, trong khi người Việt và người Mỹ về cơ bản đã hòa giải xong, thì cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước vẫn chưa hòa giải được. Nội chiến thường để lại những vết thương tâm lý và tinh thần sâu nặng hơn. 

Chừng nào trong lòng còn hận thù và thành kiến, thì không những khó hòa giải, mà còn dễ làm phân hóa cuộc đấu tranh chung cho tự do dân chủ và chủ quyền quốc gia. Những người cộng sản cực đoan là những người độc tài, nhưng những người chống cộng cực đoan cũng chẳng khác gì. Vì vậy, chủ nghĩa cực đoan là kẻ thù tiềm ẩn của hòa giải dân tộc và chấn hưng quốc gia.
 Tình hình quốc tế

Con sói cô độc
Việt Nam tuyên bố chính sách đa phương hóa quan hệ và có “đối tác chiến lược” với hơn 10 nước (nhưng chưa có Mỹ). Lúc này, chẳng đối tác chiến lược nào (ngoài Mỹ) có thể giúp Viêt Nam răn đe Trung Quốc để tránh bị bắt nạt. Trước hành động xâm chiếm của Trung Quốc tại Biển Đông, chính phủ nhiều nước tuy bất bình, nhưng không dám công khai ủng hộ Viêt Nam sợ làm mất lòng Trung Quốc. Năm 1979, khi bị Trung Quốc tấn công, Việt Nam có hiệp ước liên minh quân sự với Liên-Xô để răn đe Trung Quốc.

 Nhưng hiện nay Việt Nam hoàn toàn cô độc, không có liên minh quân sự với một nước nào (khác với quan hệ của Mỹ với Nhật, Hàn Quốc, và Philippines). Viêt Nam đã cố giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng chính sách “Ba Không”: không tham gia liên minh quân sự với nước nào, không cho nước nào đặt căn cứ quân sự, và không dựa vào nước này để chống nước kia.

 Nếu Việt Nam không thay đổi chính sách cân bằng thụ động này, thì làm sao tự bảo vệ được mình? Việt Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kép: vừa thất bại về kinh tế vừa bị Trung Quốc đe dọa chủ quyền.
Chính sách “xoay trục” của Mỹ sang Đông Á chưa có hiệu lực răn đe Trung Quốc. Bằng việc đưa giàn khoan HD 981 đến Biển Đông, Trung Quốc đã qua mặt Mỹ, ngay sau khi Tổng thống Obama đến thăm Đông Á. Phản ứng của Mỹ đối với Trung Quốc chưa đủ mạnh, vì Việt Nam khác với Philippines. Quan hệ “đối tác toàn diện” với Mỹ phải nâng lên thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương, tập trận chung, và sử dụng căn cứ quân sự tại Cam Ranh (như Philippines và Singapore đã làm với Mỹ). Nhưng thể chế chính trị độc tài của Viêt Nam, với hồ sơ nhân quyền xấu vì đàn áp tự do dân chủ, là trở ngại chính đối với việc nâng cấp quan hệ với Mỹ. Việt Nam cũng khó hòa nhập sâu hơn vào thị trường thế giới (WTO và TPP) vì vẫn bám giữ “định hướng XHCN” và chậm chuyển đổi hẳn sang kinh tế trị trường.
Phản ứng của ASEAN đối với sự kiện HD 981 cũng khá yếu. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (10/5/2014 tại Myanmar) ra được tuyên bố chung nhưng không dám nêu đích danh Trung Quốc. ASEAN là một tổ chức lỏng lẻo gồm nhiều nước có thành phần đa dạng, dễ bị Trung Quốc phân hóa và vô hiệu hóa.

 Bó đũa ASEAN đang bị Trung Quốc tách ra để bẻ gãy từng chiếc, nếu không đoàn kết trong một cộng đồng mạnh hơn. Trong nhiều năm, ASEAN đã không ép được Trung Quốc ký COC (quy tắc ứng xử) tại Biển Đông. ASEAN không có cơ chế an ninh tập thể nên không thể can thiệp để bảo vệ các nước thành viên, kể cả khi bị đe dọa.

Căng thẳng và xung đột trong khu vực đã thúc đẩy nhiều nước chạy đua vũ trang.

 Việt Nam trở thành khách hàng lớn mua vũ khí của Nga. Nhưng điều này dẫn đến hai nguy cơ lớn: Một là, chi phí quốc phòng tăng lên trong khi kinh tế suy thoái sẽ đặt Việt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan; Hai là, Việt Nam sẽ bị hở sườn nếu Trung Quốc và Nga nâng cấp đối tác chiến lược để đối phó với Mỹ (như đang diễn ra hiện nay). 

Nếu Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược (như dự kiến), thì các hệ thống vũ khí hiện đại mua của Nga có thể không còn an toàn để chống Trung Quốc nữa (đặc biệt là hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo class 636 và mua thêm 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2 còn đang trong quá trình chuyển giao). Vì vậy, việc Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương là rất quan trọng đối với Việt Nam lúc này.
 Nước cờ tiếp theo

Tiếp tục “Tam chủng Chiến pháp”
Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và bạo loạn chống Trung Quốc tại Bình Dương và Vũng Áng là lời cảnh báo về những tử huyệt của Viêt Nam. Nhưng nếu lãnh đạo Hà Nội vẫn không tỉnh ngộ để tìm cách thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và dũng cảm đối phó với thực tế mới, thì Trung Quốc sẽ tiếp tục thao túng những tử huyệt này để đạt được mục đích, mà chẳng cần chiến tranh.

Trung Quốc đã lợi dụng tử huyệt của lãnh đạo Việt Nam để dùng giàn khoan HD 981 lấn chiếm chủ quyền tại Biển Đông như chuyện đã rồi, để thử phản ứng các bên liên quan. Người ta nghi ngờ tay sai của Trung Quốc tại Việt Nam đã ngầm xúi giục công nhân gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và những nơi khác để Trung Quốc lấy cớ rút người và rút đầu tư, và để các nhà đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản sợ không dám đầu tư. Việc này nhằm gây sức ép để chính phủ Việt Nam tiếp tục trấn áp biểu tình chống Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc có thể dùng những đòn bẩy khác để gây bất ổn cho xã hội Việt Nam, như dùng mạng lưới tay sai cài cắm trong nội bộ chính quyền và cộng đồng để tác động vào các sự kiện, dùng biện pháp tài chính thương mại để thao túng thị trường, dùng chiến tranh mạng để gây nhiễu, dùng truyền thông để tác động vào dư luận, và dùng công cụ pháp lý để lật lại vấn đề. Đây là một phần của học thuyết “Tam chủng Chiến pháp” (Chiến tranh tâm lý, truyền thông và pháp lý) mà lãnh đạo của họ đã thông qua từ năm 2003. Trong khi chính phủ Việt Nam chưa dám nộp đơn kiện, thì ngày 9/6, Trung Quốc đã bất ngờ đệ trình Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tài liệu chính thức về quan điểm đối với tranh chấp tại Biển Đông để lưu chuyển cho tất cả 193 thành viên LHQ.
Phản ứng của lãnh đạo Việt Nam quá chậm và im hơi lặng tiếng, trừ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những tuyên bố kịp thời và mạnh mẽ về hành động hiếu chiến của Trung Quốc, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar (10/5) và tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á ở Manila (22/5), ghi điểm cao và nổi bật trước các đối thủ chính trị khác. Trước mắt, Thủ tướng đã giành lại được sự ủng hộ của dân chúng và chính danh của người lãnh đạo quốc gia cho sứ mạng  bảo vệ chủ quyền. 

Điều này là thiết yếu trong cuộc chạy đua vào vị trí số một tại Đại Hội Đảng tới. Sự kiện này đã tạo ra một bước ngoặt làm phân hóa nội bộ lãnh đạo Việt Nam, có thể đảo lộn những toan tính trước đó về sắp xếp nhân sự. Đây là cơ hội tốt để Thủ tướng khẳng định vị thế chính trị, và tạo ra những thay đổi cơ bản về chính trị và đối ngoại. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào lòng dũng cảm và thành tâm chính trị của người lãnh đạo. .

Phản ứng của dân chúng quá nhanh và mạnh. Có lẽ hơi quá bồng bột để “các thế lực thù địch” lợi dụng gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và các nơi khác, làm mất uy tín Việt Nam và phá hoại nền kinh tế đang khủng hoảng. Nếu chính phủ biết cách khắc phục hậu quả, hy vọng tác động tiêu cực đến đầu tư FDI, như rút người rút vốn, chỉ là nhất thời. Sau lúng túng ban đầu, chính phủ đã có những biện pháp mạnh hơn để đối phó. Nhưng đừng quá mạnh tay với dân chúng và nhẹ tay với bọn đầu sỏ thủ phạm, vì đó là dấu hiệu họ đứng về phía nào. Đây là cơ hội tốt để các lực lượng yêu nước tập hợp, vì hòa giải và đoàn kết dân tộc, để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây cũng là thời điểm tốt để phe cải cách lật ngược bàn cờ chính trị và giành lại thế thượng phong.

 Nhưng sau chuyến thăm của Dương Khiết Trì (18/6/20014), hình như cả hai phái lãnh đạo Việt Nam vẫn lúng túng và bất lực, chưa dám hành động.

Tuy phe bảo thủ thân Trung Quốc bị choáng váng, hoang mang và mất thể diện, nhưng họ vẫn nắm quyền quyết định. Việc Ngoại trưởng Phạm Bình Minh phải hoãn chuyến đi Mỹ theo lời mời của Ngoại trưởng John Kerry (22/5), và những phát biểu yếu ớt của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La 2014 (30/5) là những tín hiệu xấu, chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam vẫn sợ Trung Quốc, tiếp tục duy trì nguyên trạng về ý thức hệ, mặc dù nguy hại cho chủ quyền quốc gia. 

Một khi Trung Quốc rút giàn khoan và tàu thuyền về, phe bảo thủ sẽ lại hồi phục và thế cân bằng chính trị lại tiếp diễn. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có thể thay đổi cơ bản khi nào dân chúng thoát khỏi nỗi sợ để hòa giải và đoàn kết dân tộc thành sức mạnh nhân dân, tạo sự đột phá bằng quá trình thay đổi từ dưới lên, chứ không phải chỉ từ trên xuống. Giai đoạn Đổi mới (1986-1990) là một bài học về quá trình thay đổi từ trên xuống bị chết yểu khi chính quyền đột nhiên quyết định đóng cửa.

Phản ứng quốc tế mạnh hơn trước, nhưng chưa đủ mạnh để răn đe Trung Quốc. Không nên ảo tưởng là quốc tế luôn ủng hộ Viêt Nam chống Trung Quốc, vì thế lực Trung Quốc quá lớn và quá mạnh, bàn tay của họ quá dài vươn ra khắp nơi. Việt Nam phải thay đổi thái độ chính trị để có bộ mặt tử tế hơn Trung Quốc, vì không ai muốn ủng hộ một chế độ độc tài tham nhũng, với hồ sơ nhân quyền quá xấu.

 Đây là cơ hội tốt để Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược để đối phó với Trung Quốc. Nhưng đừng quá ảo tưởng vào “lá bài Mỹ” (cũng như “lá bài Nga” trước đây). 

Chủ trương “xoay trục” và trò chơi TPP của Mỹ còn đang diễn biến. Đối với Washington, Trung Quốc quan trọng hơn nhiều so với Việt Nam. Hơn nữa, Mỹ còn đang sa lầy tại Trung Đông và dính líu tại Ukraine, trong khi phải đối phó với ngân sách quốc phòng bị cắt giảm và xu hướng trong nước muốn co lại. Trong bài diễn văn về đối ngoại dài 9 trang tổng thống Obama đọc tại West Point (28/5/2014) chỉ có mấy dòng mờ nhạt đề cập đến tranh chấp trên biển tại khu vực này, trong đó chỉ nhắc đến Biển Đông và Trung Quốc hai lần, và không nói gì đến Việt Nam cũng như giàn khoan của Trung Quốc.

Trung Quốc khó có khả năng duy trì quá lâu giàn khoan khổng lồ HD 981 và một đội tàu hộ tống quá lớn tại Biển Đông. Đơn giản là quá tốn kém, dù cho bất kỳ lý do gì. Trung Quốc có thể rút giàn khoan HD 981 vào giữa tháng 8 như dự kiến, hoặc thậm chí sớm hơn nếu đã xong nhiệm vụ, hoặc nếu mùa mưa bão ập đến sớm hơn. 

Nhưng dù sao, Trung Quốc sẽ không bao giờ bỏ cuộc, và sẽ sử dụng tối đa “chiến thuật giàn khoan”. Họ có thể triển khai thêm nhiều giàn khoan tại những vị trí khác, và ráo riết xây dựng hạ tầng chiến lược tại các bãi đá họ chiếm để đòi “vùng đặc quyền kinh tế”, và “khu vực nhận dạng phòng không”. Trung Quốc sẽ “tùy cơ áp đặt” để từng bước độc chiếm Biển Đông, nhưng tránh đối đầu quân sự với Mỹ. 

Nước cờ giàn khoan của họ cho thấy nếu xung đột vũ trang xảy ra, nó sẽ xảy ra chớp nhoáng trên biển, với những đòn tấn công chính xác của hải quân và không quân, để phát huy ưu thế, nhằm đảm bảo thắng nhanh để Mỹ không kịp can thiệp. Trận hải chiến tại Gạc Ma năm 1988 là một ví dụ.


Nhưng khi hạm đội tàu ngầm Việt Nam gồm 6 chiếc Kilo class 636 được bàn giao và sẵn sàng hoạt động, với 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mới bổ sung, Trung Quốc sẽ khó tự do tung hoành ở Biển Đông. Đặc biệt, khi quan hệ với Mỹ được nâng cấp thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương và tập trận chung với Hạm đội 7, và nhất là sau khi Nhật Bản chuyển giao đội tàu tuần duyên loại Bizan cho cảnh sát biển Việt Nam, thì tư thế phòng thủ của Viêt Nam ở Biển Đông sẽ được cải thiện đáng kể. 

Tuy Trung Quốc không muốn xô đẩy Viêt Nam vào vòng tay người Mỹ, nhưng hành động ngang ngược mới của họ có thể làm thay đổi cục diện, dẫn đến những hệ quả không mong muốn.

Trung Quốc có những phương án khác trong chiến lược vươn ra biển khơi của mình. Nếu lối ra Ấn Độ Dương của họ bị ngăn chặn vì những thay đổi gần đây ở Miến Điện, với sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ tại đây, Trung Quốc phải tìm lối ra Vịnh Thailand và xa hơn nữa. Vì những lý do kinh tế và địa chính trị, Trung Quốc phải kết nối các tỉnh phía Nam với biển khơi bằng một hành lang trong đất liền như một tuyến đường huyết mạch đi qua mấy nước láng giềng, để đối phó với chiến lược “bao vây trên biển” của Mỹ nhằm phong tỏa Trung Quốc tại các điểm yết hầu trên biển. Gần đây, Trung Quốc đã giành được một số dự án lớn ở Lào, Campuchea và Thailand, để xây dựng những cơ sở giao thông và hậu cần có giá trị cao, bao gồm các hệ thống đường sắt, đường cao tốc, đường sông, sân bay, trạm ra đa, hải cảng và kho tàng.
Việc Trung Quốc triển khai giàn khoan khổng lồ HD 981 và đội tàu hộ tống rất lớn tại đây là một phần của kế hoạch nhằm độc chiếm Biển Đông, và kiểm soát các đường hàng hải huyết mạch, bằng cách triển khai học thuyết A2/AD (anti-access/area-denial) mà Mỹ và các đồng minh rất quan ngại. 

Gã khổng lồ đói năng lượng tất nhiên thèm khát tài nguyên ở Biển Đông, bao gồm 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ mét khối (Anh) khí đốt (theo đánh giá của US Energy Information Administration) hoặc 17 tỷ thùng dầu và 498 nghìn tỷ mét khối khí đốt (theo đánh giá của China National Offshore Oil Corporation). Nhưng, Trung Quốc còn muốn kiểm soát cả đường hàng hải, vì hơn 5 nghìn tỷ USD hàng hóa hàng năm phải qua đây (gồm 3/4 số dầu Trung Quốc nhập khẩu và hầu hết số dầu chuyển đến Japan, South Korea, và Taiwan). Vì tất cả hàng hóa của họ vận chuyển bằng đường biển phải qua đây, nên Trung Quốc rất lo ngại chiến lược “Kiểm soát Ngoài khơi” (Offshore Control) của Mỹ nhằm bảo vệ “Vành đai các đảo tiền tiêu” (First Islands Chain) và dùng các điểm yết hầu như eo Malacca hay Lombok để chặn đường xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Vì vậy, trong khi Trung Quốc tìm kiếm các con đường bộ khác (qua Lao, Campuchea, Thailand), họ phải kiểm soát bằng được Biển Đông.

Điều một giàn khoan trị giá gần một tỷ đô la đến Biển Đông, với hơn một trăm tàu hộ tống các loại vây quanh trong mấy tháng liền, chi phí mỗi ngày gần một triệu đô la, Trung Quốc không chỉ nhằm một mục đích. Nếu không phải chủ yếu để khoan dầu như dư luận nghi vấn, thì nó phải có một nhiệm vụ gì khác quan trọng hơn. 

Giàn khoan này có thể được dùng để đánh lạc hướng dư luận trong khi họ lặng lẽ xây dựng đảo nhân tạo và căn cứ quân sự tại các bãi đá ở Trường Sa, nhằm áp đặt “đường lưỡi bò” (như chuyện đã rồi), tuyên bố “khu vực nhận dạng phòng không” (ADIZ) và đòi “vùng đặc quyền kinh tế” (EEZ) như tại Hoàng Sa. Nếu đúng Trung Quốc đang đóng thêm một giàn khoan khổng lồ thứ hai (HD 982) như tin đồn, thì việc sử dụng giàn khoan khổng lồ có công năng kép này chứng tỏ là một công cụ chiến lược hiệu quả, vừa để khoan dầu vừa để khẳng định chủ quyền.
Vì vậy, điều quan trọng là phải quan sát thật kỹ xem Trung Quốc đang lặng lẽ làm gì tại các địa điểm chiến lược khác ở Biển Đông, cũng như ở Việt Nam, Lào, Campuchea, và Thailand (từ sau đảo chính). Các công trình đang được xây dựng ở Trường Sa (như đường băng trên bãi đá Gac Ma, đảo nhân tạo và căn cứ quân sự trên bãi đá Chữ Thập) sẽ được kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm tại đảo Hải Nam và đảo Tam Sa tại Hoàng Sa. Theo đường chim bay, căn cứ Du Lâm chỉ cách đặc khu kinh tế Vũng Áng hơn 350km. Mấy nghìn công nhân Trung Quốc đang làm việc tại Vũng Áng (Hà Tĩnh, Miền Trung), tại dự án Bô xít Tân Rai và Nhân Cơ (Tây Nguyên) là một rủi ro lớn về an ninh. 

Nếu có chiến sự, Trung Quốc dễ dàng cắt đôi Việt Nam tại điểm xung yếu này. Về phía Tây có tuyến đường sắt cao tốc Côn Minh-Vientiane (Lào), các căn cứ tại Koh Kong và Bokor (Campuchea), kênh đào Kra Isthmus (Thailand). Một khi các cơ sở chiến lược này hoàn thành và được kết nối, thì Trung Quốc có thể vô hiệu hóa kế hoạch “xoay trục” của Mỹ nhằm ngăn chặn Trung Quốc, và dễ dàng khống chế Việt Nam. Họ chỉ cần hăm dọa, cưỡng ép và bắt chẹt cũng đạt được mục đích, mà không cần phải đánh, vì lúc đó mọi sự kháng cự của Việt Nam là quá yếu ớt và quá muộn…

Năm 1973 “cú sốc dầu hỏa” làm Nhật Bản được một bài học nhớ đời, phải vội vã điều chỉnh chiến lược năng lượng, nên bị thiên hạ gọi là “quái vật kinh tế”. Trung Quốc học bài rất nhanh, đã kịp thời bắt tay với Nga gần đây để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng và lá bài địa chính trị trong trò chơi nước lớn mới. 

Trong khi đó, Trung Quốc đã triển khai hung hăng hơn tại Biển Đông để tranh thủ giành lợi thế do khoảng trống quyền lực tại đây vì ASEAN yếu và phân hóa, còn Mỹ và các đồng minh đều vướng các vấn đề khác nên không thể hành động quyết đoán. Đây là nước cờ có tính toán nhưng rất nguy hiểm vì Trung Quốc không chỉ là một “quái vật kinh tế” khổng lồ đã vượt qua Nhật Bản, mà còn là một “quái vật được vũ trang” đầy tham vọng, sẵn sàng thách thức các quyền lợi toàn cầu của Mỹ. 

Họ không còn đủ kiên nhẫn để chơi theo luật chơi cũ. “Cú sốc giàn khoan” này là một lời cảnh báo và một bước ngoặt mới, không chỉ đối với Việt Nam mà cho toàn khu vực. Dù có kiềm chế, khả năng xảy ra xung đột vũ trang do sai sót kỹ thuật hay con người, hoặc do trục trặc về truyền thông là rất lớn.

 Làm thế nào để “thoát Trung”
Phản tỉnh dể thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ
Quan hệ Việt-Trung phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi. Nhưng thực tế điều này không thể có giữa một nước nhỏ yếu với một láng giềng khổng lồ, lại có truyền thống bá quyền đại Hán. Cách duy nhất là Việt Nam phải độc lập và đủ mạnh để răn đe đối với Trung Quốc (như Israel đối với các láng giềng lớn hơn).
Nhưng muốn độc lập và mạnh, trước hết phải “thoát Trung” vì cái bẫy ý thức hệ đã trói buộc và kìm hãm Việt Nam trong hơn một nửa thế kỷ. 

Cơ hội “thoát Trung” tốt nhất là khi Trung Quốc bi khủng hoảng và suy yếu (như thời Cách mạng Văn hóa). Mô hình Trung Quốc trước đây đã thất bại (như đại nhảy vọt) và sắp tới cũng không thể thành công (như Giấc mộng Trung Hoa), trừ phi có thay đổi chính trị cơ bản (điều này rất khó). Đó là nghịch lý phát triển kiểu Trung Quốc. Gordon Chang dự đoán “Trung Quốc sắp xụp đổ” trong khi Paul Krugman xác nhận “Trung Quốc đang gặp rắc rối lớn”, vì đã đến điểm giới hạn. Ngày phán quyết của họ đang đến gần. Vậy tại sao Việt Nam cứ đi theo Trung Quốc?

Muốn “thoát Trung”, trước hết Việt Nam phải đổi mới tư duy, từ “trong cái hộp” phải tư duy “ngoài cái hộp”. Người Việt phải học hỏi kinh nghiệm “thoát Á” của người Nhật dưới thời Minh trị, theo tư tưởng đổi mới vĩ đại của Fukuzawa Yukichi (1835-1901). 

Những nước Đông Á nào quyết tâm đổi mới tư duy để hiện đại hóa đất nước, đều trở thành cường thịnh và có sức sống (như Nhật Bản, Hàn Quốc). 

Chỉ 2 hay 3 thập kỷ sau chiến tranh bị tàn phá lớn, họ đã chấn hưng được đất nước, trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.

Trong hơn một nửa thế kỷ qua, Việt Nam đã xa lầy vào quỹ đạo ý thức hệ Trung Quốc hai lần. Lần thứ nhất là từ khi biên giới hai nước thông thương (1950) để hai bên “núi liền núi, sông liền sông”, gắn bó như “môi với răng”, và để chủ nghĩa Mao tràn vào Việt Nam, gây bao đại họa (như cải cách ruộng đất, tập thể hóa nông nghiệp, đàn áp phong trào nhân văn Giai phẩm…). Lần thứ hai là tại gặp gỡ cấp cao Thành Đô (9/1990) khi hai “anh em tử thù” lại đột nhiên ôm chầm lấy nhau như các đồng chí “bốn tốt” với phương châm “16 chữ vàng”. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc một cách “bất bình thường”, dại dột tự chui đầu vào cái bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, để bây giờ mới vỡ mộng khi Trung Quốc công khai lộ bộ mặt thật. Hệ lụy nặng nề của sai lầm to lớn tại Thành Đô đã được cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch dự báo, nay đang diễn ra tại Biển Đông và những nơi khác.

Giữa hai kinh nghiệm thảm họa đó khi Việt Nam đi theo quỹ đạo Trung Quốc, thì Việt Nam đã cố “thoát Trung” một lần sau năm 1975, khi Việt Nam xâm lược Campuchea để đánh Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc (12/1978), và đánh trả Trung Quốc xâm lược Việt Nam để “dạy bài học” 
(2/1979). Việt Nam đã coi Trung Quốc như “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”, thậm chí ghi cả điều đó vào Hiến pháp (1980) và Cương lĩnh Đảng (1982). Việt Nam đã mắc sai lầm chiến lược to lớn, sập bẫy của Trung Quốc, bị cô lập với thế giới (trừ Liên Xô), và sa lầy tại Campuchea. Việt Nam đã cố “thoát Trung” một cách lầm lẫn: chống Trung Quốc (nhưng vẫn giữ nguyên ý thức hệ), chủ quan (tưởng Liên Xô là thành trì vững chắc) và ngây thơ (đối đầu với Trung Quốc khi họ đã bắt tay được với Mỹ).

Nay nếu Việt Nam định “thoát Trung” bằng cách đi đêm với Mỹ như đối tác chiến lược để chống Trung Quốc, trong khi không chịu từ bỏ ý thức hệ đã lỗi thời, thì sẽ lặp lại sai lầm. Việt Nam chỉ có thể dựa vào Mỹ để “cân bằng” với Trung Quốc, chứ không thể “đối đầu” với họ. 

Chỉ có thể “thoát Trung” về ý thức hệ, chứ không thể “thoát Trung” về địa chính trị. Về lâu dài, người Việt phải sống khiêm tốn, tử tế, tương kính với người Hoa như những láng giềng thân thiện, cùng nhau đổi mới kinh tế và chính trị, xây dựng một xã hội khá giả và dân chủ. Độc tài và tham nhũng là kẻ thù chung của hai dân tộc. Vì vậy, muốn “thoát Trung” trước hết phải phản tỉnh để thoát khỏi ý thức hệ đã lỗi thời, là nguyên nhân chính dẫn đến mọi tai họa.

Làm thế nào để sống bên cạnh Trung Quốc?
Phải thay đổi hoặc mất hết.
Nhìn lại quá khứ với những bài học đau đớn, Việt Nam phải làm thế nào để sống được bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ có truyền thống bá quyền đại Hán (như Trung Quốc)?

Thứ nhất, lãnh đạo của nước nhỏ hơn phải giỏi hơn về thuật trị quốc, để nước láng giêng lớn hơn không dễ bắt nạt. Để có lãnh đạo giỏi, phải biết trọng dụng nhân tài, không phân biệt và kỳ thị nguồn gốc, như người Đức trọng dụng bà Angela Markel gốc Đông Đức hay ông Philipp Koeller gốc Việt. Lãnh đạo quốc gia phải vì lợi ích dân tộc, chứ không vì lợi ích nhóm hay cá nhân. Nếu lãnh đạo chạy chức chạy quyền không theo luật pháp, thì các quan tham sẽ vơ vét tài sản quốc gia làm giàu cho mình, làm đất nước khánh kiệt.
Thứ hai, dân trí của nước nhỏ hơn phải cao hơn trong một xã hội dân sự, để nước láng giềng lớn hơn không dễ lừa gạt. Phải khai tâm khai trí cho dân, và phải tôn trọng quyền tự do dân chủ của người dân. Đất nước không thể có nhân tài nếu người dân không được suy nghĩ sáng tạo và tự do tư tưởng. Không thể phát huy được nội lực quốc gia để dựng nước và giữ nước nếu không có hòa giải dân tộc và xã hội dân sự.
Thứ ba, tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước nhỏ hơn phải có chất lượng cao hơn, để nước láng giềng lớn hơn không dễ áp đặt. Trong quá trình dựng nước, phải học bài học “quốc gia khởi nghiệp” của Israel, và kinh nghiệm phục hồi kinh tế sau chiến tranh của Đức, Nhật và Hàn Quốc. Mặc dù Nhật và Đức thua trận phải đầu hàng, nhưng chỉ hai-ba thập kỷ sau chiến tranh, họ đã phục hồi, trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai và thứ ba thế giới. Trong khi đó Việt Nam tuy thắng trận, nhưng bốn thập kỷ sau chiến tranh, đất nước vẫn nghèo nàn lạc hậu và lệ thuộc. Muốn phát triển kinh tế bền vững, phải đổi mới thể chế chính trị, để hậu thuẫn cho cải cách kinh tế và đổi mới công nghệ.

Thứ tư, quan hệ đối tác chiến lược của nước nhỏ hơn phải đủ mạnh để răn đe tham vọng bá quyền của nước láng giềng lớn. Hiện nay, Viêt Nam có rất ít sự lựa chọn và rất ít thời gian, không thể tiếp tục bắt cá hai tay để cân bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ. Sự kiện giàn khoan HD 981 là một bài học. Trong thế giới đa cực ngày nay, quan hệ đối tác chiến lược không còn phụ thuộc vào ý thức hệ mà chỉ dựa vào lợi ích quốc gia và địa chính trị. Nếu Việt Nam không chịu thay đổi tư duy thì sẽ trở thành tù binh của quá khứ, và thất bại.

Nếu thiếu hụt những yếu tố trên, Việt Nam dễ trở thành mồi ngon của chủ nghĩa bá quyền đại Hán. Nguy cơ bắc thuộc ngày càng lớn lên cùng sự trỗi dậy của Trung Quốc và tụt hậu của Viêt Nam. Để giữ độc lập và chủ quyền quốc gia, người Việt cần phản tỉnh để thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và cải cách thể chế chính trị. Đã đến lúc phải thay đổi hoặc mất hết.
6/2014
N.Q.D
(Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993).

Trái đắng của sự lệ thuộc

Nam Nguyên

Thủy điện Sông Bung 4 ở huyện Nam Giang, Quảng Nam đang được nhà thầu của Trung Quốc thi công. Courtesy photo
Vụ nhà thầu Trung Quốc bỏ ngang dự án thủy điện đang thi công ở Kontum hồi cuối tháng 7 đã làm nóng lại cảnh báo về mối nguy lệ thuộc Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực.

Phần nổi của tảng băng chìm
TS Phạm Sỹ Thành, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) được báo Lao Động điện tử trích lời nói rằng, sự phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Mối nguy từ việc doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu phần lớn các dự án “chìa khóa trao tay” tổng thầu EPC tại những công trình trọng điểm mới là điều đáng lo ngại.

Trả lời Nam Nguyên, TS Phạm Sỹ Liêm, nguyên thứ trưởng Bộ Xây dựng, phó Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam từ Hà Nội phân tích thể thức đấu thầu hiện hành. Theo lời ông, hiện vẫn là thể thức hai phong bì, một phong bì là kỹ thuật, sau khi thông qua phong bì dự thầu về kỹ thuật thì xem đến phong bì về tài chính xem mức giá nào đó thì chọn. Về nguyên tắc là có thể không chọn giá thấp nhất, nhưng khuynh hướng hiện nay nói chung vẫn là chọn giá thấp nhất. Để nhà thầu Trung Quốc hay ai khác trúng thầu là tùy thuộc cách tổ chức chọn thầu. TS Phạm Sỹ Liêm nhấn mạnh:
Nhà thầu Trung Quốc thì họ bỏ thầu để trúng cái đã. Còn sau đó khi ký kết hợp đồng họ sẽ thương lượng chứng minh thế nọ thế kia để bổ sung giá cao hơn. 

-TS Phạm Sỹ Liêm

“Nhưng ở đây tự nhiên không hiểu cách chọn thế nào đó mà các dự án ngành năng lượng các nhà thầu Trung Quốc đều trúng thầu. Tại sao lại như vậy, là vì các chủ dự án cứ muốn chọn những nhà thầu đưa ra giá rẻ nhất còn bên nhà thầu Trung Quốc thì họ bỏ thầu để trúng cái đã. Còn sau đó khi ký kết hợp đồng họ sẽ thương lượng chứng minh thế nọ thế kia để bổ sung giá cao hơn. Nhưng Luật Đấu thầu bây giờ thì lại cấm giá hợp đồng không được cao hơn giá đấu thầu. Thế nhưng những dự án trước đây là như vậy. Chẳng hạn dự án đường sắt trên cao thì họ cũng như thế và bây giờ họ cũng đòi thêm, không được thì họ cũng bỏ dở nửa chừng họ đi về. Tôi chưa rõ là các chủ dự án của chúng ta sẽ xử lý vấn đề như thế nào. Nhưng tôi nghĩ chắc là phải xử lý đúng theo luật pháp về hợp đồng kinh tế”.
Thông tin ghi nhận trong số 24 dự án nhà máy xi măng thì Trung Quốc làm tổng thầu EPC 23 dự án. Nắm tổng thầu Trung Quốc dành hết thầu phụ cho người của họ; đem luôn lao động phổ thông từ Hoa lục sang. Hiện nay trong 20 dự án nhiệt điện, Trung Quốc trúng tổng thầu EPC 15 dự án tỷ lệ nội địa hoá 0%. Phần lớn các dự án của Tập đoàn Than và khoáng sản phía Trung Quốc đều trúng tổng thầu, kể cả hai dự án bauxite Tây nguyên đầy tranh cãi.
Một công trình xây dựng tại KCN Vũng Áng do nhà thầu Trung Quốc thi công. Courtesy photo.
Các chuyên gia đã cảnh báo an ninh năng lượng của Việt Nam nằm trong tay Trung Quốc. Giả sử nhà thầu Trung Quốc vòi vĩnh không được bỏ ngang thì gây thiệt hại rất lớn. Với thiết bị máy móc và công nghệ Trung Quốc thì các nhà thầu khác khó lòng vào làm thay được.
Báo điện tử Đất Việt ngày 21/8/2014 trích lời bà Bùi Thị An, đại biểu quốc hội đơn vị Hà Nội cảnh báo tình trạng nhà thầu Trung Quốc ngừng thi công đòi thêm tiền ngày càng phổ biến. Bà An nêu ví dụ dự án nhiệt điện Nông Sơn Quảng Nam năm 2008, nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu giá rẻ thi công ì ạch đến năm 2012 thì bỏ hẳn trong khi công trình mới xây dựng được một nửa khối lượng. Chưa hết, gần đây nhất chủ đầu tư dự án thủy điện Vĩnh sơn-Sông Hinh cũng đã phải chấm dứt hợp đồng với nhà thầu Trung Quốc nửa chừng vì họ ngừng thi công đòi tăng giá.
Theo lời Đại biểu Bùi Thị An, cần phải truy trách nhiệm đến cùng người đứng đầu các công trình, cũng như những người đã duyệt thầu. Tất cả mọi thứ cần phải được công khai minh bạch.
Người TQ trúng thầu ở mọi nơi
Về câu chuyện Việt Nam đã có quá nhiều kinh nghiệm về công nghệ Trung Quốc và nhà thầu Trung Quốc, nhưng tại sao người Trung Quốc lại trúng thầu ở mọi nơi mọi chỗ. TS Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam nhận định:
“Rõ ràng việc lựa chọn bên trúng thầu không đúng và thực tế đã chỉ ra. 

Còn tại sao tình trạng tiếp tục thì cũng chưa ai nói rõ lý do. Nhưng chúng ta đều biết người Trung Quốc trong kinh tế rất coi trọng các mối quan hệ họ gọi là “Guan Xi” và ở Việt Nam cái “Guan Xi” này đã phát huy tác dụng và do đó họ trúng thầu nhiều dự án. Trước khi thầu thì họ đã mời các bên có liên quan sang nước họ tham quan để chứng tỏ năng lực của họ. Trong quá trình tham quan thì họ đã “thế nào đó” và rõ ràng cái đó tác động kết quả lựa chọn thầu”.

Người Trung Quốc trong kinh tế rất coi trọng các mối quan hệ họ gọi là “Guan Xi” và ở Việt Nam cái “Guan Xi” này đã phát huy tác dụng và do đó họ trúng thầu nhiều dự án.
-TS Phạm Sỹ Liêm

Đề cao Luật Đấu thầu 2013 và hy vọng nó sẽ sớm có tác dụng giúp cải thiện tình trạng khuất tất trong vấn đề đấu thầu. Tuy nhiên TS Phạm Sĩ Liêm có thêm đề xuất, ông nói:
“Những dự án này phần lớn đều là dự án của nhà nước mà những dự án người Trung Quốc tham gia phần lớn lại là những dự án vay tiền của Trung Quốc mà vay tiền của Trung Quốc, vay vốn ODA thì người ta yêu cầu phải sử dụng nhà thầu Trung Quốc, tư vấn Trung Quốc, các nước khác thì cũng tương tự thôi. Các chủ đầu tư dự án nói chúng tôi phải chọn nhà thầu Trung Quốc vì chúng tôi vay tiền vốn ODA của Trung Quốc, phải theo điều kiện đặt ra. Nhưng theo tôi, chúng ta lúc cần cũng phải biết nói không với vốn ODA. Chứ không có nghĩa cứ vốn ODA là phải chấp nhận”.

Về mặt chính thức Trung Quốc không phải là nước cung cấp viện trợ phát triển (ODA) lớn cho Việt Nam. Trong số 92 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, Trung Quốc xếp thứ 14 với gần 900 dự án FDI tổng vốn đăng ký 4,68 tỷ USD.

Tuy vậy theo trang mạng Diễn đàn Kinh tế Việt Nam VEF, dòng vốn Trung Quốc chảy vào Việt Nam rất lớn và chưa được thống kê đầy đủ. Thực tế Trung Quốc cung cấp vốn vay ưu đãi lãi suất thấp cho hầu hết các dự án ngành công nghiệp, năng lượng của nhà nước Việt Nam, thông qua đầu mối Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank).

Rõ ràng bất kỳ sự lệ thuộc nào cũng kèm theo trái đắng, kể cả lệ thuộc vốn vay của Trung Quốc.
N.N

Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu

image
Preview by Yahoo
Bà con hãy tìm đường chạy ra nước ngoài cho sớm như hồi 1975 kẻo bọn Tàu cộng đến cai trị thì chạy không kịp nữa!

Một vị ni sư bị đối xử tàn nhẫn:




Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu ...


Chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979


Battlefield Vietnam - Part 01: Dien Bien Phu The Legacy

SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)

SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)

SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
















Ha ha ha !
Hố hố hố !
Không biết làm thịt em nào trước đây?
xem thêm



Ảnh của Ngoc Bui.

HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-



Sốc - Lính Trung cộng hành hạ tra tấn tù binh VN vô cùng tàn bạo dã man



__._,_.___


Posted by: hung vu <vhungvu07@yahoo.com.au> 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Lisa Pham Vấn Đáp official26/3/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link