Friday, August 7, 2015

AI KHÁT NƯỚC – AI ĐÀO GIẾNG?!

 

Giới trẻ và những thông tin mạng

05/08/2015
Thùy An và Bình Minh

Giới trẻ và những thông tin mạng
Mỗi ngày khi chúng ta tìm kiếm những thông tin liên quan đến các lãnh vực giải trí, xã hội hay chính trị… Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng mình là một phần của thông tin này hay không ? Mời quý vị cùng nghe những trao đổi của một số các bạn trẻ về vấn này.

AI KHÁT NƯỚC – AI ĐÀO GIẾNG?!
Duy Le - 03.08.2015
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà nhìn đâu cũng thấy những bức xúc, từ kinh tế chính trị đến văn hóa xã hội… Chúng ta ai cũng mong muốn có một cuộc sống và môi trường sống tốt đẹp hơn. Ấy vậy mà, nghịch lý thay, phần lớn trong chúng ta đều nghĩ rằng: “để làm cho xã hội này tốt đẹp hơn không phải là bổn phận và trách nhiệm của mình”.
Vậy thì thưa các bạn, ai khát nước, ai đào giếng?!
Chúng ta mong muốn xã hội tốt đẹp hơn nhưng chúng ta lại không chịu góp tay vào để làm cho nó tốt đẹp hơn thì cái xã hội này sẽ tốt đẹp hơn bằng cách nào đây?! Nó giống như chúng ta sống trong một ngôi mà đầy rác, chúng ta mong ước nó sạch nhưng không ai trong chúng ta chịu giơ tay cầm chổi, ngôi nhà ấy chỉ có thể càng ngày càng dơ bẩn hơn mà thôi.
Chúng ta ai cũng biết rằng: “đấu tranh là tránh đâu”. Nhưng mà, chúng ta không đấu tranh thì chúng ta có tránh được không?
Sau mỗi trận mưa, chúng ta lội bì bõm dưới những con đường mà nếu chụp hình lại thì người ta không biết nó là đường hay sông.
Mỗi lần chuyển trường cho con, cháu thì nếu không có thủ tục đầu tiên thì y như rằng chuyện không tưởng đã trở thành hiện thực.
Chúng ta đau lòng khi nhìn con cháu chúng ta ngày tắt mặt tối với chồng sách vở trên lưng, chạy từ trung tâm này qua trung tâm khác.
Mỗi lần đưa thân nhân vào viện thì chúng ta đau xót mà nhìn sự thờ ơ của những “từ mẫu” trước nỗi đau của thân nhân mình.
Mỗi lần xăng tăng giá thì chúng ta cứ phải chửi thề vài câu.
Mỗi lần nghe quy hoạch thì chúng ta lại hồi hộp vì không biết đất đai, nhà cửa của chúng ta sẽ lưu lạc phương trời nào.
Còn rất nhiều, rất nhiều những bức xúc mà tôi cam đoan rằng, không ai trong chúng ta không từng trãi qua.
Chúng ta cam phận hay chúng ta hèn nhát?
Tôi vẫn còn nhớ cách đây không lâu có một cô hoa hậu với một thế ngủ không đẹp đã khiến hàng trăm ngàn người nhảy lên chửi đổng và ban cho cô ta vô số tội, nào là không đoan chính, nào là bỉ mặt quốc gia, nào là không xứng đáng … chỉ là một thế ngủ mà thôi chúng ta cũng sẵn sàn chém giết không thương tiếc đồng loại của mình chỉ để thỏa cái tôi muốn tỏ ra ta đây hơn người. Vậy mà, ngay cả nỗi đau của chính mình chúng ta lại không dám nói, không dám đấu tranh giành lấy cái quyền mà tạo hóa ban cho chúng ta. Chúng ta hèn nhát có phải không?! Chúng ta ích kỷ có phải không?! Chúng ta mong chờ người khác hứng lấy phần thiệt để cho chúng ta có cái lợi mà không biết rằng, “lợi thì có lợi mà răng chẳng còn”.
Chúng ta hôm nay thờ ơ trước các vấn đề xã hội có nghĩa là chúng ta đang tự tay tát vào lòng tự trọng của mình, tự tay giết chết tương lai của chính mình, gia đình mình và con cháu chúng ta sau này.
Chúng ta chờ đợi những điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta mà chúng ta không biết tự tay làm lấy thì cái mà chúng ta nhận được chỉ là sự khinh bĩ của kẻ đàn áp chúng ta mà thôi.
Chúng ta thấy người khác bị chiếm đất, chúng ta thốt lên “ồ may quá mình không bị” mà không biết rằng rồi sẽ tới phiên mình.
Chúng ta ai cũng nghĩ mình cứ im đi để người khác đấu tranh, được thì mình cũng hưởng mà không biết rằng ai cũng nghĩ giống mình thì cái hưởng đó nó nằm ở một tương lai rất xa mà cái bị ngay trước mắt và mỗi ngày càng nặng thêm.
Chúng ta, mỗi con người sống trong xã hội này, ngoài trách nhiệm đối với bản thân, với gia đình, chúng ta còn có trách nhiệm với xã hội, với tổ quốc. Chúng ta không chỉ lo cho sự an ổn tạm thời ở hiện tại, mà chúng ta cần phải quan tâm và xây dựng một sự thịnh vượng vững bền ở tương lai.
Ai khát nước, Ai đào giếng?
Câu trả lời xin dành lại cho mỗi người.

Thông Tin Đức Quốc - http://www.ttdq.de/node/2364

Thursday, August 6, 2015

Chuyên gia Pháp : Trung Quốc có thể gây ra Đệ tam Thế chiến như thế nào ?


On Wednesday, August 5, 2015 6:41 AM, Quyet Nong <> wrote:


Thứ Hai, ngày 03 tháng 8 năm 2015

Chuyên gia Pháp : Trung Quốc có thể gây ra Đệ tam Thế chiến như thế nào ?

 
(Le Figago 31/07/2015) Trong tác phẩm « Hạm đội ma, câu chuyện của Thế chiến lần tới », các chuyên gia Mỹ dự báo cuộc đại chiến thế giới lần thứ ba là nhằm chống lại Trung Quốc. Một kịch bản được nhà kinh tế Antoine Brunet* cho là khả tín, ông giải thích các nguyên nhân và hậu quả của trận Thế chiến tương lai.

Le Figaro : Đối với các chuyên gia Mỹ, cuộc đại chiến thế giới lần tới sẽ nhằm chống lại Trung Quốc. Các nguyên nhân và hậu quả của trận Thế chiến này sẽ như thế nào ?


Antoine Brunet : Nguyên nhân thứ nhất, là lại một lần nữa, giống như trong thập niên 60 và 70, chúng ta gặp lại cấu hình địa chính trị toàn cầu - hai siêu cường đối đầu ngang ngửa với nhau trên tất cả các tiêu chí. Siêu cường đang lên là Trung Quốc không còn chấp nhận « dưới cơ » siêu cường đang đi xuống là Hoa Kỳ, còn Mỹ thì từ chối nhường vị trí đại cường đứng đầu thế giới cho Bắc Kinh.

Từ thực tế này, chúng ta đang trong một kịch bản đối đầu tiềm ẩn nhưng thường trực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, như trường hợp Hoa Kỳ và Liên Xô trong thập niên 60 và 70. Và một sự đối đầu trên nhiều phương diện có thể diễn biến xấu đi bất kỳ lúc nào, trở thành một cuộc chiến tranh thực sự.

Nguyên nhân thứ hai, là sự đối địch giữa hai siêu cường có trọng lượng địa chính trị toàn cầu tương đương, nhưng lại khác biệt rất lớn về dạng thức cầm quyền. Nếu sau Hoa Kỳ, Trung Quốc đã áp dụng kinh tế tư bản thay cho kinh tế tập thể từ 40 năm qua, Bắc Kinh vẫn nhất quyết duy trì phương thức cai trị độc đoán, trong khi Hoa Kỳ vẫn áp dụng phương thức dân chủ.

Do đó hoàn toàn loại trừ khả năng hai siêu cường này có thể bắt tay nhau để cùng quản lý hành tinh. Trung Quốc muốn ca khúc khải hoàn, làm bá chủ thế giới để đảm bảo rằng các lực lượng dân chủ trong và ngoài nước không còn là mối quan ngại cho phương thức toàn trị của họ. Các bản sao của một kịch bản như vậy đang được chuyền tay ở Lầu Năm Góc.

Điều này sẽ diễn ra trong tương lai gần ?

Trung Quốc đã kiên nhẫn rất lâu rồi. Từ năm 1989 sau vụ Thiên An Môn, Bắc Kinh đã xây dựng một cách chậm chạp nhưng chắc chắn sức mạnh của mình để đến nay, năm 2015, họ đạt đến một sự thăng bằng về địa chính trị trên toàn cầu với Hoa Kỳ.

Nay thì Trung Quốc tăng tốc để giáng một thất bại quan trọng về tiền tệ cho Hoa Kỳ trong một tương lai rất gần, khi hất cẳng đồng đô la ra khỏi vị trí đồng tiền thống trị trên thế giới, thay thế bằng đồng nhân dân tệ. Điều này sẽ khiến cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía Bắc Kinh, không cách nào sửa chữa được và cũng không thể thay đổi tình hình được.

Từ khi kịch bản này hiện diện trong đầu, Bắc Kinh tỏ ra rất tự tin và cho rằng từ nay có thể làm mưa làm gió cả ở Biển Hoa Đông lẫn Biển Đông ; khuyến khích Matxcơva kéo dài cuộc xung đột với Ukraina, và sắp tới có thể là tại Moldova, cũng như các nước vùng Bantich.

Nếu các nước dân chủ liên minh lại, huy động lực lượng để làm thất bại chiến lược tiền tệ của Bắc Kinh, thì cuộc xung đột lãnh thổ do Trung Nam Hải khởi động mới có thể ngừng tăng tốc. Trên quan điểm này, các hội nghị đã được Quỹ Tiền tệ Quốc tế lên lịch vào tháng 10/2015 là một thời điểm quyết định.

Nếu các nước châu Âu tham gia trò chơi của Bắc Kinh và Matxcơva nhằm truất ngôi đồng đô la, tình hình có thể trở nên hết sức tồi tệ. Còn ngược lại, nếu châu Âu trở thành lá chắn cho đồng đô la, Bắc Kinh sẽ suy đoán rằng hãy còn quá sớm để lao vào những cuộc xung đột lãnh thổ.

Mối đe dọa Hồi giáo cực đoan không phải là hiện thực hay sao ?

Đúng là các quốc gia dân chủ nay đang bị đe dọa trên cả hai mặt trận : toàn trị Hồi giáo và toàn trị Trung-Nga. Khó thể chiến đấu trên hai mặt trận cùng một lúc, nhưng lại không tránh né được việc đáp trả cả hai thách thức này.

Cần phải tăng cường mối dây liên hệ hiện đang hết sức lỏng lẻo, giữa các nước dân chủ trong khối G7. Một điều cần thiết nữa, là Hoa Kỳ nên ngưng áp đặt mọi việc cho các quốc gia đồng minh hiện nay.

*Nhà kinh tế Antoine Brunet là chủ tịch công ty phân tích thị trường AB Marchés, tác giả cuốn « Ý đồ bá chủ của Trung Quốc » (La visée hégémonique de la Chine, Nhà xuất bản Harmattan, 2011).

Mời đọc lại : 
Chuyên gia Mỹ : Thế chiến lần 3 sẽ nhằm chống Trung Quốc











--
Mời xem BLOG http://www.vn-share-news.com ,thêm section ENGLISH

Wednesday, August 5, 2015

BỐN MƯƠI NĂM QUỐC HẬN Không Quên Thân Phận Người Thương Phế Binh VNCH


--
Kính Chuyển
MG


BỐN MƯƠI NĂM QUỐC HẬN
Không Quên Thân Phận Người Thương Phế Binh VNCH
MƯỜNG GIANG

  
            Còn nhớ lại những ngày tháng tư của bốn mươi năm về trước (30-4-1975), không biết sao mà năm đó trời bổng đổ mưa thật sớm và lớn hơn bao giờ hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Rang, Phan Thiết, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sài Gòn.

            Trong cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa học trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo cơn mưa, mịt mù đạn pháo.

“ Bồ Đào mỹ tửu, dạ quang bôi
dục ẩm tỳ bà, mã thượng thôi
tuý ngọa sa trường, quân mạc vấn ?
cổ lai chinh chiến, kỹ nhân hồi ”

            Bốn câu thơ cổ trong bài ‘ Lương Châu Từ ‘ của Vương Hàn (687-726) đã nói lên thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên mấy ai dám nghỉ tới chuyện trở về ?  Và giọt mưa nào đây vừa lăn trên má, đã khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến củ, những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để vùi bạn vữa ngã gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.

            Tất cả đã thành cổ tích. Giờ chỉ còn biết ngồi  đây mà nhớ lại những ngày xa cũ. Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai lộn trong thế kỷ này, nên đã cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn lửa đỏ. Cuối cùng, kẻ chết thì bị dầy mồ, tan xác, còn người sống, nếu không sống kiếp mây chiều lang thang, thì cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc chiếm, để gục đầu thương hận, mà khóc cho quê hương vì đâu máu xương chất ngất, vì đâu mà kiếp sống của con người, tới nay vẫn không bằng cây cỏ bên đường.

            Tất cả chỉ còn là kỷ niệm trong nhớ, vào những ngày đầu đời mẹ bỏ con trong gánh dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt Minh và Pháp.   Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng súng, cùng với bom đạn làm rách vở da thịt của quê hương. Rồi cũng vì người, vì ‘ tang bồng hồ thỉ, nam nhi trái , mà giôc ngước cả tuổi trẻ, đời trai, vào cốc men đắng cay, uống cạn hạnh phúc của chính mình.

            Đất nước hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đã dày vò người lính miền Nam, trong mưa bom đạn xéo não nùng. Rốt cục những người nằm xuống, những kẻ ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của VC, ai nấy cũng đả trả xong cái nợ ‘ da ngựa bọc thây ‘, tủi nhìn từng trang lịch sử của nước nhà, bị giặc thù bôi nhọ và khép kín.

            Trưa 30-4-1975 Sài Gòn thất thủ, miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17 tới mũi Cà Mâu, đã chính thức thuộc về lãnh thổ Xã Hội Chủ Nghĩa đệ tam quốc tế cọng sản, có tổng đài ở tận Nga Sô. Cũng từ giơ phút đó, khi mà chiếc mặt nạ hòa bình của người cọng sản đã cởi, để lộ những khuôn mặt thật của các thây ma vô hồn, lạnh băng và hung hiểm, thì cũng là lúc, đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc người lính VNCH. Nhưng than ôi tất cả đã muộn rồi, họ đã ngã gục không phải tại chiến trường vì đạn pháo của VC, mà ngay trên hè phố Huế, Đà Nẳng, Phan Thiết, Sài Gòn..bởi chính những viên đạn ích kỷ, hám danh, những miệng lưỡi ngòi bút, của chính phe mình.

            Ai chẳng một lần về với đất ? khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và sống chết sao cho ý nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những người lính chưa chết nhưng coi như đã chết vì thương tật chiến trận và những vết thương lòng. Họ không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đã gởi lại chiến trường một phần thịt da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Xuân Lộc..và ngay tại Sài Gòn, vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị VC giết chết. Họ ở lại làm vật hy sinh cản xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một chút thời gian, một bầu trời an toàn, một dòng sông lặng sóng, giúp cho mọi người từ dân tới lính, bình yên di tản.

            Nay thì từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những bóng ma của quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn, đang lê lết phận bèo khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch sử cũng sang trang nhưng thân phận của người thương binh và gia đình của họ, chẳng có gì mới lạ, vẫn lấy nước mắt làm mưa rửa mặt hằng ngày. Buổi trước, khi VC tràn vào, họ bị bỏ lại ở những quân y viện, làng phế binh, không còn đại bàng, đồng đội và hậu phương. Bây giờ thì dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng xã nghĩa, trước sự xa hoa thừa mứa của VC, Việt Gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ, aó gấm về làng, mà trong dòng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những cấp chỉ huy và đồng đội củ.

            ‘ Có làm lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngả đoạn trường. Có làm dân thời ly loạn mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom đạn vô tình, héo úa còn thua cây cỏ. Có là người thương phế binh sau khi xuất viện, bỏ lại một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ bạc phước vô phần. Thê thiết tận cùng là đời của người lính về chiều lại còn mang thương tật. Hỡi ôi những mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc đời ?

‘ ngày xưa, là lính vì đời chiến đấu
là cầu đem người sang sông
hôm nay làm ma cô đơn, gục chết bên vệ đường ..’

1-THÂN PHẬN NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VNCH:

            Đọc Congressional Record, một trong những tài liệu tuyệt mật của Tòa Bạch Ốc vừa được công bố, đa làm cho những lính già của VNCH phải cười ra nước mắt và thương xót cho những đồng đôi, đồng bào suốt hai mươi năm qua, vì chiến đấu chống sự xâm lăng của Bắc Việt, mà chết oan hay bị mang thương tật do đạn bom và bàn tay VC gây ra. Những luật lệ kỳ quái như cấm Lính Mỹ không được bắn VC, trừ phi chúng tấn công trước. Không lực Mỹ không được giội bom vào xe của VC khi chúng ở cách đường mòn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn công phi cơ Mig nếu chúng không gây hấn, không giội bom các phi cơ VC đậu yên tại phi trường. Cuối cùng, nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi VC, khi chúng chạy sang Lào và Kampuchia..

            Chính phủ Hoa Thịnh Đốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Đồng Minh, VNCH không được thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn báo trước những bí mật quân sự, quốc phòng cho VC biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường mòn HCM, hành quân Lam Sơn 719.. Đó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng QP Mỹ Phil Golding thời TT.Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ Hoa Kỳ:’ Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với những mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên không thể tiêu diệt VC được ‘.

            Do sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là ‘ đánh không cần thắng ‘, nên dân chúng đã xuống đường, đã đảo mà báo chí thời đó gọi là do phản chiến giựt dây. Thật sự, người Mỹ đã quá chán ngấy cái trò đem con bỏ chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ đòi Hoa Thịnh Đốn ‘ Hãy cút khỏi VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích này .’

            Tóm lại, qua cuộc chiến VN do đầu óc con buôn,  người Mỹ đã đánh mất tất cả mọi ý thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế của dân chúng, hại cho 55.000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300.000 quân nhân các cấp bị thương tật. Trong khi đó, người lính VNCGH, dù là một quân đội bất hạnh nhất thế giới, theo báo cáo của MACV, Command History hay Dwight Owen, một cố vấn Mỹ tại VN, thì đối với các quân nhân VNCH, CHỈ CÓ CHẾT, TÀN PHẾ HAY ĐÀO NGỦ, mới mong giải thoát được cái thân phận bọt bèo của người Lính chiến trong thời loạn lạc.

            Ngoài ra tài liệu cũng có nói tới việc lính Nam VN đào ngủ, nhưng không phải họ đầu hàng VC, mà trở về quê nhà gia nhập lực lượng DPQ+NQ, để được chiến đấu bên cạnh vợ con, gia đình. Sau rốt tính đến đầu năm 1975, QLVNCH đã có 231.508 tử sĩ và 95.371 phế binh. Thương tủi nhất, là những ngày tháng sau đó cho tới khi Nam VN sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đã có hằng vạn dân lính vô tội gục ngã trên chiến trường và khắp các nẻo đường chạy loạn. Nhiều tử sĩ cũng như thương binh đã bỏ thây, bỏ xác tại chỗ, vì đồng đội không thể làm gì hơn giữa chốn loạn quân. Chính binh chủng Nhảy Dù từ ngày thành lập cho tới khi tan hàng, cũng đã phải nuốt lệ, bỏ lại xác đồng đội tại Mặt Trận Xuân Lộc tháng 4-1975, như Phạm Huấn  đã viết, khi được lệnh rút quân bất ngờ trong đêm mịt mù lửa đạn..

            Trước sự sụp đổ nhanh chóng và vô lý của Nam VN không phải tại chiến trường, mà ngay ở các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Đón, New York, Luân Đôn, La Mã, Huế-Đà Nẳng và Sài Gòn, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc đã phẫn nộ và bày tỏ thái độ khinh miệt, đối với một số người trong cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng tự do, dân chủ và nghề nghiệp, để bẻ cong ngòi bút, xuyên tạc sự thật, phỉ báng đồng bào và quân đội Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp Bắc Việt cưỡng chiếm VNCH. Đề tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương viết lách, đem lên truyền thanh truyền hình, đó là người lính VNCH hèn nhát không chịu chiến đấu nên bị mất tự do và người Mỹ khinh miệt.

            Hai câu hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ sự thật đã xác nhận ‘ KHÔNG ‘. Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Nam VN, có đủ phương tiện tinh thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương vong, bại nhục., vẫn không thiếu những binh sĩ đào ngủ, bỏ chạy khi trận địa hỗn loạn, vẫn có tham nhũng và chính cưu TT. Bill Clinton, vì hèn nhát nên đã trốn quân dịch pháp định. QLVNCH chỉ mới thành lập, được coi là một quân đội nghèo nhất trên thế giới, lại bị chiến đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường, hậu phương, bạn địch.

            Thế nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng với tiền tử tuất, phế tật, không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ..vậy mà họ vẫn một đời đem máu đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ màu cờ, sắc áo và từng sinh mạng cũng như tất đất của quê hương. QLVNCH là sinh mạng của muôn người, nên khi thiếu vắng hay không còn họ, mạng người Nam VN lá rụng, đã gục ngã tại Mậu Thân Huế-Sài Gòn, trên các đại lộ kinh hoàng quốc lộ 1, Kontum, An Lộc mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng nhau chết tập thể vào ngày 30-4-1975. Như  sử gia Edward  S.Creasy viết trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Fifteen Decisive Battle Of The World ‘ năm 1851 ‘ Tầm quan trọng của một cuộc chiến, là những gì ta có hôm nay, đối với người thắng cũng như kẻ bai ‘. Những gì đã xảy ra tại Nam VN, sau 37 năm bị cong sản cưởng chiếm, đã đủ trả lời về tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa Robert S.McNamara cựu bộ trưởng QP. Thời TT Kenedy, đã giải thích một chiều trong hồi ký của mình ‘ In Retrospect-The Tragedy and Lesson of VN ‘.

            Nhưng không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông báo chí lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nhìn cảnh đời bi thảm của phận lính bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times Service, đã thay thế người  nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là hèn nhát, bỏ đồng minh tháo chạy về nước trước sự tấn cộng của VC. Họ cũng nêu đích danh Henry Kissinger là kẻ bán đứng VNCH cho VC khi bắt ép họ ký vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó tàn nhẫn cúp viện trợ, phủi tay đứng nhìn miền nam sụp đổ.

            Không có gì tồn tại với thời gian trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của Henry Winston chủ tịch đảng cọng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội  vào tháng 5-1975, hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sài Gòn thất thủ: ‘ cám ơn báo chí và ký giả Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là người Mỹ ‘.

            Đây là tất cả sự thật, vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là Harry H.Noyes, thay mặt những người lính VNCH, qua tác phẩm ‘ Heroic Allies ‘ nói lên vinh quang và sự hãnh diện của một quân lực, từ lâu đã bị bọn trí thức vô liêm sỉ, tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô nhân đạo. Sự tuyên truyền lố lăng và cuồng ngạo của Hà Nôi cùng những mặt mo bưng bợ, làm cho thiên hạ năm châu chán ghét, sau khi cái thây ma VNCH chỉ còn trơ lại bộ xương gầy đét, không còn gì để cho Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một số quạ đen, diều hâu, bu tới rỉa rói như lúc chợ còn đông khứa.

             Trong tài liệu đặc biệt ‘ How Media Bias Distorts Our View of the World ‘ của ký giả Allan Brownnfiels, nói rằng vì hầu hết giới truyền thông Tây Phương, quá mù quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Đông và Fidel Castro, trong lúc thẳng tay sỉ nhục bôi lọ Tưởng Giới Thạch và chính phủ CuBa lúc đó, tuy vô tình nhưng đã làm cho cọng sản tại hai nước này chiến thắng mau lẹ. Bài học của lịch sử sau đó lại tái diễn ở Nam VN. Lần này do chính những thành phần được ưu tiên trạng trọng trong xã hội  lúc đó, là những công tử tiểu thu đài cát của giới địa chủ, địa hào, thương gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo thực dân Pháp bốc lột đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua Pháp, Mỹ du học thành luật sư, bác sỷ, giáo sư, những thành phần mà Hồ Chí Minh và đảng VC ở miền Bắc, chém giết và khinh bỉ tận tuyệt, sau khi được làm chủ nửa miền đất nước vào năm 1954.

            Nhờ cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá trớn của Nam VN, những thành phần ăn chén đá bát này, luôn bẻ cong ngòi bút, làm cho thế giới tự do lầm lạc, nghĩ  rằng giặc Cộng tại Nam VN là những người bình thường, yêu nước, nên nỗi dậy chống lại sự độc tài tham nhũng của chế độ. Tóm lại nhờ những trí thức này, mà VC nằm vùng sau ngày tập kết 1954, VC chính thống từ Miền Bắc xâm nhập, kể cả Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Đông Âu..trong bộ đội Hà Nội đang chiến đấu tại Nam VN, đều không có dính líu tới Hồ và cọng sản đệ tam quốc tế. Sự độc ác trên, nhờ tuyên truyền ngay ở miền Nam và các mạng lưới quốc tế, khiến cho cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản, của người Việt quốc gia Nam VN, mất đi cái ý nghĩa chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Rốt cục, cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt trận thông tin ca ngợi VC, của báo chí, truyền thông ngoại quốc và ngay trong nước.

            Từ năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu  ở hậu phương . Đây cũng là dịp ăn nên làm ra của những thông tín viên, ký giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật có kèm hình ảnh, không phải để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi lọ những quân đội đang trực diện với cọng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam VN. Có thể nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS tên Morley Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ tại  một làng xôi đậu, đã trở thành những mẫu thông tin ‘ ăn khách’, theo đơn đặt hàng của thị trường Mỹ và Tây Phương lúc đó. Cũng nhờ báo chí  phản tuyên truyền, Tết Mậu Thân 1968 VC chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng chiếm được ngay cả Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương, trong suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề một chữ tường thuật những hành vi khủng bố, giết người tàn bảo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 và những ngày di tản máu lửa hận hờn

             Người lính VNCH vừa đánh giặc phương Bắc, vừa chống đỡ búa rìu truyền thông báo chí trong nước cũng như phong trào phản chiến tại Mỹ và tây phương, được liên kết bởi trí thức, sách báo và tuyên truyền. Đó cũng là lý do đưa đến sự sụp đổ tất yếu của một dân tộc hiền hòa, lễ nghĩa nhưng bất hạnh vì mang thân phận nhược tiểu

2 - THƯƠNG QUÁ NGƯỜI PHÊ BINH VN:

            Tất cả hình như chỉ còn có kỹ niệm sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng ta, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.

            Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đả đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế binh xa cũ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:

Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh..’
( Tô Thuỳ Yên)

            Ta thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử cũ. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần bình Chiêm, phá Bắc, đuổi giặc Mông trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành sử thế nào mà muôn người như một, khiến cho người trong nước, gia trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội  Nghi Diên Hồng. Sau này mới vở lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phân của kẽ sỉ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.

Tôi không là tôi nửa,
từ khi được xuất ngủ
có quạ đen đậu trên đấu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ..’

            Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh sau khi được xuât ngủ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã tùng thấy chưa,  cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu:

            Theo sử liệu, ta biết Nha Cựu Chiến Binh và Nạn Nhân Chiến Cuộc, trược thuộc Bộ Quốc Phòng. Đầu tiên Nha này là một Bộ, được thành lập vào tháng 8-1952, có một An Dưỡng Đường dành cho Thương Phế Binh. Sau đó, bộ này bị hủy bỏ, tất cả các vấn đề liên hệ tới cưu chiến binh, đều giao cho Bộ Y Tế, với một Nha riêng gọi là Nha Tổng Thư Ký, Cưu Chiến Sĩ và Phế Binh.

            Thời VNCH, qua một Đại Hội Cựu Chiến Sĩ toàn quốc tại Toà Đô Sảnh Sài Gòn. Ngày 29-5-1955, Nha Tổng Giám Đốc CCB và NNCC đưọc thành lập, trụ sở ở đường Đoàn Thị Điểm. Sau Tết Mậu Thân 1968, Nha được cải thành Bộ, gồm các Nha Sở Trung Ương và các Ty trực thuộc .

            Đầu năm 1969, một biến cố lớn đã xảy ra tai thị xã Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đó là vụ Y Sĩ Đại Uý Hà Thúc Nhơn, trưởng trại 12 Tai, mắt, mũi, họng, thuộc Quân Y Viện Nguyễn Huệ. Vì dám tố cáo Chỉ Huy Trưởng QYV là Thiếu Tá Phùng Quóc Anh, với sĩ quan hành chánh Đặng Mai, toa rập tham nhũng, ăn xén tiền ẩm thực của thương bệnh binh, cũng như mờ ám trong các vụ cứu xét, phân loại trợ cấp, miễn dịch. Đại Uý Nhơn đã cầm đầu các bệnh binh nổi loạn, nên bị Tỉnh trưởng Khánh Hòa lúc đó là Đại Tá Lý bá Phẩm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 BB. Biệt Lập, ra lệnh cho DPQ bắn trọng thương và đã chết khi chở vào cấp cứu tại Cam Ranh.

            Ngày đưa tang người xấu số, cũng là thời điểm Phế Binh Khánh Hòa đứng dậy đòi quyền sống. Taị Sai Gòn, Trung Úy mù BDQ.Đổ văn Lai cùng một số phế binh nặng, đang dưỡng thương tại Trung Tâm Chỉnh Hình, đường Bà Huyện Thanh Quan, cũng biểu tình, cắm dùi khắp Đô Thành, đòi Chính Phủ phải cứu xét lại quyền lợi của họ, trước vật giá leo thang đắc đỏ, do sự hiện diện của Mỹ và Đồng Minh, vung đô la xanh đỏ qua cửa sổ như khói thuốc. Phong trào tranh đấu bùng nổ khắp nước, làm cho chính quyền trung ướng cũng như tại các tỉnh bối rối, vì không thể dùng bạo lực để chèn ép hay khóa miệng, bởi phế binh cũng là lính, nên ai nỡ xuống tay .

            Rồi Tổng Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sài Gòn, bầu PB Nguyễn Đinh làm Hội Trưởng, PB Nguyễn Bính Thịnh, tức nhà văn An Khê, làm phó và PB Đinh Trung Thu, tổng thư ký. Ngoài ra còn có một Hôi Ái Hữu Thương Phế Binh, do cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn Hàng thành lập.

            Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) bắt đầu năm 1969 trở về sau, quyền lợi của Phế binh, cô nhi quả phụ càng ngay càng được  cải tổ, chăm sóc và dễ thở hơn trước. Nạn chèn ép, dìm sổ trợ cấp để làm tiền cũng chấm dứt. Từ năm 1972, chính phủ cho thành lập  Ty Cựu Chiến Binh tai các Tỉnh, có quyền hạn rất rộng rải, ngoại trừ sổ trợ cấp đầu tiên được ký cấp từ Bộ. Cũng từ
dó, nguời cô nhi, quả phụ và thương phế VNCH, được sống an nhàn hơn buổi trước, với các quyền lợi thiết thực, tương xứng, từ trợ cấp, xin việc làm, y tế, cho tới các kỳ thi, tất cả đều ưu tiên cho họ.

            Rồi thì hằng loại Làng Phế binh, lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xã. Riêng những phế binh đã có nhà, không muốn vào Làng, dược trợ cấp một ngân khoản 60.000 đồng. Tất cả các làng trên, đều bị VC cướp giựt sau ngày 30-4-1975.

            Làm người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi  phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ..

Giọt mưa trên lá, nước mắt  mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo ngưởi  xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ..’
(Phạm Duy).

            Nhưng chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.

            Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống ? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nửa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường

            Hai mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nửa, thì xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi, máu chảy thành sông. Rốt cục  chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều thứ gông, cả cọng sản, lẫn tư bản và đảng cầm quyền.

            Nhưng thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ củ còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi..thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của mình.

 19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết.
 30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Hòa-Sài Gòn.

            Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về ? Có ai cầm được nưóc mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối gót đắt dìu ra cổng. Người sáng giắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt đoanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba Chú Iá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèo.

            Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba mươi ba năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì. bóng ma trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ huy củ, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại.

- Xin hãy thương lấy ho, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngả.
- Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
- Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.
- Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối
- Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn, đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.

            Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối duyên xưa:

Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
cùng chàng lại kết, mối duyên đến già ..’
(Chinh Phụ Ngâm)

            Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa ngưng tiếng súng, lập từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị dầy mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuôc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH ?

Dâu binh lửa nước non như củ,
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương’
(Chinh Phụ Ngâm)

            Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nổi buồn thiên cổ, xin hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ . Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những vị ân nhân, đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đở tận tình ‘ Thương Phế Binh, gia đình kể cả cô nhị quả phụ VNCH ‘, hiện đang sống kiếp trầm luân rách đói, trong địa ngục VN.

           


Xóm Cồn Ha Uy Di
Thang 8-2015
Mường Giang

   
__._,_.___

Posted by: Ho Dinh 

Thời đại huy hoàng hay thời đại ăn cắp?



 
 Văn Quang - Viết từ Sài Gòn ngày 03.8.2015  


Thời đại huy hoàng hay thời đại ăn cắp?



Dư luận ở VN mấy tuần này rất sôi nổi về chuyện nhiều phụ nữ Việt Nam bị Singapore từ chối nhập cảnh. Thêm vào đó vụ hai du khách người Việt Nam vừa bị cảnh sát Thụy Sỹ bắt vì trộm cắp 3 cặp kính mắt càng làm dậy sóng trên khắp các phương tiện truyền thông từ trong nước đến nước ngoài.
Là người VN dù ở đâu cũng thấy quá xấu hổ. Hầu như tất cả những vụ bê bối tương tự như thế cũng được dịp “kiểm điểm” lại, vụ nọ nối vụ kia như những người Việt từng ăn cắp ở Thái Lan, Singapore, Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản

Dư luận cũng phản ứng bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều người giận dữ vì cảm thấy quốc thể bị sỉ nhục, muốn có hành động trả đũa, thậm chí kêu gọi tẩy chay du lịch Singapore. Nhưng bình tâm suy nghĩ lại và đặt câu hỏi tại sao những phụ nữ nước khác còn nghèo khó hơn VN vẫn được đón tiếp nồng hậu mà phụ nữ VN bị săm xoi, bị nhòm ngó, bị đuổi thẳng về nước như thế? Nhiều bạn đọc đã trả lời câu hỏi này.

Bạn Nguyễn Văn Mỹ trên thanhnien.com.vn kể lại:

“Tôi đã giận tím mặt khi cả đoàn doanh nghiệp Việt Nam, từng du lịch khắp thế giới nhưng vẫn bị hải quan cửa khẩu Aranyaprathet (Thái Lan, giáp với Poipet, Campuchia) buộc từng người phải cầm 700 USD lên để chụp hình trước bàn dân thiên hạ.

“Bảng phong thần” danh sách các nước bị hạn chế nhập cảnh vào Thái Lan có tên Việt Nam to tướng được dựng ngay cửa khẩu. Vậy mà lâu nay lãnh đạo không nghe, không biết.
Về nước, anh em phản ứng dữ dội, báo chí nhập cuộc, Tổng cục Du lịch và Bộ Ngoại giao Việt Nam có công hàm.

Người Thái thừa nhận sai sót, bỏ thủ tục chụp ảnh, dẹp bảng phong thần nhưng không chịu xin lỗi và Việt Nam vẫn nằm trong “Black list” (tạm dịch là Danh sách đen) của họ.
Chỉ khác là để trong bàn làm việc của cửa khẩu chứ không trương ra ngoài. Tìm hiểu mới hay là họ làm vậy để đối phó việc hàng ngàn người Việt qua Thái lao động bất hợp pháp, mang theo nhiều tệ nạn xã hội.

Cách hành xử của Singapore là vơ đũa cả nắm nhưng đừng vội trách họ. Dù không cho phép mại dâm công khai như Thái Lan nhưng Singapore có khu Geylang biệt lập và sầm uất không thua phố đèn đỏ ở Amsterdam (Hà Lan). Rất nhiều “Bướm đen” (vì toàn mặc đầm đen) người Việt lượn lờ ngã giá, bằng tiếng Việt và cả tiếng Anh ba rọi”.

So sánh giữa du lịch ở trong nước và nước ngoài.

Qua Singapore, chỉ một số phụ nữ bị làm khó dễ ở cửa khẩu, còn vào rồi thì được đón tiếp niềm nở trân trọng. Còn du lịch trong nước, bị chặt chém tơi tả, bị đối xử ghẻ lạnh, dù không phải tất cả. Hơn thế, chất lượng dịch vụ, an ninh xã hội, giao thông, vệ sinh thực phẩm và môi trường đều kém xa nên rất nhiều người Việt, dù yêu nước nồng nàn cũng “bỏ của chạy lấy người”.

                                   
                                  Nhiều cô gái Việt Nam sang Singapore để bán dâm chui là nguyên nhân
                                         khiến hải quan Singapore làm khó dễ phụ nữ Việt khi nhập cảnh nước này

Nói thẳng ra chỉ những người bị nghi ngờ là sang Singapore làm điếm hoặc ở lì không chịu về mới bị đối xử như vậy.
Trước hết là cách ăn mặc nhiều khi quá “thiếu vải” đầu tóc nhuộm xanh nhuộm đỏ, lối giao tiếp thiếu lịch sự… đã buộc nhân viên hải quan của họ phải nghi ngờ và cấm nhập cảnh là quyền của họ bảo vệ thuần phong mỹ tục của quốc gia mình.
Mặt khác, nếu bạn nói tiếng Anh trôi chảy, ăn mặc đứng đắn…chẳng ai thừa hơi đuổi bạn về nước làm gì. Họ sẽ trân trọng mới bạn bước vào nước họ.

Ngày 25/7, báo chí dẫn lời Tham tán Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore Nguyễn Minh Hằng sau buổi làm việc giữa phía Việt Nam và ICA cho biết Cơ quan Quản lý Cửa khẩu và Nhập cư Singapore (ICA) khẳng định hoàn toàn không áp dụng bất kỳ hình thức hay biện pháp phân biệt đối xử nào với công dân Việt Nam".
ICA cũng cho biết nhiều trường hợp công dân nữ Việt Nam sử dụng các hộ chiếu khác nhau để nhập cảnh Singapore, có trường hợp dùng ba hộ chiếu với nhân thân khác nhau. Đối với những trường hợp vi phạm nêu trên, ICA sẽ không cho phép nhập cảnh.

ICA cũng giải thích việc họ mời một số công dân nữ Việt Nam vào phòng để hỏi về giấy tờ liên quan, lấy dấu vân tay… là thực hiện giống như với công dân nhiều nước. Việc này để phục vụ việc quản lý xuất nhập cảnh trong dài hạn. Chúng ta thừa biết đó chỉ là những lời lẽ ngoại giao cho “vui vẻ cả làng”, thật ra nguyên nhân chính nằm ở phía sau. Hãy nhìn hình ảnh những cô gái VN đứng đường trên hè phố Singapore thì chẳng còn gì để bàn luận thêm.

Đến chuyện thời đại ăn cắp

                                   
                                                   Trung tâm mua sắm nhộn nhịp ở Zurich, Thụy Sĩ

Tôi dẫn chứng những sự thật đau lòng này qua lời kể của 2 hướng dẫn viên (HDV) du lịch VN qua nước ngoài. HDV kể lại trên VietnamNet, xin tóm tắt những điểm chính:

“Đoàn du lịch của tôi gồm 30 người, khởi hành từ ngày 9/7 đi du lịch Pháp và Thụy Sĩ. Đến ngày 15/7, ngày cuối cùng trước khi lên đường trở về nước thì xảy ra vụ việc đáng xấu hổ là hai du khách bị cảnh sát Thụy Sĩ bắt giữ vì trộm cắp.

                                    
                                                    Nhâm Tiến Dũng - Nhâm Thị Hồng Phương, ăn cắp tại Thụy Sĩ

Sự việc xảy ra ở khu mua sắm ở Zurich, Thụy Sĩ. Qua máy quay giám sát, nhân viên đã phát hiện hai du khách bóc nhãn, thẻ giá của 3 chiếc kính có trị giá 300 euro/chiếc và đem ra khỏi cửa hàng. Cảnh sát nhận được thông báo từ cửa hàng đã nhanh chóng bắt 2 vị khách này.

                  
                                      Giấy phạt tiền của cảnh sát Thụy Sĩ ghi rõ họ tên hai du khách Việt ăn cắp

Cả hai đã phải nộp phạt 2.000 franc (khoảng 46 triệu đồng) để được thả và đoàn có thể lên chuyến bay về Việt Nam vào sáng hôm sau. Không ai không phải che mặt vì quá xấu hổ với người nước bạn.

Còn phạm cả tội gian lận khai thuế

Hướng dẫn viên của đoàn cho biết ngay từ khi nhận đoàn, anh đã thấy một sự “không tử tế” ở hai du khách này. Trước khi xảy ra sự việc đáng xấu hổ này thì nam du khách này cũng vừa khiến anh mất mặt với nhân viên an ninh sân bay ở Zurich.
Du khách này đã khai gian để được hoàn thuế, khi nhân viên sân bay đưa tiền, anh này “sáng mắt” đã cầm vội và chạy đi. Nhân viên sân bay thấy lạ, họ kiểm tra lại giấy tờ, và đề nghị người dẫn đoàn phải gọi anh này trả lại tiền nếu không sẽ giữ cả đoàn ở lại.

Hướng dẫn viên kỳ cựu này cũng chia sẻ rằng, bao nhiêu năm dẫn đoàn, anh đã gặp không biết bao nhiêu kiểu người, nhưng có nhiều người Việt hay nói dối, lươn lẹo.

Chuyện nhỏ đáng xấu hổ hơn nữa

Một hướng dẫn viên khác kể lại những câu chuyện nhỏ còn đáng xấu hổ hơn. Anh nói:
“Tôi làm trong ngành du lịch lại chuyên về thị trường Outbound nên “được” nghe không biết bao nhiêu là những điều về du khách Việt. Có những khách phải thốt lên “nhục nhã quá”. Chuyện ăn, chuyện uống là “chuyện thường ở phố huyện”. Chẳng ở đâu lại buồn cười như khách Việt. Mỗi lần đoàn khách Việt bước vào là nhà hàng cứ “rôm rả” hẳn lên. Nào là nói to, nào là chọn người ngồi cùng bàn, lấy thức ăn thừa mứa đến nỗi nhà hàng phải để hẳn dòng chữ bằng tiếng Việt “Lấy đủ ăn, nếu thừa sẽ bị phạt!”.

                                   
                                              Bảng cấm lấy đồ ăn thừa trong các bữa buffet ở Thái Lan

Nhiều khách ra nước ngoài cũng “tranh thủ” thưởng thức mọi “đặc sản” địa phương. Họ đề nghị hướng dẫn viên cho địa chỉ đến "nhà thổ" mua dâm. Họ đi một mình thì chẳng sao, có người đòi hướng dẫn viên đưa đến tận nơi. Hướng dẫn viên ngồi ôm đồ cho khách chờ ngoài sảnh đến nửa đêm chưa được về nghỉ, ngày mai vẫn phải lên đường như bình thường.

Có khách khiếm nhã, còn "đề nghị" với nữ hướng dẫn viên địa phương hướng dẫn đi chơi gái liền bị mắng té tát, làm chúng tôi bị một phen khốn đốn xin xỏ, còn khách đó bị bẽ mặt trước cả đoàn.

Trốn ở lại lao động trái phép lại còn là vấn nạn đối với rất nhiều nước, làm hướng dẫn viên và công ty tổ chức bị một phen “tá hỏa”. Đừng hỏi vì sao các nước lại làm chặt visa đối với công dân một số nước trong đó có Việt Nam”.

Lao động VN cũng làm xấu mặt dân Việt

Trên báo Dân Trí ngày 28-7-2015 vừa đưa ra một thông tin mới nhất về những người được đưa đi xuất khẩu lao động bị trả về vì ý thức chấp hành pháp luật của người lao động kém; thường trộm cắp, đánh nhau, bỏ trốn...

Cụ thể gần 4.000 lao động Việt Nam làm việc ở lĩnh vực bảo vệ, vệ sĩ tại Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) hoang mang trước việc đột ngột bị chấm dứt hợp đồng trước hạn. Trong khi cơ quan chức năng đang tìm cách bảo vệ quyền lợi của họ thì một số lao động kích động quậy phá.
Bản ghi nhớ có thời hạn 3 năm, được ký gia hạn vào tháng 8-2012. Đến nay, có trên 5.000 lao động được đưa sang làm vệ sĩ tại UAE, trong đó gần 4.000 người đang làm việc theo hợp đồng, thu nhập trung bình 600 USD/người/tháng.

Tập đoàn IGG ủy thác thực hiện chương trình) chấm dứt hợp đồng trước hạn đối với hàng ngàn lao động Việt Nam là thỏa thuận nói trên hết hạn vào tháng 8-2015 và chưa có kế hoạch gia hạn. EGSS đang làm thủ tục về nước cho toàn bộ vệ sĩ của Việt Nam. Trong số gần 4.000 lao động bị trả về, có 1.286 lao động chưa kết thúc hợp đồng 3 năm tính đến tháng 8-2015 và một số có thời hạn kéo dài đến năm 2016.

Giám đốc một doanh nghiệp tham gia chương trình cho rằng nguyên nhân chính là do ý thức chấp hành pháp luật của lao động Việt Nam quá kém. Vị giám đốc này nói: “Họ hay tụ tập nhậu nhẹt rồi đánh nhau, gây mất trật tự công cộng. Làm công tác bảo vệ cho các cơ sở của hoàng gia mà “quậy” như vậy thì ai dám sử dụng”.
Cũng xin nói thêm, đây không phải lần đầu Việt Nam bị UAE dừng chương trình vệ sĩ. Trong phạm vi bản ghi nhớ đầu tiên thực hiện từ năm 2009, khoảng 600 vệ sĩ Việt Nam vừa mới sang được vài tháng cũng bị trả về nước. Lý do là một số lao động sau khi nhậu nhẹt rồi phát sinh mâu thuẫn, đánh nhau, gây mất trật tự an ninh.

Còn ở Qatar có khoảng 50 Doanh nghiệp xuất khẩu lao động (DN XKLĐ) của Việt Nam bắt đầu khai thác Qatar từ năm 2005 và đến năm 2007 cung ứng được khoảng 10.000 lao động. Tuy nhiên, từ năm 2008, xuất phát từ tình hình lao động trộm cắp (chủ yếu trộm cắp dây đồng của công trình xây dựng), nấu rượu lậu, nhậu nhẹt, gây rối trật tự…, chính phủ Qatar quyết định dừng tiếp nhận vô thời hạn lao động Việt Nam.
Hai thị trường XKLĐ lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Đài Loan và Hàn Quốc cũng kẹt cứng ở đoạn tuyển dụng mà nguyên nhân chính vẫn xuất phát từ người lao động.

Hiện có khoảng 24.000 lao động Việt Nam bỏ trốn ở Đài Loan, dẫn đầu các nước XKLĐ vào thị trường này. Hơn 26.000 lao động đang cư trú bất hợp pháp ở Hàn Quốc không chịu về nước dù chính phủ nước này đang mở chiến dịch truy bắt trên toàn quốc.

Ăn cắp từ trong nước đến ngoài nước

Trong nhà còn nhiễu nhương, hỗn loạn, ăn cắp chia làm nhiều loại, có cả loại ăn cắp đúng pháp luật và vô pháp luật, ăn cắp riêng lẻ và ăn cắp theo nhóm gọi là “nhóm lợi ích” thì khó tránh khỏi thiên hạ khinh khi.

Lãnh đạo thiếu gương mẫu, pháp luật chưa nghiêm minh nên người dân mất niềm tin, là điều kiện cho tệ nạn sinh sôi. Quản lý lỏng lẻo, không có bất kỳ hành động nào chặn đứng việc xuất khẩu tệ nạn thì hậu quả khôn lường. Nếu không có cách khắc phục hiệu quả, e rằng sắp tới, người Việt ra nước ngoài không chỉ bị Thái lan, Singapore làm khó dễ khi nhập cảnh mà sẽ lây lan sang những nước khác.

Những sự việc trên hẳn là làm cho người nói câu “thời đại ngày nay là thời đại huy hoàng nhất trong lịch sử” phải cảm thấy xấu hổ. Có thật là “thời đại huy hoàng nhất lịch sử” hay “thời đại của những kẻ lừa lọc, ăn cắp nhiều nhất trong lịch sử”?
Văn Quang
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~


                                                                 ~

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link