Saturday, November 19, 2016

Tác giả Nguyên Phong, dịch giả, khoa học gia


 Niềm tự hào của người Việt:

  Trong một link khác:

Tìm hiểu về tác giả Nguyên Phong

By Tu Viện Quảng Đức
Cuộc di tản bi thương ngày nào, đối với đại đa số chúng ta, nhữngngười trong cuộc, không thiếu những người vẫn c...

(trích:)
Hành Trình về Phương Đông đúng là những lời tiên tri, càng lúc càng có những biến cố làm sáng tỏ những lời tiên tri đó . Do đó tôimong mỏi, ao ước, tìm gặp Nguyên Phong. Người ấy ở đâu, sao anh lại tìm được cuốn sách này, dịch và phổ biến được những lờilinh ứng lạ lùng kia. Làm sao tìm được người đó? Tất nhiên tôi có hỏi anh Vũ Đức Vinh, báo Đất Mới, anh chỉ cười cười và nói:“Đương sự vẫn ở đây. Môt người rất trẻ, nhưng khiêm tốn, hầunhư không muốn gặp ai. Có thể đến một lúc nào đó đủ duyên thìông sẽ gặp được anh ta.” Nghe thế, tôi biết không thể làm gì hơn,nhưng trong sâu thẳm của lòng tôi, tôi vẫn mong mỏi được gặp gỡ người này.

oOo

 Như chúng ta đã biết, thảm nạn thuyền nhân đã xẩy ra sau khimiền Nam sụp đổ, và trong sự ngẫu nhiên tình cờ một nạn nhâncủa thảm trạng này là nhà văn Nhật Tiến, một người bạn học cũcủa tôi từ thời trung học. Từ những lá thư viết từ trại tỵ nạn TháiLan mà chúng tôi nhận được đã là nguyên nhân thành lập Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, do GS Nguyễn Hữu Xương,một người bạn khác của chúng tôi làm chủ tịch. Từ việc kêu cứulúc đầu, sau đã chuyển thành các công tác đem tàu đi Vớt NgườiBiển Đông. Cùng với những tổ chức quốc tế, một công tác đầynhân đạo, cụ thể nên đã được cộng đồng người Việt chúng ta khắpnơi nhiệt tình hỗ trợ. 

Để quảng bá công tác này, cá nhân chúng tôi thường thay mặt GS Nguyễn Hữu Xương đi đến nhiều nơi để trình bày, giải đáp về họat động của Ủy Ban. Tất nhiên với những giao tình sẵn có, tờ Đất Mới của anh Vũ Đức Vinh đã nồng nhiệt cổ võ,và chúng tôi đã có một cuộc gặp gỡ bằng hữu tại Seattle, do thi sĩ Vũ Quanh Hân đứng ra tổ chức, trong ngôi chùa của thầy Thích Minh Chiếu trụ trì.Thầy Thích Minh Chiếu, gốc nhà binh, xuất thân từ trường Võ BịQuốc Gia Đà Lạt, cùng khóa với anh Phạm Hậu.

 Do đó, anh Phạm Hậu, một người bạn khác của chúng tôi, một thời cũng đã làmGiám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh, rất sốt sắng làm đầu cầu, dàn xếp, đưa đón và cùng các anh em trong tờ Đất Mới tích cực hỗtrợ cho cuộc gặp gỡ này. Trong buổi nói chuyện này tại chùa,người đến dự không đông lắm, chỉ là một số bằng hữu, nhữngngười có liên hệ xa gần với tờ Đất Mới và ban trị sự của chùa mà thôi.

Khi tôi chấm dứt phần thuyết trình cùng lúc trên màn ảnh TV, hình ảnh chiếc ghe tỵ nạn chìm dần xuống lòng biển mênh mông thì thầy Thích Minh Chiếu đứng lên ôm lấy tôi và nhạt nhòa nướcmắt. Thầy nghẹn ngào nói: “ Quý hóa quá. Dù xây chín đợt phù đồ. . .” Và thầy sai một thầy tiểu đưa cho tôi một ly nước và tiếp tục nói: “Đây là một ly sâm, xin tặng ông, ông uống đi cho lấy sức.Xin các ông chân cứng đá mềm, hãy gắng công, gắng sức để côngtác Vớt Người Biển Đông thêm kết quả”.

 Có một số vị góp tiền cho, nhưng quan trọng nhất là có một vị cao niên sau chót đứng lên và nói: “Công việc của quý vị đẹp đẽ quá, cần thiết và đúng lúc quá. Quý vị cần gì nơi chúng tôi, chúng tôi xin hết sức”.Vì những vấn đề liên hệ đã được nói chi tiết trong bài thuyềt trình,nên tôi bỗng nhớ đến tờ Đất Mới, tờ báo xuất bản ở nơi này, nhớ đến Nguyên Phong, nên tôi nói dù rất thật lòng nhưng lại có chút đùa vui “Đến đây chúng tôi chỉ muốn gặp được người dịch loạt bài Hành Trình Về Phương Đông, anh Nguyên Phong mà thôi”. Vị cao niên này bỗng cười vui :“ Dễ quá. Nguyên Phong là con trai lớn của chúng tôi. Hiện Nguyên Phong đang làm việc ở Los Angeles,khá gần ông. . .” Tôi mừng rỡ khôn cùng.Khi trở lại San Diego, chỉ mấy ngày sau là cuối tuần, anh chị Nguyên Phong và cả 2 cháu, con anh chị đã từ Los đến thăm gia đình chúng tôi. 

Để đón anh, chúng tôi nấu một nồi phở vì ngoài những cái ngon, cái tiện do phở mang lại mà Nguyễn Tuân và Vũ Bằng đã hết lời ca ngợi, phở còn có một đặc tính mới được ghi nhận sau biến cố 1975 nơi hải ngoại là “món ăn đợi khách”. Nồi phở để đó trên bếp, khách vì bất cứ lý do gì như kẹt xe không đến đúng giờ như dự liệu, không sao. Khách đến lúc nào ăn cũng vẫnngon. Như một người em trong gia đình, anh chị Nguyên Phong rất xuề xoà và vui vẻ ngay từ phút đầu bước chân vào nhà. Vừa ănvừa trò chuyện, và tôi bỗng phát hiện ra anh chị Nguyên Phong và cả hai cháu chỉ ăn bánh phở mà bỏ lại thịt trong bát. Thấy thế tôi hỏi, anh Nguyên Phong cho hay: “Thường thì gia đình em ăn chay, nhưng khi đi đâu thì tùy hoàn cảnh, không câu nệ. 

Gặp gì ăn nấy.”Thấy thế, chúng tôi mang mấy đĩa xôi trên bàn thờ xuống, một bầukhông khí trên bàn ăn tưng bừng đổi khác. Chúng tôi cười vui tiếp tục trò chuyện và chúng tôi biết rằng anh Nguyên Phong, tên thật là Vũ văn Du, sinh năm 1950, là con trưởng trong một gia đình đông con. Thân phụ nguyên là một vị không xa lạ trong y giới, cụ là một dược sĩ, đồng thời còn là mộtngười có tâm, có tài và đã đóng góp rất cụ thể với Đại Học Vạn Hạnh. 

Các em anh, dù kẹt lại Việt Nam một thời gian, nhưng cũng đã sang được Hoa Kỳ và hoàn tất văn bằng về y khoa. Nhân được biết và liên hệ đến công tác Vớt Người Biển Đông, anh Nguyên Phong cho hay: “Hàng năm ít nhất một lần, anh em trong gia đình em họp mặt. Thay vì mua quà tặng nhau, em bảo, không cần, hãydùng số tiền này gửi về Ủy  Ban Báo Nguy Giúp Người VượtBiển.” 

Do đó suốt mấy năm sinh họat, Ủy Ban đều nhận được những chi phiếu trên dưới 4 con số từ gia đình họ Vũ này. Và cũng hàng năm, tôi phải thảo một lá thư riêng cho Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương, chủ tịch Ủy Ban ký để trân trọng gửi đến gia đình họ Vũ.Trở lại với cuốn Hành Trình Về Phương Đông, tôi không quên nhắc đến những điều trùng hợp, tiên tri trong cuốn sách. Tôi có hỏi anh “Nguyên nhân nào đã khiến chú tìm ra tập sách này để dịch ra và phổ biến như thế?” Ngần ngại khá lâu, anh Nguyên Phong cho biết: “Như anh chị biết, em là một người khoa học. Trong thời gian trung học, phải nói là em rất coi nhẹ triết lý Đông phương. 

Như những người lớn lên trong một quốc gia chậm tiến, em ngưỡng mộ nền học thuật Tây phương, không chỉ ở lãnh vực khoa học, mà emrất khao khát tìm hiểu những triết gia Âu Châu. Nhưng khi đã đi sâu vào sự tìm hiểu em thấy nền tríết học Tây phương không giải đáp hết những nan đề của con người, của khoa học, nhất là trước sự khủng hoảng xung đột giữa Duy Tâm và Duy Vật hiện nay. Từ đó em quay về tìm hiểu những triết thuyết của Đông phương. Nói ra dài lắm, nhưng em thấy mọi việc, như Đức Phật nói: Mọi sự phát xuất từ tâm. 

Đặc biệt sau khi em vừa trình xong luận án Tiến Sĩ thì cũng là lúc Miền Nam của chúng ta thất thủ. Trong khi đó thì thầy mẹ em, các em của em đều kẹt lại. Lòng em rối như tơ vò. Biết chẳng thể làm gì được lúc này, những ngày cuối tuần vànhững ngày nghỉ lễ, em lên núi, với một chút thức ăn nhẹ, em ngồi thiền. Có khi cả tuần lễ chỉ uống nước lạnh xuông. Với một tâm hồn thư thản, và một thân hình nhẹ tênh, em nhiều lúc như thấy được thật rõ những ý nghĩ, những hoàn cảnh của những người thân yêu và em yên tâm chờ đợi. Chờ đợi một sự nhiệm mầu tốt đẹp sẽ đến.Tất nhiên trong thời gian ấy em đến thư viện rất thường. Một hôm em đi qua khu sách về tôn giáo, em thấy một cuốn sách nhỏ rơi ở lối đi, em nhặt lên, để lên giá sách, nhưng cũng không nhìn xem đó là cuốn sách gì. 

Đi một vòng quay lại, lại thấy cuốn sách kia rơi trên lối đi. Em lại nhặt lên và có liếc qua tên cuốn sách trước khi xếp nó vào giá. Sau cả một buổi trong thư viện, khi mọi người đã vãn, ra về, em đi qua khu sách cũ, lại thấy cuốn sách kia nằm giữa lối đi. Em nhặt lên. Cuốn sách mỏng, nhan đề Journey To The East của Baird Spalding, do nhà xuất bản Adyar in năm 1924 tại Ấn Độ. Cuốn sách cũ quá, nhưng bỗng nhiên em không muốn buông ra, em mượn cuốn sách này đem về đọc chơi. Nhưng lạ thay, suốt đêm ấy cuốn sách đã chinh phục em, em đọc một mạch, rồi lại đọc lại. 

Những điều nói trong cuốn sách như vẽ ra cho em một vùngtrời vừa huyền bí, vừa trong sáng, lại vừa như khơi dậy từ sâu thẳm của em niềm tự hào của nền triết học Đông Phương. Chính lúc ấy em gặp các anh Thanh Nam và Vũ Đức Vinh với ý định ra tờ Đất Mới. Các anh ấy mời em phụ trách mục giải đáp khoa học. Em nhận lời ngay với loạt bài Trong Lòng Điện Tử. Cùng lúc em dịch cuốn The Journey To The East
-
Hành Trình Về Phương Đông. Em đưa cho anh Thanh Nam xem, anh Thanh Nam thích quá, bảo em dịch tiếp đi. Thế là trên tờ Đất Mới em có hai mục như đối chọi nhau, nhưng cùng ký tên Nguyên Phong, Một Làn Gió Mới. . .”

Sau chuyến gặp gỡ này chúng tôi liên lạc với nhau luôn và tờ Đất Mới đã không còn ngân khoản để xuất bản nữa, nhưng ám ảnh của loạt bài kia vẫn in sâu đậm trong lòng tôi. Tôi nói với anh Nguyên Phong: “Phải góp lại và in ra đi, bỏ mất phí lắm”. Anh Nguyên Phong ngần ngại mãi, sau cùng tôi đề nghị gửi loạt bài này lên cho người bạn tôi, anh Lê Đình Điểu, báo Người Việt “xem có thể thì in ra cho vui”. 

Báo Người Việt nhận được, nhưng để rất lâu, cả năm sau mới in ra. Kỳ in đầu tiên là năm 1987. Ai cũng biết rằng sách in ra ở hải ngoại ít khi được tái bản lần thứ hai. Vậy mà trong lặng lẽ, độc giả bốn phương đã đón nhận cuốn sách này thật là nồng nhiệt. Cho đến năm 1993, cuốn sách này đã được in ra đến lần thứ sáu. Và bên cạnh cuốn sách này, có những cuốn sách khác lần lượt xuất hiện do Nguyên Phong dịch hoặc phóng tác, mang nội dung, cảnh trí của những vùng núi non thâm sâu, huyền bí, theo bước chân củanhững người đi về Phương Đông, đặc biệt là Tây Tạng, để tìm thầy, học đạo.

Cuốn Hoa Sen Trên Tuyết, phỏng dịch từ cuốn The Mani Stones của Alan Havey, một BS Y Khoa tốt nghiệp từ Đại Học Michigan. Hoa Trôi Trên Sóng Nước, dịch từ cuốn Journey In Search Of The Way của Satomi Myodo, người Nhật Bản. Huyền Thuật Và Đạo Sĩ Tây Tạng, phóng tác từ cuốn sách Pháp văn, nhan đềMystiques Et Magiciens Du Thibet của bà Alexandra David Beel. Bên Rặng Tuyết Sơn, phóng tác từ cuốn sách của Swami Amar Jyoti, người Ấn Độ. Ngọc Sáng Trong Hoa Sen, phóng tác từ cuốn The Wheel Of Life của John Blofeld, người Anh. 

Và những cuốn sách khác nữa của Nguyên Phong, mang cảnh trí và nét huyền bí của Đông phương lần lượt xuất hiện đều đặn. Chỉ với những đầu sách nói trên thôi, trên 2000 trang sách, do những ngườiAnh, người Pháp, người Nhật, người Mỹ và người Ấn, nói về những kinh nghiệm của họ khi tiếp xúc với Đông Phương, với Phật Giáo. Không biết có phải đây là một chứng minh mà trong cuốn Hành Trình Về Phương Đông đã nói, như trên chúng tôi đã dẫn: 
“Cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ sụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu”. Nhưng trong phần phụ lục của cuốn Ngọc Sáng Trong Hoa Sen, nơi trang 356, tác giả JohnBlofeld đã viết: “Lành thay, lành thay, giáo pháp của đấng Thế Tôn đã được vun trồng một cách tốt đẹp tại phương Tây”.

Và một cách cụ thể hãy nhìn vào cộng đồng người Việt ở Nam Cali, chúng ta có hàng trăm ngôi chùa, khó có ai có thì giờ đi thăm cho hết trong một kỳ nghỉ hàng năm, vài tuần. Có những ngôi chùa nhỏ bé, khiêm tốn được tạm dựng trong một căn nhà. Có những ngôi chùa xây cất uy nghi, với đầy đủ tượng Phật, tháp chuông, vườn cảnh không kém gì những cảnh chùa có tiếng tăm ở quê nhà. Và hơn thế nữa, có những Trung Tâm Tu Học chiếm cứ cả một cánh rừng mênh mông mấy trăm mẫu đất. Bước vào đây như xa lánh hẳn xã hội tây phương, như một góc Việt Nam riêng biệt. Đồi núi chập chùng, tiếng chuông ngân toả giữa tiếng tụng kinh, giảng kinh bằng tiếng Việt cũng như tiếng Anh. 

Có những khóa tu học với hàng ngàn người tham dự, với lệ phí khá cao, mà đa số là những người bản xứ, người Mỹ. Trong đó không thiếu những người nổi tiếng, có danh vị trong xã hội, những tài tử điện ảnh. Ba mươi năm trước đây, ai dám nghĩ cả mấy chục ngàn người, ngồi kín cả một sân vận động, bỗng cùng cúi rạp mình xuống, (năm vóc sát đất, tứ chi và đầu sát đất), thật yên lặng trong nhiều phút để đón một ông già Á Đông, áo vàng hở vai, lù khù đi đội dép mỏng, vừa đi vừa cúi đầu đảnh lễ bốn phương. Đó là một nghi lễ cực kỳ cung kính của tôn giáo Tây Tạng dành cho Đức LạtMa khi ngài xuất hiện.  

 oOo
Song song với những họat động của những tu sĩ đi hoằng hóa giáo pháp của Đấng Thế Tôn, những cuốn sách của Nguyên Phong, têntuổi của tác giả trong lặng lẽ đã được rất đông người biết đến và áimộ. Ái mộ không chỉ như một tác giả uyên thâm, mà còn hàmchứa hình bóng của một nhà tu hành, một vị đạo sư. Các sách của Nguyên Phong còn được nhiều người đọc vào băng, thu vào dĩa,  hòa vào nhạc và phổ biến rất trân trọng và rộng rãi. Một trongnhững “trung tâm” này là chị Đăng Lan tại Úc. 

Trong dip gặp chịđến San Diego, chị có tặng chúng tôi mấy cuốn băng đọc sách củaanh Nguyên Phong, nhưng chị nói “ Em muốn được gặp ông Nguyên Phong để xin phép mà không biết ông ấy ở đâu”. Chúng tôi có chuyển ý nguyện này tới anh Nguyên Phong, nhưng anh Nguyên Phong chỉ cười và nói: “Không cần anh ạ. Chỉ là cái duyên, mỗi người trong chúng ta, tùy theo hoàn cảnh mà chuyển tải lời dạy của Đấng Như Lai thôi.”. 

Nguyên Phong không quan tâm đến danh, đến lợi. Ngay cả tác quyền những cuốn sách của anh in ra anh cũng không nghĩ đến. Mỗi khi có sách mới, nhà xuất bản tùy khả năng, họ gửi biếu tác giả một số sách. Những cuốn sách ấy tác giả lại gửi biếu bạn bè, trong đó có gia đình tôi. 

Thường thì chúng tôi nhận được một thùng sách khoảng mươi cuốn, trong đó mấy cuốn có chữ ký tặng, số còn lại thì tôi cũng tùy nghi, biếu bè bạn thân quen, hay đem lên chùa để ai thích thì thỉnh về đọc. Một năm trung bình anh Nguyên Phong có 2 cuốn sáchđược in, rất đều hòa như thế. Được hỏi, anh Nguyên Phong cho hay, hàng ngày, sau giờ đi làm về, anh ngồi vào máy, viết và dịch.Chưa xong nhà xuất bản đã gọi, đã nhắc, đã vẽ bìa cho cuốn sách rồi. Cứ thế, những cuốn sách của Nguyên Phong in thật đẹp bay đi bốn phương trời. Những lời dạy của Đấng Như Lai qua những trang sách của Nguyên Phong đã thấm đượm tới những ai, làm nhẹ được những nhọc nhằn, phiền muộn của thế nhân tới mức độ nào, không ai lường được. Những hàng chữ ấy, với tôi, tôi coi nhưnhững giòng suối mát, êm ả chảy đi, thấm đượm, nuôi sống baonhiêu cây trái của cuộc đời này. Con suối không cần ai biết mà vẫncứ miệt mài tuôn chảy. 

Mối giao tình giữa chúng tôi mỗi lúc mỗi thêm sâu đậm. Trongniềm khát ngưỡng tìm hiểu những lời dạy của Đấng Như Lai, anh Nguyên Phong có sách mới, hay những tài liệu mới, anh không bao giờ quên gửi cho gia đình chúng tôi và cả các em của chúng tôi nữa. Đáng chú ý nhất là Thông Điệp của Những Người Anh, trích từ bài Elder Brothers Warning của Alan Ereira, Nguyên Phong đã dịch ra Việt ngữ và giới thiệu như sau: 
“Tháng 10 năm 1993, đài BBC tại Luân Đôn và đài PBS Hoa kỳđã cho phát hình một tài liệu đặc biệt ghi lại nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim này đã gây chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài được bàn cãi rất nhiều trong giới khảo cổ, môi sinh và nhân chủng học.

 Lần đầu tiên được trìnhchiếu trong kỳ đại hội tôn giáo hoàn cầu tại Chicago, nó đã gây xúc động lớn cho toàn thể cử tọa. Cuốn phim ấy đã cho chúng ta thấy bên cạnh thế giới được gọi là văn minh là thế giới của chúngta, trên trái đất này còn có một nền văn minh khác của người Kogi sống trên dãy núi Sierra ở nam Mỹ. Họ sống biệt lập với thế giớicủa chúng ta, rất đơn giản nhưng thật hòa bình và hạnh phúc, đặc biệt họ chỉ ăn chay, không sát sinh.

Tuy sống cách biệt nhưng họ vẫn có khả năng theo dõi và quan tâm đến chúng ta, đặc biệt là quan tâm đến sự an nguy của quả đấtnày do những hành động vô ý thức của chúng ta tiếp tục gây ra.Bởi thế, đã đến lúc họ phải lên tiếng cảnh cáo chúng ta trước khi quá muộn. Họ nói: “Nhân loại sắp bước vào một thảm họa rất lớn mà từ trước tới nay chưa hề xảy ra (…). 

Chúng ta đều là con cùng một mẹ nhưng tiếc là các em đã không chú ý đến điều này (…).Mẹ của chúng ta là ai? Chính là trái đất này, lòng mẹ chính là biển cả và trái tim của mẹ là những dãy núi cao cả có mặt khắp nơi. Này các em, đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của mẹ đó. Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có mẹ, nếu trái đất bị hủy họai thì chúng ta sẽ sống ở đâu ?”(…) Làm sao các em có thể tự hào rằng mình đã văn minh khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày mỗi đau khổ nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói rằng nhân loại đã tiến bộ khi con người càng ngày càng thù hận, chỉ thích gây chiến tranh khắp  nơi?”.

Cuốn băng hình và bài thuyết trình của ký giả Allan Ereina là kết quả của phái đoàn ký giả của đài BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ, sau 3 ngày được phép sinh họat với người Kogi. Pháiđoàn này rời rặng núi Sierra vào tháng hai năm 1993, và người Kogi đã ân cần nhắc nhở: “Xin các ông hãy mang thông điệp này gửi ra cho thế giới bên ngoài để nhân loại biết rằng tình trạng đã nguy kịch lắm rồi. Nếu họ không chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ đây?”.

Theo đúng lời yêu cầu, Allan Ereira đã mang cuốn phim “Elder Brother’s Warning” trong đại hội tôn giáo họp tại Chicago vào tháng 9 năm 1993. Cuốn phim này cũng được trình chiếu trên các băng tần của đài truyền hình BBC tại Anh và PBS tại Hoa Kỳ. Và anh Nguyên Phong đã gửi cho tôi bài viết của ký giả Allan Ereira cùng với cuốn phim tài liệu này. 

Càng xem, càng đọc bài viết vềnhững lời nhắc nhở của người Kogi, tôi càng thấy rằng những điềungười Kogi biết rất chính xác về những lợi dụng quá đáng của loàingười, làm ô nhiễm môi sinh, làm hủy họai môi trường sống không chỉ đối với loài người, mà với cả muông thú, cỏ cây. Nếu những điều này đã đúng thì: “loài người sắp bước vào một thảm họa  rất lớn từ trước đến nay chưa hề xẩy ra” chắc cũng sẽ đúng.Vậy thảm họa đó là gì, khi nào sẽ diễn ra? 

Đó là nỗi ám ảnh khôngrời trong lòng tôi. Rồi biến cố 911 ào đến là kết quả của những hận thù giữa con người với nhau. Rồi sóng thần Sunami từ biển đổ vào bờ biển Thái Lan và Ấn Độ, cuốn đi nhà cửa và hàng trăm ngàn người, giữa lúc họ đang an hưởng sự phong phú của thiên nhiên, của cuộc sống. Rồi bão tố và cuồng phong Katrina ập vào bờ biển nước Mỹ, gây nên cảnh lụt lội rộng lớn cuốn đi bao nhiêu nhà cửa,ruộng vườn, tàu bè, xe cộ. 

Tai biến đổ lên nước Mỹ, vùng đất tượng trưng cho sự giàu mạnh và văn minh nhất của nhân loại, như một cảnh báo cụ thể, một sự trừng phạt trước sự hung hăng, kiêu mạn về “văn minh” của con người. Phải chăng đó là những thảm họa mà “Những Người Anh” đã cảnh báo. Như thế đủ chưa, hết chưa hay hãy còn có những tai họa nào sẽ diễn ra trong tương lai? Hãy nhìn những đoàn xe nối đuôi nhau................


Tìm hiểu về tác giả Nguyên Phong

By Tu Viện Quảng Đức
Cuộc di tản bi thương ngày nào, đối với đại đa số chúng ta, nhữngngười trong cuộc, không thiếu những người vẫn c...

 
Do Thi Thuan 
FREE MẸ NẤM


Do Thi Thuan 
FREE MẸ NẤM
__._,_.___

Posted by: Thuan Do 

Friday, November 18, 2016

VIDEO Uncovered Trump Interview From Over 25 Years...



VIDEO Uncovered Trump Interview From Over 25 Years Ago Will Shock A Lot of People


Video
Posted by at 3:23 AM

Bài đã đăng



__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?Q?Nha_K=E1=BB=B9_Thu=E1=BA=ADt?=

Vịt Cộng muốn cướp Chính Quyền Mỹ thì hãy qua ngay.


   Có thể nộp đơn xin jops ngay
Ông Trump phải thay thế 4.000 nhân viên Tòa Bạch Ốc. Ai từng ủng hộ Donald Trumgp có thể nộp đơn xin jops ngay.
greatagain.gov ngày 17/11/2016

Trong 2 tháng tới, ông Donald Trump sẽ phải thay thế toàn bộ 4.000 nhân viên dưới thời Tổng thống Barack Obama. Công việc này trở nên khó khăn hơn bao giờ hết khi ông Trump không phải là người có kinh nghiệm chính trường.
Theo Reuters, hôm 14/11, trang web chính phủ đầu tiên của ông Trump mang tên greatagain.gov” đã công khai tuyển 4.000 nhân viên làm việc cho chính phủ mới trước thời điểm tỷ phú bất động sản chính thức nhậm chức Tổng thống vào tháng 1/2017.

Theo đó, ngoài việc có thể nộp đơn xin việc qua mạng, các ứng cử viên muốn gia nhập chính quyền của Tổng thống đắc cử Donald Trump cần nộp bản hồ sơ đã được Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) công nhận bao gồm lý lịch cá nhân, thời gian công tác, hồ sơ y tế, tài chính, quân sự và giáo dục. Phần lớn các vị trí cần tuyển dụng bao gồm các bộ trưởng, thứ trưởng, đại sứ, văn phòng điều hành của Tổng thống, nhân viên Nhà Trắng và các nhà hoạch định chính sách…

Tờ Bloomberg dẫn lời chuyên gia Mark Cancian tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế Mỹ cho rằng việc Tổng thống đắc cử Donald Trump “thay máu” 4.000 nhân viên của Tổng thống Obama không có gì là lạ bởi "ông ấy không có ý định tiếp cận kẻ thù của mình".
Còn theo các nhân viên Nhà Trắng, ông Trump tỏ ra khá "ngỡ ngàng" khi biết được chức vụ Tổng thống Mỹ lại phức tạp với nhiều yêu cầu cao. Nhóm của ông Trump cũng không biết họ sẽ phải thay thế toàn bộ 4.000 nhân viên của Tổng thống Obama.

Hiện tại, bộ máy chuyển giao quyền lực của ông Donald Trump do phó Tổng thống mới đắc cử Mike Pence đứng đầu cùng Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc của đảng Cộng hòa Reince Priebus và con rể ông Trump là Jared Kushner đảm nhận. Đáng nói, ông Pence đã quyết định loại những người nằm trong danh sách vận động hành lang ra khỏi đội ngũ của mình.

Ngoài việc tuyển dụng 4.000 nhân viên làm việc trong chính phủ mới, ông Donald Trump còn công bố chi tiết các kế hoạch thay đổi nước Mỹ trên trang web "greatagain.gov".
Trang Fee.org cho biết theo Luật Lao động Mỹ, những nhân viên bị sa thải với lý do chính đáng sẽ được hưởng một số tiền “bồi thường”. Do vậy, hàng ngàn nhân viên không tiếp tục làm việc với chính quyền của ông Trump nhiều khả năng sẽ nhận được một số tiền đền bù thỏa đáng.
__._,_.___

Posted by: Lu Giang <

Thursday, November 17, 2016

Lá phiếu quật cường của người da trắng



 

Lá phiếu quật cường của người da trắng

Trần Ngọc Cư

Make America Great Again
Các phong trào dân túy đang diễn ra khăp các nước phương Tây có một đặc tính chung là chống lại sự nhập cư ồ ạt của người nước ngoài. Không riêng gì ở Mỹ, nơi mà tôi thấy trên TV tại nhiều địa điểm bỏ phiếu người da trắng đã sắp hàng dài gần như vô tận, có khi phải đợi cả 4, 5 giờ mới đến lượt mình bỏ lá phiếu. Hình ảnh này cho thấy nền dân chủ Mỹ vẫn còn vận hành rất tốt đẹp.

Qua bao năm chứng kiến các khối dân thiểu số hợp pháp lẫn bất hợp pháp lợi dụng nhà nước phúc lợi Mỹ (the American welfare state) trong lúc họ phải nai lưng đóng thuế hoặc mất công ăn việc làm, giới công nhân da trắng chọn thời điểm này để vùng dậy một lần, vừa để chống trả một hệ thống mà họ cho là bất công, vừa để giữ gìn bản sắc văn hóa của mình.

Đấy là chưa nói đến làn sóng di dân từ các nước Hồi giáo không những mang theo Allah để chọi với God mà còn có khả năng mang theo khủng bố nữa. Theo Fareed Zakaria, chủ nhân trương trình GPS trên CNN, xung đột văn hóa giữa phe Cộng hòa bảo thủ và phe Dân chủ tự do – bình đẳng còn xoay quanh vấn đề 3G (God, Guns và Gays [LGBT]), vì vậy sự xung khắc của hai phe không thuần kinh tế. Sự nghiệp của Donald Trump nếu không sáng chói trong lãnh vực kinh tế đi nữa, cũng sẽ để lại cho hậu thế dấu ấn của một nỗ lực phục hồi các giá trị truyền thống Anglo-Saxon như văn minh Thiên Chúa Giáo và tính ưu việt của người da trắng (white supremacy), chí ít cũng là niềm an ủi cuối đời của các tầng lớp da trắng già nua.

Tôi bỏ phiếu cho Hillary Clinton vì một lý do duy nhất là hi vọng bà sẽ theo đuổi đến nơi đến chốn chiến lược “Xoay trục qua châu Á” và Hiệp định TPP, như là một nỗ lực chống sự bành trướng của Trung Quốc, một sự bành trướng trước hết xâm phạm biển đảo của Tổ quốc tôi. Nhưng mặc khác, tôi cũng biết được rất nhiều người thiểu số vừa đi làm lấy tiền mặt (để khai không có lợi tức) vừa đục khoét nhà nước phúc lợi Mỹ (hưởng đủ thứ trợ cấp) trong khi rất ít người da trắng lạm dụng như vậy. 

Công bằng mà nói, lá phiếu da trắng là một hành vi quật cường đã đưa Donald Trump lên làm vua. Một người ngã mạn, tự cao tự đắc như Trump, được làm vua là ưu tiên số một. Vì vậy ta có thể hi vọng việc triều chính của y sẽ do các chính khách thông thái (statesmen) đảm trách.

Dẫu sao cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vừa rồi cho thấy thể chế dân chủ chưa đến nỗi liệt kháng. Tôi tin vào thể chế này, vì bốn năm sau nếu Trump không đáp ứng nguyện vọng của đa số, ông ta sẽ bị cho thôi việc. Hiến pháp và các định chế dân chủ Mỹ luôn luôn cho nước này một cơ hội để “gượng dậy từ các lỗi lầm của mình.” Nếu có một viễn kiến lịch sử, chúng ta không nên buồn vì những bất bình diễn ra trong cận cảnh.
T. N. C.


__._,_.___

Posted by: <tntimnguyen04@yahoo.com

Wednesday, November 16, 2016

NGƯỜI VIỆT VÀ TÍNH KỲ THỊ


NGƯỜI VIỆT VÀ TÍNH KỲ THỊ
        . Nguyễn Hữu Nghĩa

Không nói vội qua chuyện người, hãy nói chuyện ta: Người Việt có kỳ thị không?

Tôi tin là người Việt kỳ thị đệ nhất hạng, chẳng những kỳ thị phái tính, kỳ thị chủng tộc mà còn kỳ thị nghề nghiệp, kỳ thị địa phương.
Người Việt vốn theo mẫu hệ, trong nhà thì các mợ là số 1, sau đó mới tới các cậu. Bà Trưng, bà Triệu phất cờ khởi nghĩa cầm quân, còn các ông lúc thúc chạy theo cầm … giáo.

 Sau này khi bị Tàu xâm lăng, đô hộ, phá hủy văn hóa, xóa bỏ văn tự, áp đặt chế độ phụ hệ thì dần dà các ông mới nhỏ nhẻ có tiếng nói và bắt đầu kỳ thị ngược lại đàn bà, coi đàn bà là vật phụ thuộc, “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết rồi các bà vẫn chưa giành lại được độc lập tự do, mà “tòng” con trai! May mà chưa thấy “tử viết” bảo con chết thì tòng luôn cháu nội!

Lời ca bài “Trấn thủ lưu đồn” là minh chứng: “Dù choa (tôi) có vụng dù choa có dại, choa vẫn là đàn ông! Đó vợ đây chồng, đó bế con gái để choa bồng con trai!”

Đau thật! Các bà chỉ được bế cái hĩm, còn thằng cu thuộc giai cấp khác, cao hơn, dành cho các ông!

Cho tới thế kỷ 21, tôi vẫn còn nghe thấy một bà Việt Nam xua tay rối rít khi được đề cử vào nhiệm vụ lãnh đạo một đoàn thể xã hội: “Thôi em hổng làm được đâu! Đờn bà đái không qua ngọn cỏ mà làm cái gì!”
Tôi phải bật nói: “Em ơi, ở đây đang bàn xem ai có khả năng lãnh đạo chứ không phải một cuộc thi… tiểu tiện mà so ra xem ai phóng nước ra cao hơn! Bộ óc không có phái tính…” Tôi kịp nuốt “ực” nửa câu sau: “…nó không suy nghĩ bằng… cái vòi!”

Bà này mếu máo phân bua: “Mà óc em… nhỏ xíu hà! Suy luận thì cạn cợt, em không làm được đâu! Mấy anh đàn ông làm giùm đi!”
Quả thật, các cụ ông ngày xưa đã bịa ra câu ca dao để dạy dỗ các… cụ bà: “Đàn ông nông nổi giếng khơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu!”

Hết thuốc!
Đó là kỳ thị phái tính. Rồi thì kỳ thị nghề nghiệp, kỳ thị giai cấp.
Tôi nhớ hồi học tiểu học, trong bài luận văn, tôi gọi người ăn xin là “ông ăn xin, bà ăn mày” thì bị chê là dùng chữ không thích hợp, dù “ổng bả” đã ngoài 70! “Ông xe lôi, xe kéo” cũng không được, mà phải gọi là “phu xe”.

Người Việt còn kỳ thị địa phương.
Ở ngoài Bắc, người làng này sang làng khác ở thì là “dân ngụ cư” không phải người làng, dù sống bao nhiêu đời ở đó vẫn cứ là “dân ngụ cư”, không được trọng vọng.

Người Bắc vào Nam sinh sống cũng bị trêu chọc: “Ớ con nhỏ, nó đau làm sao, dưới đít có cọng rau! Làm sao làm sao mới làm sao, người Nam Việt đâu có kỳ như vậy! Bắc kỳ, Bắc kỳ là Bắc kỳ!” (lời ca điệu Sơn Đông Hướng Mã).

Người từ Thanh Nghệ Tĩnh trở ra Bắc gọi là “cá rô cây”; người Bình Trị Thiên” là “dân trọ trẹ.” Quảng Nam vô tới Bình Thuận là "nẫu", chỉ có dân Nam kỳ lục tỉnh mới là "người Việt mình!"

Rồi kỳ thị chủng tộc còn cay nghiệt hơn.
Người Việt tự coi mình cao hơn mên (Cao Miên), mọi (người Thượng), chàm (Champa) đã đành, mà khinh luôn “Chà Và Ma Ní tí te, cái bụng thè lè con mắt ốc bưu”, tức người Java và người Phi từ Manila, và cả người Bombay, Ấn Độ. Người Phi châu thì là Tây đen mặt gạch.

Ngoài Bắc thì khinh người Tàu, gọi là “thằng ngô”; phụ nữ Việt lấy Tàu thì gọi là “con đĩ”, lấy tây thì dè bỉu là “me tây”, “me Mỹ”.
 Qua tới xứ người rồi mà gả con cho Mỹ trắng thì dùng dằng một chút rồi ưng, nhưng Mỹ đen hay Nam Mỹ thì nhất định duỗi ra, nhất định không chịu.

Hoá ra người Việt vốn kỳ thị, nhưng lại nể nang người da trắng, coi như cao hơn mình một bậc, cho nên nếu có bị người da trắng coi nhẹ thì đó là thường sự, chấp nhận việc kỳ thị như là đặc quyền của người trắng, ai phàn nàn hay chống lại nạn kỳ thị thì bị coi như bắng nhắng, thiếu hiểu biết.

Mới đây, phong trào kỳ thị chủng tộc ở Mỹ bắt đầu tái hiện và lên cao. Nhiều người Việt “bảo hoàng hơn vua”, kỳ thị hơn Mỹ trắng, cho rằng người Mỹ “có chính nghĩa” để kỳ thị, làm như Mỹ khinh ai thì khinh, không dám khinh …người Việt!

Người Việt xí một chỗ, tự xếp hạng ngang hàng hay thấp hơn Mỹ trắng chút xíu, vì là người tị nạn, người di tản…. khác với di dân. Người Việt coi nhẹ các giống dân khác. Việc kỳ thị coi như không có, hoặc do báo chí “thổi phồng”, chuyện chẳng có gì mà ầm ĩ.

Có người ngấm ngầm ủng hộ việc tập trung, cô lập và trục xuất di dân ngoại nhập bất hợp pháp, rồi tiến tới việc tước quốc tịch, tống cổ di dân hợp pháp nhưng không cùng tôn giáo với Mỹ, là những việc nên làm, cần làm và phải làm.

Có ai còn nhớ, hồi đệ nhị Thế chiến, Mỹ đã nhốt hết người Mỹ gốc Nhật vào trại tập trung, kể cả những gia đình đã nhập tịch từ nhiều thế hệ. Khi đệ tam Thế chiến diễn ra, Mỹ và Tàu/Việt đối nghịch, số phận đám Mỹ vàng sẽ ra sao?

Tôi không tìm ra câu kết luận cho vấn đề! Tôi chỉ thấy ý niệm “bác ái” càng lúc càng mơ hồ và thừa thãi. Hình ảnh cái cầu mà Đức Giáo Hoàng gợi ý, không rõ nét bằng ý tưởng dựng rào của một anh trọc phú./.

(nhn)
__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?Q?Vi-b=C3=A1o_v=C3=A0_nxb_L=C3=A0ng_Van?= 

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link