Saturday, May 19, 2012

Việt Nam Cần Có Hiến Pháp Mới; Hội Nghị “Đánh Bùn Sang Ao”

Việt Nam Cần Có Hiến Pháp Mới; Hội Nghị “Đánh Bùn Sang Ao” –Dũng Mất chức chống Tham nhũng

(05/18/2012)

Tác giả : Phạm Trần

Hội nghị Trung ương 5 của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam chấm dứt tại Hà Nội ngày 15-05 (2012) sau 9 ngày họp bàn chính về sửa đổi Hiến pháp 1992, chuyện đất đai của nước thuộc về ai và hỏi nhau tại sao tham nhũng vẫn tràn lan để cuối cùng xác nhận lại quyền tòan trị của đảng theo kế họach “đánh bùn sang ao”.

Đây là cách làm vá víu cố đám ăn xôi lạc hậu truyền thống của những người cộng sản Việt Nam ở thế kỷ 21 phản bội lại tinh thần và chủ trương dân là chủ đất nước của các Tác gỉa của Hiến pháp đầu tiên năm 1946, trong đó có người lập ra đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh.

Không những thế, cứ mỗi lần đảng sửa Hiến pháp thì quyền của dân ghi trong Hiến pháp lại bị nhà nước lấy mất bởi những cán bộ, đảng viên lạm quyền hay bị nhà nước vô hiệu hoá bằng các luật lệ phản Hiến pháp.

Hãy xem :

Trong Điều thứ 1, Hiến pháp 1946 tuyên xưng: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.”

Đến Điều thứ 21, tính dân chủ và ý thức tôn trọng quyền làm chủ đất nước của người dân cũng đã được xác định không quanh co, e dè : “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo điều thứ 32 và 70.”

Điều thứ 32 viết : “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý.
Cách thức phúc quyết sẽ do luật định.”

Điều thứ 70 còn quy định thêm quyền quyết định tối hậu phải thuộc về tòan dân: “ Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây:

a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.

b) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.

c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.”

Rất tiếc Hiến pháp 1946 chưa có thời gian thi hành thì bị chiến tranh làm gián đọan.

Sau khi đất nước bị chia đôi bởi Hiệp định Geneve 1954, hai miềh Nam-Bắc có hai thể chế chính trị khác nhau.

Miền Bắc theo chế độ Cộng sản độc tài và miền Nam theo chế độ dân chủ, tự do.

Từ lần sửa Hiến pháp năm 1959 ở miền bắc khi Hồ Chí Minh, người có trách nhiệm với Hiến pháp 1946 còn sống, quyền cao cả của dân ghi trong các Điều 21,32 và 70 bị đảng hủy bỏ mà dân không được hỏi ý.

Dù khi ấy, một nửa nước Việt Nam ở miền bắc do đảng Lao động Việt Nam cai trị với tên gọi của nước là “Việt Nam dân chủ cộng hoà” với Điều 4 của Hiến pháp 1959 viết nguyên văn rằng: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân”, nhưng trong thực tế người dân sống từ bắc vỹ tuyến 17 đến biên giới Việt-Tầu không được tự do sử dụng quyền lực của mình mà phải hành sử quyền này “thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra”.

Vì vậy người dân miền bắc đã bị đảng khóa tay khi Điều 112 của Hiến pháp 1959 trao độc quyền sửa Hiến pháp cho Quốc hội, như đã viết : “Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.”

Sau khi chiếm được miền Nam (Việt Nam Cộng hòa) tháng 04/1975, đảng Lao động Việt Nam được đổi tên là đảng Cộng sản Việt Nam sau Đại hội đảng kỳ IV năm 1976, và nhà nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đã được đổi thành “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.

Lãnh đạo đảng CSVN lúc đó là Lê Duẩn, Tổng Bí thư đảng, một người Cộng sản cực kỳ bảo thủ và cuồng tín đã cùng với Lê Đức Thọ, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương và Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội, chủ trương sửa Hiến pháp năm 1980 theo quan niệm “thừa thắng xông lên” nhuộm đỏ cả nước.

Do đó Điều 2 của Hiến pháp 1980, thay cho Hiến pháp 1959, mới cực đoan và tham vọng viết rằng : “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; xoá bỏ chế độ người bóc lột người; đập tan mọi sự chống đối của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động xâm lược và phá hoại của kẻ thù bên ngoài; xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản; góp phần củng cố hoà bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.”

Từ chủ trương độc tài độc trị này mà, lần đầu tiên trong Hiến pháp, những người CSVN mới công khai vạch áo cho thế giới xem lưng, khi họ viết trong Điều 4: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.

Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp.”

Cũng giống như Hiến pháp 1959, nhóm Lê Duẩn tái khẳng định việc cướp mất quyền làm chủ của dân khi viết trong Điều 147 của Hiến pháp 1980 rằng : “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.”

Sau khi Lê Duẩn (1986) và Trường Chinh (1988) lần lượt qua đời, thành phần có đầu óc thực tiễn hơn, sau khi đã thực hiện công cuộc được gọi là “Đổi mới” để cứu đảng khỏi tan và dân khỏi đói dưới thời Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh, và tiếp theo sau sự tan rã gây chấn động tòan cầu của thế giới Cộng sản do Nga Sô lãnh đạo năm 1991, bản Hiến pháp 1992 của Việt Nam ra đời đã bỏ đi nhiều ngôn ngữ cuồng tín của thời Lê Duẩn.

Tuy nhiên đảng này, vì nhu cầu tồn tại để tham quyền cố vị, vẫn ù lì viết ra Hiến pháp mới dựa theo nội dung của “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", được Đại hội đảng kỳ VII chấp thuận ngày 27-6-1991. Đỗ Mười, một đảng viên bảo thủ giáo điều khác, thay Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư.

Cương lĩnh lạc hậu này đã phản ảnh chủ trương “cố đấm ăn xôi” của thành phần lãnh đạo lạc hậu, không có lương tâm từ bỏ địa vị và quyền lợi phe nhóm để phá tan yêu cầu dân chủ hóa đất nước cho dân thoát khỏi đói nghèo và chậm tiến .

Bằng chứng này đã thể hiện trong 3 đọan quan trọng nhưng giáo điều,hão huyền và lạc hậu của phe bảo thủ trong đảng CSVN khi họ ngô nghê nhận định rằng :

(1) “Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản.”

(2) “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.”

Từ tư duy lạc lõng này, dù nhân dân Nga sau 70 năm bị xỏ mũi đã vứt chủ nghĩa Cộng sản vào sọt rác, Cương lĩnh vẫn khẳng định tiếp tục bám lấy chủ nghĩa Cộng sản:

(3) “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.”

Đó là lý do tại sao Điều 4 của Hiến pháp 1992 đã được viết rằng: “ Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Và mặc dù Điều 2 của Hiến pháp 1992 đã minh thị “

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”, nhưng trong thực tế người dân không có quyền làm chủ đất nước.

Các thành phân tạo thành lực lượng nồng cốt cho đảng gồm công nhân, nông dân và trí thức đã bị đảng vắt chanh bỏ vỏ, gạt ra ngòai mọi quyết định liên quan đến vận mệnh dân tộc.

Tất cả mọi việc của dân đều do một thiều số lãnh đạo đảng có chân trong Bộ Chính trị, từ 14 đến vài chục người tùy theo thời kỳ, quyết định và tự làm lấy. Quyền “phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” của dân quy định trong Hiến pháp tiên khởi 1946 đã bị đảng tịch thu không cần có giấy biên nợ !

Do đó mà Điều 147 của Hiến pháp 1980 đã được lập lại nguyên con trong Hiến pháp 1992 rằng: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.”

Như vậy, nếu so với nội dung Hiến pháp 1946 thì tinh thần dân chủ và quyền làm chủ đất nước của người dân đã được bảo vệ hơn 3 Hiến pháp sau này từ 1959,1980 đến 1992.

Nói cách khác, càng sửa, Hiến pháp Việt Nam càng tụt hậu và phản dân chủ. Vậy mà Nguyễn Phú Trong vẫn huyênh hoang nói ngày 15-05 (2012) rằng: “Có thể nói, Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) là thành quả rất to lớn của cách mạng, là bước phát triển nhận thức, đổi mới tư duy của Đảng ta, Nhà nước ta, đóng góp hết sức quan trọng, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới ở nước ta.”

Nếu đảng đã đổi mới tư duy thì phải đổi mới cả về chính trị song song với đổi mới kinh tế thì đất nước và con người Việt Nam mới có thể “vươn lên ngang tầm thời đại” với thế giới.

Đàng này đảng vẫn độc quyền chính trị, độc đảng cai trị và nắm tòan bộ hệ thống thông tin, báo chí để tuyên truyền cho chủ trương và chính sách của đảng, dù dân không muốn.

Người dân, trong mọi giai đọan có Hiến pháp mới, đã bị đảng gạt ra ngòai lề xã hội và đã bị dùng làm quân tốt cho các trò chơi dân chủ gỉa tạo như trong các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội dồng nhân dân “đảng chọn dân bầu”.

Nhưng Trọng vẫn cứ nói bừa rằng: “ Các đề xuất sửa đổi, bổ sung phải dựa trên kết quả tổng kết sâu sắc thực tế thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; quán triệt đầy đủ yêu cầu thể chế hoá Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp.”

Phải chăng Trọng muốn cho mọi người biết rằng mọi sửa đổi Hiến pháp vẫn phải làm theo những gì đã có sẵn, nhất là nội dung của Cương lĩnh 1991 đã được bổ xung và phá triển thêm năm 2011 ?

Do đó, không ngạc nhiên khi nghe Trọng nhắc lại rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc - là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”

Như vậy là Điều 4 của Hiến pháp 1992 dành độc quyền cai trị đất nước cho đảng vẫn được giữ nguyên và quyền “phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” như nói trong Hiến pháp 1946 sẽ tiếp tục bị loại bỏ.

Trọng cũng nói hôm 15-5 (2012) rằng: “Về quy trình sửa đổi Hiến pháp, cần thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khoá XI) ngày 10-07-2011”, theo đó Ban chấp hành Trung ương đảng đã khẳng định rằng : “Bản chất Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo…khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân và của dân tộc Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.”

Trọng còn bảo sửa đổi cũng phải làm theo “Điều 147 của Hiến pháp hiện hành”, có nghĩa “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”.

Như thế thì sửa cũng như không dù mọi việc, theo trọng phải “tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học, dưới sự lãnh đạo của Đảng”, và cũng có “sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý và tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân về các nội dung sửa đổi, để Quốc hội có đầy đủ cơ sở xem xét, quyết định”.

Nhưng liệu Quốc hội của đảng có can đảm loại trừ quyền lãnh đạo tòan diện của đảng ghi trong Điều 4 Hiến pháp 1992 như Trọng đã lập đi lập lại nhiều lần không ?

Không ai nghĩ “phép lạ” này sẽ xẩy ra cho người dân Việt Nam.

Vì vậy, Việt Nam cần phải có một Hiến pháp mới, trong đó quyền làm chủ đất nước, quyền quyết định tương lai chính trị của đất nước phải do dân tự quyết.

Có như thế Việt Nam mới có thể vượt qua khỏi ngưỡng cửa của đói nghèo và chậm tiến trong thế kỷ 21. Mọi nỗ lực làm ngược lại, kể cả việc sửa đổi vá vìu Hiến pháp 1992 chỉ làm cho đất nước tiếp tục nghèo nàn và nhân dân lạc hậu thêm mà thôi.

Đó cũng chính là câu trả lời cho đảng tại sao đại đa số cán bộ đảng và viên chức nhà nước, nhất là những thành phần có chức có quyền chưa bao giờ nghiêm chỉnh tuân thủ Điều 8 của Hiến pháp 1992 viết rằng: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.”

Ngược lại rất nhiều cán bộ, đảng viên không còn là “đây tớ” của nhân dân nữa mà là những “ông chủ giầu có” hách dịch, quan liêu, nhũng nhiễu, mất phẩm chất, thoái hoá, phản dân, coi dân như tôm tép để hành hạ, bòn rút của cải tệ hại hơn bất kỳ thời đại nào trong lịch sử.

Đó là lý do tại sao dân bây giờ không còn muốn dây dưa, liên hệ máu thịt gì với đảng nữa.

ĐẤT CỦA DÂN NHƯNG NHÀ NƯỜC LÀM CHỦ

Bằng chứng đã thấy ở vụ đàn áp, cưỡng chế đất đai của gia đình nông dân-trí thức Đòan Văn Vương ở Tiên Lãng ngày 05/01 (2012); vụ đánh người lấy đất ở Văn Giang, Hưng Yên ngày 24/04 (2012) và đánh dân thu đất ở Vụ Bản, Nam Định ngày 09/05 (2012).

Nguyên do tại sao các vụ khiếu kiện đất đai hiện nay đã tăng lên từ 70 đến 80% đã được giải thích trong diễn văn bế mạc Hội nghị 5 ngày 15-05 (2012) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều bất cập. Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch chuyên ngành chưa đồng bộ, chất lượng thấp; việc thực hiện quy hoạch, thu hồi đất và tuân thủ pháp luật ở một số nơi chưa nghiêm; thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu công khai, minh bạch. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, xác định giá đất, hỗ trợ tái định cư mỗi khi phải thu hồi đất rất khó khăn. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn đến nhiều vụ việc phải qua nhiều cấp kéo dài, rất phức tạp. Việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, thất thoát lớn. Thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, phát triển không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch "ngầm" khá phổ biến. Tình trạng đầu cơ đất đai, phát triển quá nóng thị trường bất động sản xảy ra ở nhiều nơi, nhất là ở một số thành phố lớn, tác động xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô.”

Nhưng có ai khác, ngoài cán bộ, đảng viên và những kẻ có chức, có quyền mới có thể lộng hành như thế và Trọng đã nhìn nhận: “ Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng; chưa đáp ứng được nhu cầu nhà ở, đất ở của các đối tượng chính sách xã hội, cán bộ, công chức, người có thu nhập thấp. Chính sách đất đai đối với một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn những vướng mắc chậm được giải quyết. Tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai chưa đáp ứng được yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, công chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi sai phạm trong quản lý đất đai còn chưa nghiêm.”

Nhưng Trọng lại tiếp tục khẳng định rằng : “ Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời... thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý...” thì rõ ràng Trọng đã lấy đất của dân, kể cả đất hương hỏa cha truyền con nối để giao cho Nhà nước quản lý.

Như vậy thì dân chỉ còn “sở hữu miếng giấy, hay cái khố”?

Đó là lý do tại sao Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam, do Đức cha Nguyễn Thái Hợp (Giáo phận Vinh) làm Chủ tịch đã phê bình trong lời tuyên bố “Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay”, phổ biến ngày 15-05 (2012) như thế này: “ Luật đất đai hiện hành, vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn trọng Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Đó là nguyên nhân của khoảng 80% các khiếu kiện trong nước. Các vụ khiếu kiện này đã đi từ khiếu nại cá nhân đến khiếu kiện tập thể; từ khiếu kiện bằng đơn từ đến tập họp phản đối và nay là dùng vũ khí chống lại việc thu hồi đất.

Luật đất đai qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng do Nhà nước quản lý đã làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất và chẳng có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà tổ tiên”. Trên thực tế, sở hữu toàn dân không phải là phương thức quản lý đất đai tốt nhất, còn việc Nhà nước làm chủ sở hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của chính quyền các cấp trong việc quy hoạch và thu hồi đất cho các dự án, tước mất quyền căn bản của người dân.”

Căn bệnh trầm kha này, nếu không giải quyết tận gốc rễ thì muôn đời tham nhũng sẽ không bao giờ gỉam bớt, chưa vội nói đến chấm dứt trong hệ thống cai trị hiện nay của nhà nước Việt Nam.

DŨNG MẤT CHỨC CHỐNG THAM NHŨNG

Đó cũng là lý do tại sao Trọng cho biết: “Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị; lập lại Ban Nội chính Trung ương, vừa thực hiện chức năng một ban đảng, đồng thời là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.”

Tại sao có sự chuyển hướng này? Bởi vì, sau 5 năm giữ nhiệm vụ Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng đã tỏ ra bất lực và còn bị mang nhiều tai tiếng liên quan đến các dịch vụ thương mại của con cái và gia đình.

Trọng nói rằng: “ Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt được yêu cầu "ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng". Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Tham nhũng, lãng phí vẫn xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều cơ quan, đơn vị, đặc biệt là trong các lĩnh vực và hoạt động liên quan đến đất đai, khoáng sản; đầu tư công; xây dựng cơ bản; quản lý vốn và tài sản của doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; thu chi ngân sách, mua sắm tài sản công; công tác cán bộ; quan hệ giữa cơ quan, cán bộ nhà nước với người dân, doanh nghiệp...”

Tất cả những tệ nạn này đều có trách nhiệm của Nguyễn Tấn Dũng, trong đó có vụ con tầu chìm Vinashin gây thiệt hại cho ngân qũy quốc gia gần 1,000 tỷ đồng mà Dũng vẫn không bị khiến trách hay kỷ luật.

Trọng không chỉ đích danh mà chỉ nói bâng quơ rằng: “Một số cấp uỷ đảng, chính quyền và người đứng đầu chưa quyết tâm lãnh đạo và gương mẫu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; những bất cập về thể chế, nhất là trong việc ban hành, thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội; trên nhiều lĩnh vực vẫn còn sơ hở, bất cập, thiếu công khai, minh bạch và nhất quán; vẫn còn tình trạng "xin - cho". Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm.”

Trước đó tại Sài Gòn, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang cũng nói với Báo Tuổi Trẻ ngày 02-05 (2012) rằng: “Chống tham nhũng, lãng phí... thực chất cũng là xây dựng Đảng. Hai vấn đề này đều có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chẳng hạn như nếu cuối nhiệm kỳ này, trung ương công bố rằng việc thực hiện nghị quyết trung ương 4 thật tốt, nhưng tham nhũng, lãng phí không giảm là không thành công. Chắc chắn là như thế. Hay nói rõ hơn, nếu như trung ương lãnh đạo chống tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ không làm giảm đi, không đẩy lùi được thì cũng có nghĩa nghị quyết trung ương 4 (“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”) không thành công. Nếu không muốn nói là thất bại.

Như vậy, tương lai chính trị của Nguyễn Tấn Dũng sẽ ra sao sau bài diễn văn “xẻ da lấy thịt” của Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị 5 là điều chưa ai biết, nhưng có một điều chắc chắn là từ nay Nguyễn Phú Trọng sẽ là người giữ chức Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. -/-

Phạm Trần

(05/012)

 

 

 

 

 dangnguoivietyeunguoiviet.org

Bắc Kinh mua hay đánh cắp công nghệ Tây phương để canh tân quân đội

 

HOA KỲ - TRUNG QUỐC - Bài đăng : Thứ bảy 19 Tháng Năm 2012 - Sửa đổi lần cuối Thứ bảy 19 Tháng Năm 2012

Bắc Kinh mua hay đánh cắp công nghệ Tây phương để canh tân quân đội

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tại Lầu năm góc (Reuters)

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta tại Lầu năm góc (Reuters)

Tú Anh  RFI

Trung Quốc với ngân sách quốc phòng đứng hàng thứ hai sau Hoa Kỳ, tiếp tục gia tăng không ngừng và cải tiến sức mạnh quân đội qua công nghệ mua hoặc đánh cắp của tây phương. Trên đây là nội dung của bản phúc trình vừa được bộ Quốc phòng Mỹ công bố hôm qua.

Trong bản tường trình hàng năm về sức mạnh võ trang của Trung Quốc gửi Quốc hội Mỹ, bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thẩm định ngân sách quân sự của Bắc Kinh có thể lên đến 180 tỷ đôla chứ không phải 106 tỷ như thông báo chính thức.

Theo số liệu của Bắc Kinh, thì ngân sách quốc phòng năm 2012 tăng thêm 11,2% so với năm trước. Nhưng bản báo cáo của Lầu năm góc Mỹ cho rằng con số này không bao gồm nhiều loại chi tiêu khác nhất là tổn phí canh tân vũ khí hạt nhân và mua vũ khí của nước ngoài. Tổng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc do vậy có thể lên đến 180 tỷ đôla hoặc ít ra không thể dưới 120 tỷ.

Bộ quốc phòng Mỹ nhận định Trung Quốc « theo đuổi một chính sách canh tân quân sự toàn diện » với mục tiêu « chiến thắng một trận xung đột cấp vùng » hay để tiến hành « một chiến dịch quân sự với cường độ cao trong một thời gian ngắn ». Đài Loan và sự yểm trợ của Mỹ vẫn là trong tâm chiến lược của Hoa Lục.

Để thực hiện mục tiêu này, Bắc Kinh, bằng biện pháp « hợp pháp lẫn bất hợp pháp », sở hữu nhiều công nghiệp của tây phương gọi là « lưỡng dụng » tức là vừa dân sự vừa quân sự.

Quân đội Hoa Kỳ e rằng với thủ đoạn này, khả năng quận sự của Trung Quốc sẽ gia tăng đáng kể. Lầu năm góc cũng đặc biệt lo ngại vấn đề chuyển giao kỷ thuật điển hình qua việc tập đoàn Airbus của châu Âu mở hãng sản xuất máy bay tại Trung Quốc.

Theo ông David Herley, đặc trách Á châu sự vụ của Lầu năm góc, thì Hoa Kỳ thao dõi sát sao giới doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư cải tiến kỷ nghệ quốc phòng và khả năng sao chép trang thiết bị quân sự. Vấn đề gián điệp công nghiệp do vậy là một mối đe dọa lớn. Trung Quốc cũng tận dụng internet làm vũ khí tấn công phá hoại.

Quân đội Trung Quốc hiện nay trang bị từ  tử, 48 tàu ngầm chạy bằng dầu cặn, ba hạm đội với 50 đến 75 hỏa tiển liên lục địa có đầu đạn hạt nhân không kể hàng ngàn tên lửa tầm trung. Hải quân hiện có 7 tàu ngầm nguyên79 chiến hạm và 86 tuần dương hạm. Trung Quốc cũng đang chạy đua với thời gian canh tân một hàng không mẫu hạm cũ do Nga chế tạo.

Không quân với 1570 chiến đấu cơ và 550 máy bay oanh tạc. Lực lượng bộ binh lên đến 1.2050.000 quân với 8000 xe tăng và 7000 đại pháo. Hoa Lục bố trí 400 ngàn quân đối diện với Đài Loan cùng với 1200 tên lửa.

 

 

 

__._,_.___

Hạ viện Mỹ cho phép bán máy bay F-16 đời mới cho Đài Loan

 

HOA KỲ - ĐÀI LOAN - Bài đăng : Thứ bảy 19 Tháng Năm 2012 - Sửa đổi lần cuối Thứ bảy 19 Tháng Năm 2012

Hạ viện Mỹ cho phép bán máy bay F-16 đời mới cho Đài Loan

Lớp đào tạo phi công F16 tại Tucson, Arizona (Olivier Fourt/ RFI)

Lớp đào tạo phi công F16 tại Tucson, Arizona (Olivier Fourt/ RFI)

Trọng Thành  RFI

Hôm qua 18/05/2012, theo hãng tin AFP Hạ viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu đồng ý việc bán 66 máy bay tiêm kích F-16 C/D cho Đài Loan, nhằm nâng cao khả năng tự vệ của đảo quốc trước đe dọa từ Trung Quốc. Quyết định này còn cần được sự phê chuẩn của Thượng viện.

Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa Kay Granger, người bảo trợ cho chủ trương này, đã hoan nghênh quyết định của Hạ viện, và nhấn mạnh rằng Hạ viện Hoa Kỳ đã « gửi đến cộng đồng quốc tế thông điệp là, Hoa Kỳ không bỏ rơi các nước bè bạn hay các nguyên tắc của mình trước các đe dọa của Trung Quốc ».

Theo thượng nghị sĩ Key Granger, việc bán các máy bay chiến đấu F-16 đời mới giúp cho quốc gia đồng minh chiến lược của Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương bảo vệ không phận của mình.

Trong một báo cáo gửi Quốc hội ngày hôm qua, Bô Quốc phòng Mỹ ghi nhận rằng, Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ khả năng dùng vũ lực để thống nhất Đài Loan với « đại lục », và Bắc Kinh vẫn tiếp tục phát triển các phương tiện quân sự để giành ưu thế trong quan hệ với Đài Loan. Tuy nhiên, báo cáo của Lầu năm góc cũng nhấn mạnh, trong hiện tại Trung Quốc vẫn chưa đủ mạnh về mặt quân sự, và Bắc Kinh cũng hiểu rằng họ sẽ phải trả giá đắt và các hiểm họa là khó lường, nếu quyết định biến mâu thuẫn thành xung đột quân sự.

Xin nhắc lại là, trước đó, hồi tháng 7 năm 2011, chính quyền Obama, kiểm soát được Thượng viện, chỉ cho phép hỗ trợ Đài Loan 5,85 tỷ đô la để nâng cấp các phi cơ chiến đấu F-16 có sẵn, nhưng không chấp nhận bán các chiến đấu cơ F-16 C/D đời mới cho Đài Bắc. Lý do là, theo Washington, việc nâng cấp máy bay sẽ có lợi cho Đài Loan hơn là bán.

Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, hành động này của chính quyền Obama là nhằm giảm nhẹ các chỉ trích từ Bắc Kinh, vào thời điểm mà Washington rất cần đến sự hợp tác của Trung Quốc trong các hồ sơ Bắc Triều Tiên và Iran. Việc chính quyền Obama không cho bán máy bay F-16 C/D cho Đài Bắc chịu nhiều chỉ trích từ phía đảng Cộng hòa.

Chủ trương bán máy bay mới cho Đài Loan của Hạ viện Hoa Kỳ, được thông qua vào tối ngày thứ Năm (17/05), nằm trong dự luật quốc phòng Liên bang. Toàn bộ dự luật đã được chuẩn y vào ngày hôm qua.

Truyền Thông Hốt Bạc Bầu Cử

Truyền Thông Hốt Bạc Bầu Cử

(05/19/2012)

Tác giả : Vi Anh

Mùa bầu cử nói chuyện ứng cử viên, nói cử tri, nói đảng phái mà không nói đến truyền thông, không nói đến quảng cáo tranh cử trên truyền thông – là thiếu, quá thiếu. Số tiền ứng cử viên bỏ ra để chi tiêu cho truyền thông là số tiền lớn nhứt.

Một thóang thời sự về tiền bầu cử các ứng cử viên đã thâu và chi cho truyền thông. Chắc chắn TT Obama không thể kiếm được 1 tỷ Mỹ Kim cho quỹ vận động tái tranh cử. Theo tài liệu công bố ngày 16/5, tính đến hết tháng 4/2012, tổng thu tiền bầu cử của TT Obama là 239.6 triệu Mỹ Kim. Con số này ít hơn so với số tiền mà ông đã quyên góp được trong kỳ ứng cử 2008 và còn cách rất xa so với mục tiêu 1 tỉ Mỹ Kim mà chính ông Obama đưa ra

Đối thủ của ông Obama, ông Romney quyên được ít tiền hơn, trong tháng Tư 40 triệu gần bằng số thu của TT Obama trong tháng này, vì Ông Romney mới gây quỹ cho bầu cừ sơ bộ chớ chưa gây quỹ cho tranh cử tổng thống với TT Obama. Nhưng ông Romney được nhiều tổ chức vận động tranh cử tư nhân (còn gọi là các Super PAC) ủng hộ nhiệt liệt. Các tổ chức này có thể bỏ ra hàng trăm triệu Mỹ Kim để mua quảng cáo trên truyền hình và đài phát thanh, chống lại ông Obama và đảng Dân Chủ.

Chắc chắn TT Obama cũng phải dành một số tiền rất lớn để mướn các cơ quan truyền thông chạy quảng cáo bầu cử chống lại Ô Romney và Đảng Cộng Hòa để ăn miếng trả miếng.

Ngay trong nội bộ Đảng Cộng Hòa, các ứng cử viên cùng Đảng khi tranh nhau để được Đảng đề cử làm ứng cử viên tổng thống cho đảng Cộng Hòa, quí vị này cũng tốn tiền triệu triệu đô la cho truyền thông.

Điểm qua báo Mỹ New York Times và báo Pháp Le Monde, các Super PAC để ủng hộ gà nhà và đánh phá gà địch, tốn cho truyền thông đại chúng rất nhiều. Tiêu biểu như Super PAC vận động cho Ô. Gingrich tốn cho truyền thông 11 triệu Đô. Còn Super-PAC mất cho truyền thông 1 triệu 6 để vận động cho Ô. Santorum.

Còn ứng cử viên Mitt Romney, là người đựơc các Super PAC giúp đánh bóng cho Ông và bôi tro trét trấu đối thủ của Ông trên truyền thông, tốn rất nhiều.

TT Obama đặc biệt được giới triệu, tỷ phú điện ảnh ở Hollywood yểm trợ tốn cho truyền thông cũng rất nhiều để quảng cáo cho mình và đả đối phương, nhứt là Ô. Romney.

Cuộc bầu cử năm 2012 cuộc vận động chạy quảng cáo trên truyền thông còn đang diễn tiến, chưa có con số tốn kém chung cuộc cho truyền thông. Nhưng chắc chắn nó sẽ lớn hơn năm 2010.

Thử nhìn lại số tiền các ứng cử viên tốn cho truyền thông Mỹ trong cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11năm 2010 sẽ thấy rõ số tiền các ứng cử viên Mỹ dành để trả cho các cơ quan truyền thông là “phần ăn của sư tử”. Chi phí tranh cử dành cho truyền thông phát thanh, phát hình, báo giấy lên vượt kỷ lục so các kỳ bầu cử trước.

Và kỳ bầu cử năm 2012 ắt cao hơn nữa vì ứng cử viên nào cũng dư chi và dư thu cao hơn. Và đặc biệt trong kỳ bầu cử năm nay 2012 theo phán quyết của Tối Cao Pháp Viện các Super PAC tòan quyền thu chi để ủng hộ gà nhà và đánh phá gà địch như đã thấy ở trên giữa các ứng cử viên Cộng Hòa.

Theo một sưu khảo và thăm dò, cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11 năm 2010 chi phí các ứng cứ viên, các tổ chức chánh trị ủng hộ ứng cử viên tự nhiên trong đó có các chánh đảng dành chi cho truyền thông đã cao lâu nay kỳ bầu 2010 tăng đáng sợ.

Theo tổ chức Campaign Media Analysis Group, số chi phí đó trong cuộc bầu cử 2 tháng 11 này phải lên đến $4.2 tỷ Đô la. Tỷ lệ gia tăng rất cao. Phần lớn của số tiền kếch sù đó là dùng để trả cho tiền quảng cáo tranh cử trên truyền thông, theo sưu khảo của Borrell Associates.

Theo tổ chức này chi phí dành trả cho truyền thông trong bầu cử cứ tăng theo mỗi mùa bầu cử, không liên quan đến tình hình kinh tế lên hay xuống gì cả. Càng ngày, càng gần ngày bầu cử, đề tài, đề luận, lời qua tiếng lại càng tăng, càng tốn. Cứ mỗi mùa bầu cử thì giá cả càng tăng.

Số tiền chi phí dành cho truyền hình vượt kỷ lục các năm khác còn do những ứng cử viên tái ứng cử nữa. Họ có bổi rồi nên cho rất xộp. TNS John McCain (Cộng Hoà-Ariz.) và Kirsten Gillibrand (Dân chủ - N.Y.), và một số dân biểu, nghị sĩ lắm bạc nhiều tiền như các ứng cử viên Cộng Hoà Linda McMahon ở Connecticut và Carly Fiorina ở California. Những ứng cử viên này đã đổ nhiều triệu Đô la cho việc quảng cáo truyền hình tranh cử, cho việc làm phim quảng cáo cũng như mướn các cố vấn có tên tuổi chánh yếu là dùng vào việc quảng cáo tranh cử trên truyển thanh, truyền hình, báo chí nhưng nhiều nhứt là truyền hình. Truyền thông là món tiền lớn nhứt cần phải chi trong chiến dịch tranh cử - là kết luận của Evan Tracey, giám đốc của tổ chức sưu khảo Campaign Media Analysis Group.

Số tiền tranh cử chi phí cho truyền thông so với số chi phí gởi truyển đơn qua bưu điện, chi phí lương cho bộ tham mưu, và các chi phí linh tinh - tất cả đều tăng nhưng chi phí cho truyền thông cao nhứt, nhiều nhứt trong kỳ bầu cử này theo con số của so sánh của Government Accountability Office. Giá tiền quảng cáo truyền hình ở các địa phương sát nhau giữa các đài nhưng tất cả đều tăng, theo nhận định của Television Bureau of Advertising, một đại lý lấy quảng cáo cho các đài truyền hình. Theo ước đoán gần chính xác, cuộc bầu cử nào có số quỹ tranh cử từ 1 triệu trở lên, thường sử dụng từ 41 cho đến 49% cho truyền thông.

Câu hỏi sau cùng để người Mỹ gốc Việt trong đó có truyền thông tiếng Việt ở Mỹ Việt cùng nhau suy gẩm. Truyền thông tiếng Việt phát thanh, phát hình,báo chí truyền thống có đầy đủ. Ở cấp địa phương, cấp vùng và cấp quốc gia Mỹ đều có phủ sóng. Người Mỹ gốc Việt có gần 3 triệu người, đa số có quốc tịch Mỹ và một số không nhỏ là công dân cử tri Mỹ - cử tri mẫn cán nữa là đằng khác.Nhưng cho đến bây giờ tại sao các ứng cử viên Mỹ chưa ngó ngàng đến truyền thông tiếng Việt?./.

Vi Anh

 

 

 

 

CỘNG SẢN Ở NGAY TRONG CHÚNG TA

CỘNG SẢN Ở NGAY TRONG CHÚNG TA

CỘNG SẢN Ở NGAY TRONG CHÚNG TA

I. Các giá trị

 

Đối với tôi thì điều mà làm tôi luôn chống lại những người cộng sản đó là những thói gian manh, trí trá. Có một số người tại hải ngoại muốn có một phân định rõ ràng: Ai là những người của Quốc Gia và ai là những người cộng sản? Đó là một việc rất khó nếu chẳng muốn nói là không tưởng.

 

Thực tế thì đại đa số trong chúng ta ai mà chẳng có người quen, hay người họ xa, hay người thân là đảng viên cộng sản, như trong gia đình tôi đây: Ông ngoại tôi là công chức cấp cao trong bộ máy của chính quyền Pháp. Ông nội tôi là chủ đất, có rất nhiều người làm thuê, cuốc mướn; nhưng cha tôi lại là một đảng viên cộng sản. Chính cha tôi, khi còn trai trẻ, đã nhận thấy sự bất công đối xử của ông nội tôi với người làm công cho gia đình vì ông đã nghe theo lời dụ dỗ của người csvn mà đứng lên chống lại chính cha đẻ của mình.

Tôi lớn lên trong chiến tranh. Vì thế, cuộc sống luôn thay đổi và, mỗi lần chuyển rời chỗ học, tôi thường phải khai lại lý lịch của mình. Và, khi tôi viết về thành phần gia đình, mẹ tôi bảo khai: gia đình công chức nhà nước, ông nội làm ruộng, có nhiều người làm công… Đó là điều dối trá đầu tiên mà mẹ tôi đã cố nhồi nhét cho tôi. Khi tôi hỏi tại sao lại khai như thế vì trong nhà ai cũng biết là cái ngày cải cách ruộng đất, chính quyền xã đã mang ông tôi ra giữa đình làng cho mọi người nhiếc mắng đủ điều. Sau đó, người ta vu cho ông nội tôi là địa chủ và đã tịch thu ruộng đất nhà cửa, đồ đạc của ông nội tôi. Cha tôi đã không thể làm được gì để cứu gia đình trong cơn bách hại này mặc dù ông chính là đảng viên cộng sản. Đó cũng là điều tôi luôn thắc mắc trong thời kỳ thơ ấu của mình. Tôi đã hỏi mẹ và mẹ tôi bảo vì lúc đó, cha tôi là đảng viên nên phải gương mẫu trong đấu tranh, không thể để tình cảm làm tổn hại tới đường lối chung của đảng. Khi tôi vặn lại: Tại sao lại nói dối? Mẹ tôi bảo đó là vì quyền lợi của tôi. Nếu mà khai ông nội là địa chủ thì số phận tôi sẽ rất long đong trên bước đường đời, còn nếu lúc đó cha mà cứu ông thì cả nhà chắc chết! Cha tôi thì quát: Trẻ con biết cái gì mà hỏi.

 

Khi tốt nghiệp phổ thông với số điểm cao trong kỳ thi vào đại học, tôi được đi du học tại Balan nhờ vào bản lý lịch khai man. Và một phần nhỏ nữa là nhờ vào những gì mà cha tôi đã làm cho cộng sản.

Bây giờ, tôi là người trưởng thành và có thể lý giải một số chuyện trong cuộc đời này: Tôi đã hiểu tại sao mẹ tôi phải khai man lý lịch của tôi và tại sao những bà mẹ Việt Nam khi đứng cạnh đứa con trưởng thành và THÀNH ĐẠT, thay vì kiêu hãnh và tự hào mà thường thì họ khóc. Họ khóc vì những đứa con thành đạt của họ khi nói với họ những lời cảm tạ, những tình cảm yêu thương đối với mẹ mình không hề biết rằng, để giúp con mình thành đạt người mẹ đã phải làm những điều bất chính trái với lương tâm, họ khóc vì những cay đắng đã đến với họ mà không thể nói được với con mình, họ khóc vì buồn tủi… khóc vì sự oan nghiệt của cuộc đời này.

 

Điều này thật dễ dàng nhận ra khi quan sát các cuộc tuyên dương, vinh danh công trạng các chiến sĩ công an, các cán bộ “vì dân” của chính quyền cộng sản bắc việt. Thường thì khi vinh danh một ai đó, các MC hay lôi những người mẹ vào phỏng vấn và chúng ta thấy sau vài câu ấp úng nước mắt các mẹ tuân trào như mưa hệt như câu “Tôi đi giữa phố phường, chỉ thấy nước mắt sa trên nền cờ đỏ” như lời thơ của Trần Dần mà thôi.

 

Bây giờ, tôi đã thấy rất rõ: Con đường công chính trên mảnh đất này là một con đường rất hẹp và có rất nhiều chông gai.

Và để được coi là người THÀNH ĐẠT thường thì đa số trong họ trước đó phải làm rất nhiều việc đồi bại.

Một bằng chứng điển hình về tấm gương của những người suy đồi là hồ chí minh!!!

 

Để được khoác lên mình danh hiệu thơm tho cao quý “CHA GIÀ DÂN TỘC”, hồ chí minh đã làm quá nhiều chuyện đồi bại và những ví dụ về sự đồi bại của y không cần phải dẫn chứng trong bài viết này.

Một thực tế mà ai cũng biết: hồ chí minh là người tài trí. Những người như thế mà phải làm những chuyện đồi bại để leo lên đỉnh cao danh vọng là vì sao?

 

Câu trả lời: Vì họ là hạng người đi ngược lại những giá trị của Dân Tộc mà thôi. Họ lợi dụng các giá trị ấy để mưu cầu lợi ích riêng tư. Vì đặt lợi ích riêng tư lên trên hết, họ sẵn sàng làm mọi chuyện đồi bại, miễn sao mục đích của họ thành đạt mà thôi. Cha tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ.

 

Trong xã hội Việt Nam, tôi không được coi là người THÀNH ĐẠT. Bởi lẽ tôi luôn luôn tôn trong các giá trị văn hóa, tâm linh của Dân Tộc vì thế tôi luôn luôn là người đi ngược lại với các suy nghĩ và tư duy trước hết là của những người thân trong gia đình (cha, mẹ) sau nữa là những người trong cộng đồng và xã hội.

 

II. Văn hóa dân tộc và cuộc chạy chốn?

Văn hóa dân tộc là gì? Không có câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này. Nhưng, trên hết, dù là người chống lại các giá trị văn hóa, tâm linh dân tộc hay người bảo vệ các giá trị đó, tất cả những người nói tiếng Việt, sinh ra ở mảnh đất Việt đều kế thừa Di Sản Văn Hóa của Cha Ông! Nhưng bao thăng trầm của lịch sử đã biến Dân Tộc Việt thành hai quốc gia trong một Nước đầy hận thù và khác biệt ý thức sâu sắc.

 

TỪ ĐÓ, XÃ HÔI VIỆT NAM SINH RA NHỮNG TÂM LÝ TRÁI NGƯỢC NHAU:

a. Tâm lý vong bản

 

Vong là rời xa, rời xa mà vẫn phải liên hệ tức là vong, như chính phủ lưu vong, là chính phủ của Dân Tộc có nhiều liên hệ với dân tộc, quốc gia, nhưng lại nằm trên một đất nước khác.

Vong bản là tâm lý của người Việt hiện nay, mặc dù sinh ra và lớn lên tại đất Việt, nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, nhưng lại luôn có những hành động, ngôn ngữ để mọi người chú ý và ngạc nhiên về nguồn gốc xuất thân của anh ta.

 

Giới trẻ Việt ngày nay ở trong nước thích nói tiếng anh bồi, thích nghe nhạc và hát nhạc ngoại quốc, thích bắt chước ăn mặc và hành động như các ngôi sao điện ảnh của Mỹ, Hàn Quốc…họ muốn gửi một thông điệp đến mọi người xung quanh “Tôi không giống người Việt Nam,” Lớn hơn lên một chút, những thanh thiếu niên tốt nghiệp các trường đại học và có một chút tự trọng, sẽ tìm cách làm việc tại các công ty của nước ngoài đóng tại Việt Nam hay tại nước ngoài. Đối với họ, các giá trị dân tộc, văn hóa… là những thứ xa lạ, mục tiêu của họ là kiếm tiền, kiếm tiền và kiếm tiền, nói theo kiểu của Em Xi....Xi...Xi..., Em Phét, Em Phẹt...Phẹt...Phẹt Nguyễn Ngọc Ngạng Nghing Ngang Như Nỉnh Như Nang Nết Nên Nầu Nà ...Nó Nẹo Niền...Như Nà Nàm..."Ngu Như ...Nít".

 

Những người không có tự trọng thì tìm cách lọt vào các cơ quan công quyền mặc dù cái giá để phải vào những cơ quan công quyền này có khi đến cả trăm triệu đồng, nhưng họ biết rất rõ những cái mà họ sẽ nhận được trong tương lai, đó là trở thành những kẻ cai trị lại chính đồng bào của Dân Tộc mình.

 

Nói là cai trị vì phương cách lãnh đạo và điều hành đất nước của chính quyền hiện nay giống hệt cách cai trị của chế độ phong kiến quân chủ hôn quân.

Cai tức là cai quản như quản ngục cai quản tù nhân; trị là thống trị. Cai trị là sai quan để thống trị. Trong chế độ phong kiến có minh quân và hôn quân. MINH QUÂN như các bậc vua thời LÝ-TRẦN, hôn quân như các vua thời hậu Lê. Trong chế độ độc tài mà minh quân làm chủ thì đó vẫn là phúc cho dân tộc, nếu là hôn quân (u ám, mê muội, say đắm thú vui xác thịt, quên việc Nước) thì thực là đại họa cho Đất Nước.

 

Thế cho nên thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tuy mầu sắc của chính phủ có ngả sang chế độ độc tài, nhưng vẫn để lại đầy tiếc thương trong lòng người dân Nam Việt Nam.

 

Nói rằng họ là những người không có tự trọng là vì để vào được các cơ quan công quyền (trừ những trường hợp là con ông cháu cha), tất cả họ đều phải qua các cuộc thử thách về sự luồn cúi, về trình độ nịnh hót, và về các kiểu đĩ bợm khác nhau… Tất cả các việc này đều phải được khuếch trương bằng tiền, cụ thể là để chứng minh sự đĩ bợm của mình, đương sự muốn xin việc vào một cơ quan công quyền quan trọng nào đó thì phải mời cho được kẻ phê duyệt mình đi ăn nhậu và, nếu trong cuộc ăn nhậu đó, lỡ có một tay chơi nào muốn chứng tỏ sự ngông cuồng hơn, có ý định trả tiền có bữa nhậu thì đương sự phải quyết tâm gặt phăng hắn đi mà tranh trả cho bằng được! Mà nếu sếp có ngỏ ý thích trò tiêu khiển theo kiểu trai trên, gái dưới thì đương sự phải tỏ ra sành điệu. Có những trường hợp, các đương sự tranh nhau về một vị trí quyền lực và cùng có mặt trên bàn nhậu rồi, sau đó, đã tranh nhau trả tiền! Cuộc tranh giành như thế trở thành một trận mưa tiền tới tấp đến chủ quán. Sự đồi bại đã trở thành trò lố bịch chỉ vì một mục tiêu duy nhất là “Tôi có khả năng trả giá cho chiếc ghế quyền lục ấy cao hơn.” Đó là một trong những tiêu chí để đương sự có thể được chấp nhận vào cơ quan công quyền tại Việt Nam.

Tiêu chí vào các cơ quan công quyền có thể xếp theo thứ tự ưu tiên như sau:

1. Bằng lòng

2. Bằng tiền

3. Bằng tình (đối với ứng viên là mỹ nữ thì điểm này có thể được xếp lên hàng đầu.)

4. Bằng cấp.

 

Mặc dù, trên các phương tiện truyền thông trong nước, người ta luôn đề cao tiêu chí bằng cấp lên đầu tiên, nhưng trong thực tế thì bằng cấp là cái mà các sếp xem cuối cùng, chỉ có liếc qua thôi. Chính vì thế, trong nước, nạn bằng giả tràn lan. Vì liếc thì làm sao phân biệt được đâu là giả, đâu là thật.

Tất cả những điều này đã xẩy ra và những thanh thiếu niên có lòng tự trọng hay không có tự trọng đều đi đến một kết luận chung giống nhau: Gặp thời thế, thế thời phải thế.

Bây giờ, chúng ta đi vào tâm lý của tầng lớp trung lưu tại Việt Nam, tức là tầng lớp có tiền và có địa vị. Tầng lớp này rất phức tạp! Họ là những người có tiền nhưng có thể không địa vị, hoặc ngược lại, hoặc có cả hai thứ.

 

Đối với những người có chức quyền tại Việt Nam hiện nay thì đa phần xuất thân từ những gia đình chân đất mắt toét (thành phần bần cố nông)!!!

Bản chất nông dân là:

Hiền lành khi bị ràng buộc.

Thô lỗ khi tranh giành.

Sợ hãi dưới cường quyền.

Ngạo mạn khi được đề cao.

Nông dân hay còn gọi là thứ dân trong cách hiểu của KINH DỊCH là tầng lớp thấp nhất trong xã hội. KINH DỊCH cũng chỉ ra rằng tầng lớp trong xã hội thì cố định, nhưng con người trong xã hội thì chuyển động có nghĩa rằng nông dân có thể thay đổi tính cách của mình để trở thành một trí thức thực sự có ích cho dân cho nước, thậm trí có thể trở thành VUA như trường hợp VUA QUANG TRUNG. Tất nhiên, khi làm VUA ông Nguyễn Huệ đã gột sạch bản tính nông dân của mình và không còn là nông dân nữa.

 

Tuy nhiên chủ nghĩa cộng sản lại làm một điều ngược lại là cố định tính cách con người nhưng lại muốn hoán vị các giai tầng xã hội. Cho nên các gương mặt của các nhà lãnh đạo cộng sản thường có những nét thâm hiểm, ác độc, tính cách thì cục cằn, gắt gỏng, cau có. Họ không muốn thay đổi tâm tính, tức là về nguyên tắc họ vẫn là một nông dân xịn, nhưng họ lại cố thay đổi giai tầng xã hội, tức là họ muốn những người trí thức hay những người có chí khí phải ngu hơn họ. Họ muốn tạo ra một giai tầng xã hội thấp hơn giai tầng thứ dân. Nói chính xác là tạo ra một lớp người tù tội! Vì, như thế, những người này mới có cái vẻ ngu xuẩn hơn tầng lớp thứ dân mà thôi.

 

Trong nước vẫn lan truyền một câu ca “Ếch nhái lên làm người!” Đó là chỉ về những người này, nhưng tôi cho rằng đó là chỉ là thời thế, đó không thể là chân lý được.

Và vì thành phần lý lịch như thế nên tính cách của họ là thô tục, bẩn thỉu, nhỏ nhen, ích kỷ. Họ ý thức được điều đó là xấu xa nhưng không biết cách sửa nên họ luôn có một tâm lý chối bỏ nguồn gốc của mình, và che đậy chúng bằng những mỹ từ cùng những lời có cánh.

 

Chúng ta thấy, khi họ có địa vị chức quyền họ thay hình đổi dạng rất nhanh, ăn mặc đồ đắt tiền, nói năng hách dịch, đi toàn xe đẹp, nhà xây ngất ngưởng. Nhưng những thứ đó chỉ là bề ngoài mà không thể làm thay đổi bản chất thô tục trong lòng họ (chân đất, mắt toét).

Đó là tâm lý vong bản đã hình thành rất rõ rệt trong giới quan trường ở VN. Tâm lý đó đã tạo ra một xã hội nhầy nhụa,bẩn thỉu…

Đối với những người có tự trọng và có tiền ở Việt Nam thì khi đối mặt với sự nhơ nhớp trong xã hội và khi họ cảm thấy bất lực trước viễn cảnh của đất nước thì họ thường tìm cách chạy chốn, trước hết là tìm cách cho con cháu họ chạy ra nước ngoài, sau nữa là họ sẽ tìm cách sống yên ổn trong một căn nhà đẹp với một khuôn viên yên tĩnh…say sưa nghe những bản tình ca ủy mị, và nhâm nhi những giọt rượu ngon của ngoại quốc.

 

VÌ KHÔNG TÌM THẤY NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA VÀ TÂM LINH CỦA DÂN TỘC NÊN HỌ TÌM ĐẾN CON ĐƯỜNG VONG BẢN NHƯ MỘT CUỘC CHẠY TRỐN CHÍNH NHỮNG GIÁ TRỊ TINH THẦN CỦA CHÍNH BẢN THÂN MÌNH MÀ NGUỒN GỐC XUẤT PHÁT TỪ VĂN HÓA, TÂM LINH CỦA CÁC BẬC TỔ PHỤ BÁCH VIỆT ĐÃ XÂY CẤT VÀ TẠO DỰNG QUA RẤT NHIỀU THẾ HỆ!

 

b. Tâm lý bảo thủ các giá trị văn hóa và tâm linh

Có thể nhận thấy rất dễ dàng là cộng đồng người Việt tại hải ngoại là những người nhiệt huyết nhất trong công cuộc bảo vệ những giá trị văn hóa, tâm linh của Dân Tộc.

Thường để khoe các giá trị văn hóa của một dân tộc thì những nghệ sĩ của dân tộc đó đem lời ca tiếng hát, âm hưởng đất nước của mình đi trình diễn trên xứ người. Nhưng đối với Việt Nam thì ngược lại. Những công dân có quốc tịch Mỹ, Pháp, Đức… lại về Việt Nam để hát những bài tình ca, dân ca trữ tình của Đất Việt và họ đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Sau đây là những so sánh:

1. Đàm Vĩnh Hưng khi hát tại sân khấu tròn ở Sài Gòn, giá vé năm 2010 từ 90 đến 100 ngàn.

2. Ca sĩ hải ngoại tại sân khấu tròn ở Sài Gòn, giá vé từ 500 đến 700 ngàn.

Như vậy các ca sĩ từ ngoại quốc về Việt Nam hát những bài tình ca quê hương có giá gấp 5 lần các ca sĩ trong nước?

Ca sĩ Chế Linh biểu diễn ở Hà Nội, giá 3 triệu đồng / vé.

Dẫn chứng này cho thấy cộng đồng người Việt hải ngoại là những người bảo vệ các giá trị văn hóa tốt hơn những người làm văn hóa trong nước.

Điều này có làm xấu hổ những cán bộ làm công tác văn hóa văn nghệ trong bộ văn hóa không? Tôi không nghĩ là không, vì như dư luận trong nước đã nói là họ bị đứt dây thần kinh xấu hổ.

Như các bạn đã thấy khi các ca sĩ hải ngoại hướng tới văn hóa và những âm hưởng dân tộc, thì quần chúng đã ủng họ nhiệt liệt.

Vậy, việc thanh thiếu niên trong nước thờ ơ với Lịch Sử Dân Tộc, với các Truyền Thống của Dân Tộc thì không bắt nguồn từ bản chất của họ. Mà nguyên nhân chính là có một bức rèm ngăn cách họ với quá khứ, có một thế lực muốn hủy hại các giá trị văn hóa dân tộc của cộng đồng người VIỆT. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần làm rõ thêm một số điểm quan trọng trong phong trào ca hát cổ võ dòng nhạc quê hương này:

+ Các ca sĩ trong nước thua các ca sĩ ở hải ngoại không phải vì họ kém tài năng, mà vì thể chế chính trị trong nước là một vùng lầy, đa phần các ca sĩ muốn được hát, hay muốn được lăng xê phải làm “đĩ” trước khi được lên sân khấu. Tức là các cán bộ văn hóa phải được làm nhục họ trước khi cho họ biểu diễn.

+Trong trường hợp môi trường chính trị cởi mở, thông thoáng như môi trường mà các ca sĩ hải ngoại đang được thụ hưởng thì chắc chắn các ca sĩ trong nước sẽ biểu diễn tốt hơn rất nhiều.

+Phần lớn các trình diễn của các ca sĩ hải ngoại là các bản dân ca, hoặc là nhạc trữ tình quê hương do các nhạc sĩ sáng tác ở những năm 50-60. Thời điểm này là thời điểm mà tại Việt Nam xuất hiện nhiều biến cố đau thương: Chia cắt hai miền Nam-Bắc, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, quân đội Mỹ đổ bộ vào Miền Nam, cuộc chiến trở nên đẫm máu…Các nhạc sĩ đã ghi lại những vết thương tình cảm đó trong các sáng tác của mình vì thế các bài hát ở thời đó thường mang âm hưởng rất buồn. Nhưng đó cũng là một khúc rẽ đau thương của Dân Tộc.

+Mặc dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ ngày hiệp định Giơ-ne-vơ chia cắt hai miền Bắc-Nam, những đau thương của cuộc chiến, cũng như những đau buồn do thăng trầm của lịch sử vẫn lẫn khuất u ám trong mỗi tâm hồn người Việt sống tại quê nhà. Âm hưởng u buồn này đeo đẳng, lúc lên, lúc xuống theo nhịp điệu cuộc sống lúc buồn, lúc vui của mọi người. Cho đến khi các ca sĩ hải ngoại trở về và với một tình cảm nhớ nhung quê hương, với phong điệu tân kỳ của kỹ nghệ âm nhạc tây phương cũng như với một ý chí giữ gìn nguyên trạng âm hưởng, hồn phách của quê hương. Khi họ trở về quê nhà, hát lại những bản tình ca thủa nào thì trong lòng những người dân Việt nỗi buồn đau lại được dâng tràn. Và nhiều người đã khóc. Tuy nhiên những giọt nước mắt này khác rất nhiều với những giọt nước mắt của các mẹ đã dẫn ở trên.

Không có ai thích tích tụ những sự đau khổ, buồn rầu trong người. Cho nên, khi các ca sĩ hải ngoại về trình diễn tại quê nhà, người ta tranh nhau mua vé bởi họ muốn tống thoát những đau buồn trong lòng tích tụ hàng bao nhiêu năm nay. Tình cảm đau buồn lẫn khuất trong tâm hồn họ được tràn ra khi nghe hát. Sự việc này rất giống như việc bạn đun một nồi nước, khi sôi tràn cũng là lúc một lượng nước đã thoát ra khỏi nồi. Những giọt nước mắt của họ là niềm sung sướng vì được giải thoát, cho dù là một phần rất nhỏ trong tâm hồn.

Thật sự, khi quay về với tổ tiên, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn chúng ta tưởng. Hiện tại thì các ca sĩ hải ngoại là những người như thế.

QUÁ KHỨ LUÔN LÀ MỘT VẾT THƯƠNG TRONG TÂM HỒN, NGÀY NÀO MÀ VẾT THƯƠNG ĐÓ CHƯA ĐƯỢC CHỮA LÀNH, NÓ VẪN LÀM CHÚNG TA GIỐNG NHƯ NHỮNG CON THÚ BỊ THƯƠNG, KHÔNG THỂ ĐI XA ĐƯỢC.

Sự phồn vinh, thịnh vượng của Dân Tộc Việt Nam phụ thuộc vào việc chúng ta băng bó, chữa trị vết thương trong tâm hồn mỗi người chúng ta!

XIN TẠ ƠN THIÊN CHÚA

Viết tại Phát Diệm, ngày 29 tháng 4 năm 2012

Nguyễn Hòa Bình (Bút danh: Hàn Quang Tự)

Ai Bảo Vệ Ngư Dân Việt

Ai Bảo Vệ Ngư Dân Việt

(05/18/2012)

Tác giả : Vi Anh

Cũng như mọi năm, năm nay 2012, Trung Cộng đơn phương công bố lịnh cấm đánh cá ở Biển Đông vào mùa trúng nhứt. Lịnh cấm suốt hai tháng rưỡi bắt đầu từ ngày 16 tháng 5 đến 1 tháng 8. Lịnh năm nay mở rộng phạm vi cấm đóan ra vùng biển Scaeborouh TC đang tranh chấp với Phi Luật Tân. Lịnh năm nay TC khuyến khích ngư dân Trung Quốc tập trung đánh cá ở vùng biển gần Trường sa là vùng TC và VNCS đang tranh chấp. Hình phạt qui định nặng hơn, vi phạm sẽ phạt tịch thu tàu, ngư cụ và hải sản, “người vi phạm” bị 2 năm tù và 8.000 Đô la tiền vạ.

Phi luật Tân phản ứng, khẳng định không công nhận lệnh này, tuyên bố TC “xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Philippines” và Manila “sẽ thực thi các đặc quyền hợp pháp theo Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS)”. Và Phi sẽ “có thể áp đặt lệnh cấm tương tự để khôi phục nguồn hải sản”.

Còn chế độ CS Hà nội đang thống trị VN thì cũng như mọi năm phản đối việc TC cấm đánh bắt cá ở Biển Đông bằng lời nói suông, một cách chiếu lệ, làm lấy có mà thôi. Không phải gởi công hàm hay triệu đại sứ TC đến Bộ ngọai Giao trao công hàm phản đối, mà vào ngày 15-5, trả lời câu hỏi của phóng viên Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam CS Lương Thanh Nghị không dám nói đích danh, trực tiếp đến lịnh cấm hiện tiền của TC và lập trường cụ thể của CS Hà nội, mà chỉ nói bâng quơ, vòng vo tam quốc, như sau: “Lập trường của Việt Nam về vấn đề này đã được nêu rõ trong phát biểu của Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 20-01-2012.”

Trong khi đó Thượng Nghị Sĩ McCain một chính khách có thế lực và từng là ứng cứ viên tổng thống của Đảng Cộng Hòa từ Mỹ cách VN và Phi nửa vòng trái đất mà còn nói thẳng thừng Mỹ không thể để Trung Quốc 'tự tung tự tác' ở Biển Đông. Theo TNS, Mỹ cần phải bảo đảm rằng Trung Quốc không thể “muốn làm gì thì làm”, Mỹ cần phải ủng hộ các nước đối tác trong khối ASEAN, để họ có thể hình thành một mặt trận thống nhất và thông qua đường lối đa phương, hầu có thể giải quyết vụ tranh chấp này một cách hòa bình.

Trong những năm gần đây, nhà cầm quyền CS Hà nội xuất hàng chục tỷ Đô la mua máy bay, tàu lặn. Mới đây tuyên bố sẽ giao cho lực lượng cảnh sát biển một chiếc tàu lớn và hiện đại nhứt, với thủy thủ đòan 70 người, trọng tải 2,200 tấn, tốc độ tối đa 21 hải lý mỗi giờ, có thể hoạt động trong mọi điều kiện sóng gió với thời gian 60 ngày đêm liên tục.

Thế nhưng từ khi TC chiếm biển đảo của VN, không tàu thuyền đánh cá nào khi bị TC tấn công, bắn giết mà thấy bóng dáng hải quân hay cảnh sát biển của CSVN. Bóng dáng còn không thấy thì làm gì có chuyện đối phó với quân Tàu hay cứu giúp ngư dân VN. Nhưng ngư dân nào được miển đóng thuế và lệ phí cho Đảng Nhà Nước CS Hà nội trung ương cũng như địa phương.

Năm nay 2012 là năm thứ ba Trung Cộng đã ngang nhiên, ngang ngược ra lịnh cấm đánh cá ở Biển Đông coi như là ao nhà của TC. Như thông lệ nhà cầm quyền CS Hà nội cho phát ngôn viên lên tiếng phản đối, xác nhận chủ quyền VN nhưng TC không đếm xỉa gì cả. Nhưng CS Hà nội cho đảng viên cán bộ đang nắm mấy cơ quan ngoại vi của Đảng là hiệp hội ngành đánh cá tuyên bố ngư dân VN bất chấp lịnh cấm của TC, thúc đẩy, khuyến khích ngư dân tiếp tục ra khơi, bám biển nhưng Đảng Nhà Nước không thấy tung quân ra bảo vệ ngư dân.

Vấn đề đặt ra là phải chăng lợi dụng nhu cầu thiết yếu sống của ngư dân VN phải đi đánh cá nếu không thì chết đói cả nhà, Đảng Nhà Nước CS Hà nội sử dụng ngư dân làm quân trinh sát hay lấy ngư dân thực hiện chiến thuật biển người ngăn chận TC.

Nhớ lại trong một phóng sự phát thanh ngày 16-5-2011, Nam Nguyên, phóng viên RFA, tường thuật. “Ngư dân Đà Nẵng phát biểu tàu Hải Quân Việt Nam thường ở gần bờ không ra xa đến những ngư trường mà ngư dân họat động… Một ngư dân nói “Thấy tàu của Hải Quân VN đi ở 110 độ kinh đông trở vô thôi 16 độ vĩ Bắc trở xuống chứ còn lên 17 Bắc-111 đông thì không có Việt Nam mình, chỉ có tàu Trung Quốc thôi.”

Điều đó cho thấy rõ khẩu hiệu do Đảng Nhà Nước đưa ra “Nhà Nước và Nhân Dân Cùng Làm” là tuyên truyền láo. Nhà cầm quyền chỉ có “động viên”, “đề nghị” tức bắt dân làm, mà cán bộ đảng viên thì lánh né.

Bảo quốc an dân là việc làm then chốt một chánh quyền đáng gọi là chánh quyền phải làm, phải có hành động kiên quyết, dứt khoác. TC đã cướp miếng cơm của người dân Việt ngay trên ngư trường mà đất nước ông bà VN ngàn năm đã để lại cho con cháu. TC đã cướp chủ quyền quốc gia trên một phần giang sơn gấm vóc mà Tổ Tiên VN đã khai phá, phát triễn và gìn giữ bằng xương máu của quân dân Việt Nam hàng ngàn năm rồi.

TC đã nhứt quá tam, làm tội phạm quán hành, trường hợp gia trọng, VN không thể không chiến đấu tự vệ, không thể không đòi hỏi công lý được. Trước cuộc cướp biển, với bọn cướp biển lần thứ ba, thứ tư này, nhà nước và nhân dân phải cùng chống trả.

Không thể chờ Mỹ, chờ ASEAN, chờ thời cơ gì được nữa. Thời gian đang có lợi cho TC mà rất bất lợi cho VN. Nhà Nước không thể để cho Trung Cộng bắt ngư dân Việt Nam, tịch thu tàu, đòi tiền phạt và chuộc nữa. Nhà Nước không thể đưa ra những lời truyên bố suông về chủ quyền trước những hành động cướp cạn có hệ thống của TC nữa. Nhà Nước không thể xúi, lùa dân ra biển, làm trinh sát cho quân đội, làm bia cho tàu tuần của TC.

Đảng Nhà Nước không thể chỉ ở Hà nội sai phát ngôn viên bộ ngoại giao tuyên bố bằng những lời lẽ trống rổng, sáo mòn, chiếu lệ, tuyên xưng chủ quyền, lên tiếng phản đối, lên án lịnh cấm của TQ là «bất hợp pháp» và «vi phạm chủ quyền Việt Nam”. Ngoại giao cái gì, đối thọai làm chi với “một kẻ nói ngang ba làng nói không lại” như TC, hởi Ô. Trọng, Sang, Dũng.

Đảng Nhà Nước không có lý do gì không để cho báo chí trong nước thông tin, nghị luận trung thực, nói lên niềm đau của đất nước VN bị quânTàu cướp, nỗi khổ của đồng bào ngư dân Việt Nam bị quân Tàu cướp nguồn sống, người dân VN yêu nước thương dân xuống đường bày tỏ lòng yêu nước, chống quân Tàu xâm lược như Việt Khang đã đem tim óc ra viết thành dòng nhạc, lời ca đau đớn của quốc gia dân tộc VN.

Ông Trọng người Miển Bắc, Ông Sang, Ô. Dũng người Miền Nam cầm quyền làm gì mà không bảo quốc an dân. Quân đội, hải, lục, không quân, cảnh sát biển, biên phòng đều có. Tàu xe, máy bay, súng nhỏ, súng lớn, bom hoả tiễn đều có. Tướng tá “quân hàm”, huy chương đỏ ngực. Một năm người dân đóng bao nhiêu thuế để trả lương và phụ cấp. Quân đội làm gì không ra biển bảo vệ ngư dân, giữ gìn bờ cõi.

Trong thế giới sử, trong lịch sử Việt Nam, chủ quyền quốc gia, danh dự đất nước, quyền lợi nhân dân, chỉ có chánh quyền và nhân dân nước đó mới bảo vệ kiến hiệu nhứt. Không có ngoại bang nào yêu nước VN, sẵn sàng chết sống cho Tổ Quốc VN như người Việt. Quyền lợi của quốc gia dân tộc VN, người Việt không chiến đấu bảo vệ thì ngoại quốc dại gì nhảy vô giúp đỡ.

Ai cũng biết thời gian có lợi cho TC. Nguyên trạng cũng có lợi cho TC vì họ đã chiếm hai đảo Hoàng sa, Trường sa lập thành huyện Tam sa trực thuộc tỉnh đảo Hải Nam rồi. Căn cứ hải quân Hải Nam của TC đã phong tỏa Vịnh Bắc Việt rồi. Còn Biển Đông của VN, bản dồ hình lưỡi bò của TC đã liếm hết 80% diện tích rồi.

Ở thế kỷ 21 này, thế giới đâu có để yên cho một nước lớn đánh ăn hiếp một nước nhỏ. Nhứt là nước lớn đó là TC có quá nhiều kẻ thù, quá nhiều kẻ ghét trên thế giới. Trong lịch sử VN, chưa bao giờ VN hiện có 3 triệu người Việt tỵ nạn CS là những nhà ngọai giao dân gian quốc tế vận hữu hiệu cho quyền lợi quốc gia dân tộc VN. Người Việt hải ngọai chống chế độ CS, chớ không chống quốc gia dân tộc VN là nước nhà, là đồng bào của người Việt hải ngọai. Cái gì chớ khi quân Tàu đánh VN, ngành ngọai giao của TC tại các đại siêu cường mà người Việt tỵ nan CS đã định cư vô quốc tịch, sẽ bị một trận sóng thần chống đối liên tục bởi người Việt hải ngọai./.

Vi Anh

 

 

 

 

 dangnguoivietyeunguoiviet.org

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link