Saturday, April 12, 2014

THẦN CHẾT SỢ AI?

Sent: Saturday, April 12, 2014 1:42 PM
Subject: BÀI VIẾT RẤT HAY !!! CÁM ƠN LÃO MÓC
 
 

Bài viết rất hay !!!!
Đáng đưa bài này vào sử sách !!!!
Cám ơn Lão Móc
Trưng Triệu

2014-04-12 20:15 GMT+07:00 Hieu Doan <>:
 

        

MOT Y CHI CHONG CONG
               MOT LOI THE GIANH LAI QUE HUONG


                                                                                                                                                                      
On Saturday, April 12, 2014 7:11 AM, Hieu Doan <> wrote:


THẦN CHẾT SỢ AI?

LÃO MÓC

Thần Chết, tức Tử Thần xưa nay vẫn là nỗi ám ảnh, lo sợ của đại đa số con người. Đông và Tây thuở giờ mang hai nền văn hóa khác biệt. Ai đó đã từng nói: “Đông là Đông và Tây là Tây”.

Nhưng theo tôi, Đông Tây vẫn có những cái thống nhất với nhau. Một trong những cái thống nhất đó là hình tượng Thần Chết. Tử Thần vẫn được Đông và Tây tượng trưng bằng một bộ xương khô, tay cầm lưỡi liềm. Quả là một hình tượng làm trẻ già lớn bé khắp nơi, tự cổ chí kim đều sợ hãi. Tôi cũng vậy, tôi cũng ớn cái lão ấy lắm. Cái lưỡi liềm ghê rợn trên tay lão lúc nào cũng như múa lên, chực chờ mà cắt phăng đi sinh mạng người ta! Sợ quá đi chớ! Cái lão Thần Chết đáng sợ ẩn ẩn hiện hiện khắp mọi nơi, mọi lúc. Tuổi già ư? Lão chẳng tha ai cả. Lão từ tốn ra tay, chậm chạp nhưng chắc chắn, từng người một.

Tai nạn ư? Lão đột ngột vung lưỡi liềm, số nạn nhân của lão vô chừng, khi nhiều, khi ít.

Bệnh tật ư? Lão hành hạ người ta chán chê rồi mới xuống tay. Chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai ư? Lão đắc ý vung tay lấy mạng người ta hàng loạt…

Người ta ít ai ưa lão, mà cũng ít ai không sợ lão. Lão tung hoành ngang dọc, coi thường mọi sự; kể cả những tiến bộ khoa học của đời nay. Những thứ đó thì cùng lắm chỉ ngăn cản bớt mức tàn khốc của cái lưỡi liềm trên tay lão mà thôi. Lâu ngày chầy tháng rồi thì cuối cùng lão vẫn thắng. Có lẽ lão lấy làm đắc ý với sức mạnh vạn năng của lão. Ai mà chẳng sợ? Lão nghĩ thế! Mà kể lão cũng đáng sợ thật. Nhưng lẽ đời mà, có cái gì tuyệt đối đâu. Đại đa số người ta sợ lão, nhưng không phải là tất cả. Có những người không hề sợ lão.

Ngày 21 tháng Chạp năm Giáp Thân (1248), 50 vạn quân Mông Cổ dưới quyền thống suất của Thái tử Thoát Hoan và hai danh tướng Ô Mã Nhi, Toa Đô ào ạt kéo sang xâm lăng Đại Việt. Hội quân trên đất Hồ Quảng phía Nam Trung Hoa: Lục quân do Thoát Hoan điều động tiến vào Lạng Sơn. Thủy quân từ Quảng Châu theo Toa Đô vượt biển vào Chiêm Thành; tự phía Nam tiến lên Bố Chánh (Quảng Bình) rồi thẳng ra Nghệ An. Quân Đại Việt bị kẹp giữa hai gọng kềm.

Ngày 27 tháng Chạp, giặc chiếm Nội Bàng, Hưng Đạo Vương lui về Bái Tân (thượng lưu sông Lục Nam).

Ngày 6 tháng Giêng, giặc đến Bình Than.

Ngày 12 tháng Giêng, giặc chiếm Kinh Bắc (Bắc Ninh), Hưng Đạo Vương chuyển quân về Thiên Trường. Giặc cậy mạnh đuổi theo rất gấp. Ngài giao Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, còn mình bảo vệ vua Nhân Tông và Thượng Hoàng Thánh Tông lui về Hải Dương.

Ngày 21 tháng Giêng, Trần Bình Trọng chận đánh giặc tại Bãi Thiên Mạc (bên sông Cái, thuộc tỉnh Hưng Yên). Quân ít, thế cô, ông bị giặc vây bắt được. Thoát Hoan biết ông là một tướng tài, muốn trọng dụng nên hết sức vỗ về để dụ hàng. Ông khẳng khái từ chối.

Thoát Hoan hỏi ông:

“Có muốn làm Vương đất Bắc không?”

Trần Bình Trọng quắc mắt đáp:

Ta chỉ bị bắt thì chỉ có chết mà thôi, đừng nhiều lời vô ích”.

Thoát Hoan biết không thể lung lạc được ông, đành ra lệnh chém..Lưỡi gươm Mông Cổ vung lên, cái lưỡi liềm của Tử Thần hạ xuống. Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng giây phút đó chợt trở thành cái tên thiên thu bất tử. Thần Chết ngỡ ngàng. Lão núp sau lưỡi gươm Thoát Hoan. Lão nghĩ rằng bại tướng kia sẽ kiêng oai lão. Đứng trước cái oai Thần Chết cùng với miếng mồi ngon là tước Vương đất Bắc, lão nghĩ người bại tướng nước Nam kia sẽ khó lòng cưỡng lại. Lão mỉm cười chờ đợi lời quy phục…

“Ninh vi Nam quỷ, bất vi Bắc vương…”

Câu trả lời ngạo nghễ kia đã tạt vào mặt lão một gáo nước lạnh, làm cho lão nhớ ra rằng trên đời này vẫn có những con người không hề sợ oai Thần Chết! Lão cay đắng nhận ra mình mới là người chiến bại.

Tới gần đây, nhân đọc một bài thơ, tôi mới biết thêm rằng, chẳng những con dân Đại Việt có rất nhiều người coi thường Thần Chết; mà hơn thế nữa, có những người còn làm cho Thần Chết sợ họ nữa kia!

Ngày 24-1-1930, tại hội nghị Võng La, Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học tuyên bố: “Chúng ta nhất định phải phát động cuộc Tổng khởi nghĩa. Không thành công thì thành nhân”.

Ngày 10-2-1930, cuộc Võ trang khởi nghĩa do Việt Nam Quốc Dân Đảng lãnh đạo nổ ra. Cách mạng quân tấn công Yên Báy, Hưng Hoá, Lâm Thao, Sơn Tây, Đáp Cầu, Phả Lại, Phủ Đức, Vĩnh Bảo và nhiều nơi trong nội thành Hà Nội. Một số lãnh tụ của Đảng hy sinh hoặc bị bắt.

Ngày 28-3-1930, Hội đồng Đề hình của thực dân Pháp đã mở phiên xử tại Yên Báy với kết quả:

-100 án khổ sai chung thân;
-50 án tử hình.
http://vulep-books-links.blogspot.com.au/2014/04/cai-khon-nan-cua-dan-toc-viet-trong_3704.html
http://vulep-books-links.blogspot.com.au/2014/04/cai-khon-nan-cua-dan-toc-viet-trong_3704.html

Đó là chưa kể đến hàng hàng lớp lớp chiến sĩ ái quốc đã bị tù đày và bắn giết ngay sau ngày khởi nghĩa.

5 giờ sáng ngày 17-6-1930, Đảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí lần lượt bước lên máy chém, và cũng là đài vinh quang đưa tên tuổi họ vào lịch sử.
Đó là các liệt sĩ:

1-      Bùi Tư Đoàn, 37 tuổi, nông dân,
2-      Bùi Văn Chuẩn, 35 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy.
3-      Nguyễn An, 31 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
4-      Hồ Văn Lạo, 35 tuổi, thợ hồ,
5-      Đào Văn Nhít, 32 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
6-      Ngô Văn Du, 29 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
7-      Nguyễn Đức Thịnh, 30 tuổi, thuộc Binh đoàn yên Báy,
8-       Nguyễn Văn Tiềm, 28 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
9-      Đỗ Văn Sứ, 27 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
10-  Bùi Văn Cửu, 30 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
11-  Nguyễn Như Liên, 27 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Báy,
12-  Phó Đức Chính, 32 tuổi, công chức,
13-  Nguyễn Thái Học, 29 tuổi, Đảng trưởng.

Muời ba lần, lưỡi gươm máy chém nặng nề rơi xuống. Mười ba tiếng hô “Việt Nam vạn tuế” dõng dạc vang lên…

Trong buổi sáng sớm của ngày Quốc tang đó, Thần Chết không còn dám núp mình trong cái khí cụ giết người là cái máy chém kia nữa. Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên! Lão Thần Chết lần này không còn cái dáng vẻ đáng sợ như mọi ngày. Thần Chết giờ đây đang kính cẩn đứng khắc từng cái tên anh hùng vào bia Tuẩn quốc!

Tôi có lỗi quá! Không nhớ hết bài thơ, tôi cũng không nhớ được tên tác giả. Tôi chỉ có được một nén hương lòng. Bằng hữu xa gần, ai nhớ, xin làm ơn nhắc dùm tôi!

Cũng vào những ngày này, 39 năm trước; cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam tự do đã kết thúc một cách bất hạnh. Quân đội miền Nam đã chiến đấu anh dũng nhưng lực bất tòng tâm, vả lại sinh mạng miền Nam tự do chỉ là một con cờ trên bàn cờ quốc tế, mà người có quyền quyết định kết quả đó không phải là những người Việt yêu tự do ở miền Nam. Và cũng trong những ngày bi thảm đó, Thần Chết đã phải thêm một lần kính cẩn đón tiếp những con người  Việt Nam bất khuất; những con người mà đứng trước giờ lâm tử của Tổ quốc họ đã quay ra coi thường Thần Chết. Trái với lệ thường, những con người kia đã bình tĩnh ra lệnh cho Thần Chết đến trình diện họ. Và lão đã kính cẩn tuân lệnh.

-Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó Quân đoàn IV & Quân khu IV, nói với sĩ quan và binh sĩ thuộc quyền: “Tôi chấp nhận chết. Một người Tướng không giữ được nước thì phải chết vì nước, không thể bỏ dân, bỏ xứ để cầu an cho bản thân, Vĩnh biệt anh em…” Một tiếng súng nổ, 8 giờ tối ngày 30-4-1975.

-Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân Đoàn IV & Quân khu IV:“… Chúng tôi là Tướng chỉ huy, nếu chúng tôi không bảo vệ được đất nước thì chúng tôi phải chết theo đất nước”. Một tiếng súng nổ, 6 giờ sáng ngày 1-5-1975.

-Tướng Trần Văn Hai, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ Binh: “… Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm được… Chúng ta đã chiến đấu hết sức mình, nhưng trong giờ phút này chúng ta đành phải bó tay… Xin cám ơn và vĩnh biệt các anh em”. Một tiếng súng nổ, sáng ngày 1-5-1975.

-Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh: “… Tôi nghĩ thân làm Tướng là đã hưởng vinh dự và ân huệ của Quốc gia hơn các anh em, nên tôi đã nghĩ đến một lối đi riêng cho tôi”. Và lối đi đó đã mở ra bằng một phát súng, trưa ngày 30-4-1975.

-Tướng Phạm Văn Phú: “… Tôi không thể bỏ ra đi khi đất nước của tôi trong tình trạng như thế này. Tôi sẽ ở lại đây để chết chớ không đời nào chịu đầu hàng Cộng sản”. Tướng Phú đã trả lời tướng Smith ngày 27-4-1975 như vậy khi ông này ngỏ ý mời tướng Phú và gia đình di tản. 32 viên Chloroquines uống vào lúc khoảng 2 giờ trưa ngày 29-4-1975.
Cái danh sách mà Thần Chết được lệnh phải đi đón trong những ngày đó còn dài. Những sĩ quan cấp Tá, cấp Úy, những hạ sĩ quan, binh sĩ, cảnh sát, công chức, cán bộ… Cái danh sách đó đang được lão Thần Chết trân trọng giữ gìn, chờ một ngày để trao lại cho những nhà viết sử,

Từ lâu rồi, lão đã học được một điều, là khi người ta lấy Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm làm trọng, thì người ta sẽ không còn sợ lão. Rồi theo lẽ tự nhiên, lão đâm ra sợ ngược lại những con người kia. Khi họ gọi lão đến, lão cung kính đến trình diện và mẫn cán làm cái nhiệm vụ mà Danh Dự và Trách Nhiệm của những người kia giao cho lão. Lão kính cẩn khắc tên họ vào bia Tuẩn quốc. Như vậy thì xét ra cái lão Thần Chết này cũng không đáng sợ và đáng ghét cho lắm. Lão là người đôi khi cũng biết điều. Lão hay dọa dẫm người ta. Nhưng nếu gặp người, gặp lúc lão cũng biết cách cư xử. Lão cũng làm được nhiều việc đáng làm. Lão rất rạch ròi phân minh. Lão đã kính cẩn khắc những cái tên Trần Bình Trọng, Nguyễn Thái Học… vào lịch sử. Lão đã đặt tên ai vào chỗ nào là không bao giờ sai chạy. Đâu ra đó. Không bao giờ lão lầm lẫn để  những cái tên Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh lẫn lộn với những cái tên Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ… Không bao giờ! Bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu sách vở, tài liệu ngụy tạo dấu diếm đều không qua được mắt lão. Không bao giờ!

Trần Bình Trọng, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú… cùng những con người khác nữa; đứng trước cổng lịch sử, họ dõng dạc lên tiếng gọi lão. Lão đã kính cẩn mở cái cổng ấy ra, CỔNG CHÁNH, và kính cẩn, lão rước họ vào!



LÃO MÓC
tieng-dan-we ekly.blogspot.com

      

Chọn lựa của đời người



L.D.Vân

 

Chọn lựa của đời người

Trần Trung Đạo (Danlambao) - Nỗi lo sợ lớn nhất của một nhà tranh đấu cho tự do dân chủ của một đất nước không phải là sợ bị tù mà bị sống lưu vong, bởi vì với phần đông, đi là hết.

Boris Pasternak không phải là nhà đấu tranh chính trị nhưng khi bị hăm họa nếu đi nhận giải Nobel văn chương có thể không được phép trở về Nga, ông từ chối đi nhận giải. Aung San Suu Kyi được phép đi thăm chồng bịnh nặng nhưng có thể không được trở về, bà đành chịu không thấy mặt chồng còn hơn phải rời Miến Điện. Nhắc lại, năm 1997, chồng bà, Tiến sĩ Michael Aris, bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối nhưng bị chính phủ quân phiệt Miến từ chối cấp giấy phép nhập cảnh thăm bà và cuối cùng Michael Aris đã chết ở Anh Quốc đúng trong ngày sinh nhật của ông không có mặt vợ.


Vùa Hàm Nghi của Việt Nam mình là bài học khác. Trong suốt ba năm từ 1885 đến 1888, chịu đựng bao gian truân đói khổ trong rừng núi Quảng Bình, nhà vua không hề than van và ngay cả khi bị bắt vị vua 17 tuổi còn mắng vào mặt Việt gian Trương Quang Ngọc "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây", nhưng khi bước xuống tàu Biên Hòa để bị lưu đày sang Algérie, ngài đã khóc. Giọt nước mắt của vị vua mất nước và cũng là một thanh niên Việt Nam chỉ mới 18 tuổi tuôn rơi chỉ vì phải rời xa tổ quốc thân yêu và một phần khác ngài cũng biết đi là hết, giấc mộng Cần Vương xem như chính thức cáo chung.

Trong giai đoạn từ 1975 đến nay, có hai nhà đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân bản Việt Nam nổi tiếng nhưng có hai chọn lựa khác nhau: Giáo sư Đoàn Viết Hoạt chọn lựa ra đi và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế chọn lựa ở lại.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt: Không thể ra khỏi nhà tù nếu thiếu điều kiện ra đi khỏi Việt Nam

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt bắt đầu các hoạt động chống độc tài CS ngay sau 1975 và bị tù tổng cộng gần 20 năm:

- Lần thứ nhất: Ngày 29 tháng 7 năm 1976 ông bị bắt với cáo trạng “Tuyên truyền tư tưởng phản động chống phá Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Giáo sư bị CSVN giam giữ 12 năm không bản án. Ông ra khỏi tù lần thứ nhất ngày 9 tháng 2 năm 1988.

- Lần thứ hai. Một năm sau, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt góp phần thành lập nhóm Diễn Đàn Dân Chủ và sáng lập viên của tạp chí Diễn Đàn Tự Do. Ngày 17 tháng 11 năm 1990, ông bị CSVN bắt lần thứ hai. Tòa sơ thẩm CSVN ngày 31 tháng 3 năm 1993 kết án giáo sư 20 năm tù giam. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm sau đó, giảm án xuống còn 15 năm tù giam. Năm 1993, ông bị đưa sang trại tập trung lao động khổ sai. Ngay trong tù, ông đã tổ chức hoạt động đối lập và vì vậy, ông bị đưa đi giam giữ cô lập 4 năm liền tại trại giam Thanh Cầm, Thanh Hóa.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đối diện với chọn lựa không thể ra khỏi nhà tù nếu không chịu rời bỏ Việt Nam, nhưng ông cũng chỉ chịu rời Việt Nam khi vợ, con và nhiều bạn bè khuyên ông nên chấp nhận ra nước ngoài. Năm 1998, từ nhà tù, ông được đưa thẳng tới sân bay Nội Bài để bay sang Mỹ.

Sáng 8 tháng 4, 2014 vừa qua, phái viên Kính Hòa của RFA phỏng vấn Giáo sư Đoàn Viết Hoạt về việc Cù Huy Hà Vũ được trả tự do và tức tốc đưa sang Mỹ. Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt phát biểu: 

“Tôi nghĩ rằng nếu có thể thì chúng ta nên ở lại để đấu tranh. Tôi cũng muốn sớm được trở lại để đấu tranh với các bạn trong nước. Và ở ngoài này thì chúng ta phải vận động để thả ở trong nước chứ không đưa ra ngoài. Mỗi một người đi ra ngoài là mất một chiến sĩ trong nước, mà chiến sĩ ở trong nước mới là chính. Ngoài này chúng tôi chỉ hỗ trợ thôi. Khi sang ngoài này thì chúng tôi làm hết sức mình để hỗ trợ trong nước. Tất nhiên trong nước là cái chính, chúng ta phải bằng mọi giá đấu tranh để Hà nội thả anh em ra trong nước. Và phải chấp nhận những tiếng nói đối lập để đi đến dân chủ một cách ôn hòa bất bạo động.”

Ông Phạm Văn Thành, một người đã từng ở tù chung với giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhận xét trên Facebook về những lời phát biểu của giáo sư:

“Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đã trả lời rất thực lòng. Với bản thân tôi, tôi luôn luôn giữ lòng kính trọng với các quyết định của ông, kể cả quyết định chấp nhận đi ra nước ngoài, một quyết định tôi biết là cực kỳ khó khăn đối với ông, người mà tôi trân trọng gọi bằng thầy xưng con ngay từ khi anh em chúng tôi đón nhóm của ông chuyển từ trại Z30D Hàm Tân vào trại Trừng Giới A20 Xuân Phước cuối năm 1993. Thời gian ở trại A20 Xuân Phước, ông là người nỗ lực không ngừng nghỉ trong mục tiêu nâng cao khả năng lý luận cho những anh em tù chính trị đã bị giam cầm quá lâu (từ 1977 /1980/1984). 

Vốn liếng văn hóa, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế của ông đã làm chúng tôi bật ngửa và đặc biệt nhất là sự can trường và ý nhị của ông. Trước sự đeo bám của an ninh trại, ông bất chấp những đớn đau sẽ đến với mình và liên tục tham dự các buổi họp nhóm với tất cả các anh em tù kỳ cựu tổ chức. Nhiều người trong nhóm (nhóm Diễn Đàn Tự Do) của ông đã phải tránh hẳn ông vì sợ sự liên lụy. Bối cảnh ấy, anh em võ biền chúng tôi mới thật sự kính phục người mà trước đó nhiều anh em có ý không phục vì ông có liên quan đến những nhóm phản đối chính quyền miền Nam VNCH trước 1975. Bối cảnh trại A20 Xuân Phước, một trại khét tiếng tàn khốc với gần hai ngàn nấm mộ số (tính đến 1994) đã giúp cho chúng tôi nhận ra giá trị thực thụ của một kẻ sĩ. Một bậc trí thức thực sự.” 

Về việc Giáo sư Đoàn Viết Hoạt ra đi. Cựu tù nhân chính trị Phạm Văn Thành cũng cho biết chính ông là người được giáo sư hỏi ý ngay khi ở trong tù. Hỏi ý nhiều khi không phải để nhận câu trả lời nhưng chỉ là cách để nhẹ những ưu tư đang đè nặng trong lòng.

Câu trả lời của giáo sư Đoàn Viết Hoạt và tiết lộ của một người ở tù chung nhiều năm với ông, cho chúng ta biết chọn lựa ra đi của ông là một chọn lựa khó khăn. Chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Ông ra đi mang theo một niềm tâm sự luôn chôn giấu trong lòng và tâm sự đó đã nhiều đêm làm ông trăn trở. Ông cho nhiều người thân biết khi máy bay bay lên trời cao, nhìn xuống thấy đất nước xa dần ông đã bật khóc, không cầm được nước mắt. Bởi ngày trở lại không biết đến bao giờ. Ông không bao giờ muốn rời xa quê hương nếu được tự do lựa chọn. Như ông đã chọn lựa trở về Việt Nam sau khi học xong bằng Tiến Sĩ ở Mỹ. Và sau khi CS chiếm miền nam ông cũng đã quyết định ở lại quê hương để tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng nhân chủ mà ông đã noi theo thân phụ ông từ khi còn trẻ.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt không phải là mẫu người hoạt động theo kiểu xông xáo đó đây nhưng là một nhà giáo dục, một cựu tù nhân lương tâm phát xuất từ miền Nam, một nhà tư tưởng, học ở Mỹ nên việc hội nhập vào sinh hoạt chính trị dòng chính Mỹ cũng như tham gia vào cộng đồng Việt Nam hải ngoại không mấy trở ngại khó khăn. Không giống như nhiều người tranh đấu khác chỉ tập trung vào các hoạt động có tính cách chiến thuật, ngắn hạn, giáo sư viết sách, phân tích tình hình quốc tế, sử dụng tích cực các mối quan hệ của cá nhân ông với quốc tế, đề nghị các chiến lược dài hạn cho các phong trào đấu tranh, vì thế, vai trò của ông tại hải ngoại có thể hữu hiệu không kém, nếu không muốn nói thuận lợi hơn, vai trò của ông khi còn ở trong nước.

Bác sĩ Nguyễn Đan Quế: Lưu đầy không phải là tự do

Một người bạn tù của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế thì khác, ông đã chọn lựa sống chết với quê hương ngay trong giờ phút Sài Gòn thoi thóp thở cho đến hôm nay.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong lúc nhiều người Việt Nam chạy ra sông, ra biển, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã chạy ngược dòng người, ông chạy về bệnh viện, nơi hàng trăm thiếu nhi Việt Nam bị thương tích và bệnh hoạn không có người chăm sóc, không có ngay cả một viên thuốc chống đau. Với chức năng của một bác sĩ và tình thương dành cho thể hệ thiếu nhi đang bị chế độ bỏ rơi, ông đã ở lại tiếp tục ngành chuyên môn của mình trong bệnh viện nhi đồng Sài Gòn. Tuy nhiên, một năm sau, trước những bất công, hà khắc mà chế độ CS áp đặt lên nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn từ trong bệnh viện nơi ông làm việc cho đến ngoài xã hội, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế phát động cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân bản cho dân tộc Việt Nam.

Từ đó, ông đã dấn thân vào hành trình tranh đấu cho một Việt Nam tự do dân chủ và nhân bản. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị bắt nhiều lần và có những bản án kéo dài hàng chục năm qua nhiều trại tù lớn ở miền Nam:

- Lần thứ nhất: Mười năm, từ 1978 đến 1988, trong đó có thời gian dài bị biệt giam vì đã sáng lập Mặt trận Dân tộc Tiến bộ "với âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản". Không đưa ra tòa xét xử.

- Lần thứ nhì: Ngày 29 tháng 11 năm 1991, trong phiên tòa chỉ vỏn vẹn ba mươi phút, CSVN đã xử Bác sĩ Nguyễn Đan Quế 20 năm khổ sai và 5 năm quản chế vì "hoạt động lật đổ chính quyền". Đến năm 1993, Bác sĩ Quế bị đưa đi lao động khổ sai ở trại K4 Xuyên Mộc (Bà Rịa) và ở trại K3 Xuân Lộc, cách Sài Gòn 80 cây số về hướng Đông Bắc. Mặc dù sức khỏe của ông ngày càng yếu, quản giáo CSVN vẫn tìm cách hành hạ ông bằng lao động khổ sai và biệt giam.

- Lần thứ ba: Bị bắt năm 2003 vì lên tiếng tranh đấu cho tự do thông tin và phát biểu. Lần nữa, trước áp lực quốc tế và đồng bào trong cũng như ngoài nước. CSVN đã buột phải thả Bác sĩ Nguyễn Đan Quế vào năm 2005.

- Lần thứ tư: Bị bắt vào cuối tháng 2 năm 2011, sau khi công bố “Lời kêu gọi toàn dân xuống đường cứu nước”. CSVN trả ông về nhà sau khi bị tạm giữ 48 giờ.

Năm 1998, trước áp lực quốc tế, chính quyền cộng sản đồng ý thả bác sĩ Nguyễn Đan Quế với điều kiện ông phải rời Việt Nam.

Với hai mươi năm tù tội, CSVN nghĩ rằng bác sĩ đã cạn kiệt tinh thần cũng như thể lực và phải chọn con đường bình an nhất cho những ngày tháng cuối đời là ra đi. Nhưng họ đã lầm. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế từ chối. “Lưu đầy không phải là tự do” ông tuyên bố một cách khẳng khái. Tự do của một người chỉ trọn vẹn ý nghĩa nếu được tự do trên quê hương mình và cùng với dân tộc mình. Không có tự do dành cho những kẻ bị lưu đày. Cuối cùng, Cộng Sản đành thả ông và giam lỏng ông tại Sài Gòn.

Ngày 11 tháng 5 năm 2014 sắp tới đây đánh dấu 24 năm ngày Bác sĩ Nguyễn Đan Quế công bố Bản Tuyên Bố của Cao Trào Nhân Bản kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, các chính phủ và nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ khắp thế giới tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh bất bạo động đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải (a) Tôn trọng các nhân quyền căn bản của người dân Việt Nam. (b) Phải chấp nhận sinh hoạt chính trị đa nguyên. (c) Phải trả lại cho người dân Việt Nam quyền được lựa chọn một thế chế chính trị phù hợp với nguyện vọng của mình qua các cuộc bầu cử tự đó và công bằng dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc.

Hôm nay, bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã 73 tuổi với gần một nửa đời người trong tù tội lao lung. Ngọn đèn nhân sinh có thể một ngày sẽ tắt nhưng ngọn đèn nhân bản ông thắp lên trong ngày 11 tháng 5 năm 1990 chẳng những không tắt mà mỗi ngày một sáng hơn. Hai mươi năm trước, phong trào xã hội dân sự tại Việt Nam chỉ có Cao Trào Nhân Bản và Diễn Đàn Tự Do, hôm nay hàng trăm nhóm, phong trào, mạng lưới internet, tập hợp xã hội dân sự đang được ra đời và phát triển. Con đường ông đi ngày đó chỉ có một vài dấu chân lẻ loi đơn độc, hôm nay, hàng trăm, hàng ngàn người cùng đi. Tuổi trẻ Việt Nam xem bác sĩ như là một người cha, người chú, một chỗ dựa tinh thần, một nơi để tìm nguồn an ủi trong những lúc khó khăn. Và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, cũng giống như trong buổi chiều 30 tháng Tư, 1975 lại tiếp tục săn sóc, khuyên răn các em bằng đức tính khiêm cung và tấm lòng nhân ái.

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và Mount Everest đang chờ 

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là một người đa tài. Anh sinh ngày 2 tháng 12 năm 1957 tại xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh). Anh tốt nghiệp tiến sĩ luật học, thạc sĩ văn chương, họa sĩ nhưng được biết đến nhiều nhất như một nhân vật bất đồng chính kiến với nhà nước CSVN. Anh bị bắt ngày vào 5 tháng 11 năm 2010 tại Sài Gòn và bị khởi tố ngày 15 tháng 11 năm 2010 về tội danh quen thuộc của CS “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Anh bị kết án 7 năm tù. Phiên tòa ngày 2 tháng 8 năm 2013 giữ nguyên bản án. Tuy nhiên, trong lúc đang ở tù, anh Cù Huy Hà Vũ được CS phóng thích và cùng vợ đi thẳng sang Mỹ ngày 7 tháng Tư năm 2014.

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ ra khỏi nhà tù CS là một tin vui chung cho phong trào dân chủ Việt Nam. Cuộc vận động và tranh đấu thay mặt anh đã diễn ra không ngừng trên mọi lãnh vực, mọi bình diện, mọi phương tiện, mọi giới và mọi tầm vóc đã có hiệu quả. Trong nước Cù Huy Hà Vũ đã trở thành niềm thôi thúc của tuổi trẻ dấn thân. 

Ngoài nước, Cù Huy Hà Vũ đứng hàng đầu trong danh sách tù nhân mà các tổ chức nhân quyền dùng để gây áp lực cho CSVN. Phần lớn các nhà phân tích và đồng bào quan tâm đều nghĩ CSVN phải trả tự do cho anh sớm. Và họ đoán đúng. Tuy nhiên thay vì trở về với bạn bè cùng tranh đấu, với công cuộc vận động dân chủ đang quá cần anh, với phong trào bảo vệ Hoàng Sa Trường Sa mà anh từng gắn bó, anh được đưa từ nhà tù sang Mỹ ngay là một tin làm nhiều người ngạc nhiên. Không ít người thất vọng, lo lắng và ngay cả buồn phiền.

Lần nữa, chọn lựa đi hay ở là chọn lựa cá nhân. Nếu anh chọn ra đi để chửa bịnh và được sống bình an sau những năm tháng dài đấu tranh mệt mỏi ở Việt Nam thì đó là chọn lựa riêng tư. Mỗi người trong thế giới này có quyền chọn lựa một cách sống riêng cho mình và gia đình mình. Quyết định đó phải được tôn trọng. 

Đất nước Việt Nam là của 90 triệu người chứ không phải chỉ của một mình Cù Huy Hà Vũ. Và đừng quên, phong trào dân chủ từ thập niên 1990 đến nay có những lãnh tụ đấu tranh tưởng chừng như “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” đã tự biến mất đi không để lại một dấu vết gì. Thỏa hiệp, đầu hàng, mệt mỏi hay dù gì cũng không ai trách và sau một thời gian sẽ không còn ai nhắc. Cuộc vận động dân chủ như một chuyến tàu, tại mỗi sân ga, có người bước xuống nhưng cũng có người khác bước lên. Lịch sử đã, đang và sẽ diễn ra như thế.

Nhưng nếu anh Cù Huy Hà Vũ chọn ra nước ngoài để vừa được bình an vừa tiếp tục con đường tranh đấu như phương cách anh đã làm trong nước thì đó sẽ là một chọn lựa vô cùng khó khăn để thực hiện:

- Phương pháp đấu tranh: Từ trước đến nay, anh Cù Huy Hà Vũ chọn phương pháp đấu tranh trong vòng cơ chế, nghĩa là chấp nhận và dựa trên hiến pháp CS, luật pháp CS. Anh từng ứng cử vào chức vụ Bộ trưởng Thông Tin, tranh cử Đại biểu Quốc Hôi. Anh từng kiện Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên, kiện cả Thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng, đòi hỏi phải thay đổi hiến pháp. Nói chung, anh tìm mọi kẽ hở của chế độ để tấn công, nhưng những kẽ hở đó đã được đóng lại cùng lúc với cánh cửa máy bay. Điều kiện đầu tiên để đấu tranh trong vòng cơ chế là phải có mặt. Không gian đấu tranh chính trị như thế không tồn tại ở hải ngoại. Ở Mỹ không có “gậy ông” để anh “đập lưng ông”. Lịch sử đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc có rất nhiều người đã đấu tranh trong vòng cơ chế thực dân như Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, nhà báo Nguyễn Phan Long, kỹ sư Bùi Quang Chiêu, nhà văn Diệp Văn Kỳ v.v... và đã giúp tạo nền móng vững chắc cho chế độ dân chủ tại miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975 nhưng họ đều trực diện một mất một còn với chế độ thực dân tại Việt Nam. 

- Hậu thuẫn đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ vận dụng tích cực các mối quan hệ cá nhân, gia đình, môi trường xã hội mà anh xuất phát để làm điểm tựa đấu tranh. Những điều kiện đó thuận lợi bao nhiêu ở trong nước sẽ bất lợi bấy nhiêu ở hải ngoại. Giả thiết rằng điểm hẹn cuối cùng trong hành trình tranh đấu của anh Cù Huy Hà Vũ cũng là một nước Việt Nam tự do dân chủ như phần lớn người Việt trong và ngoài nước đang tranh đấu, điểm khởi hành của anh phát xuất từ trong lòng chế độ CS và vì thế không đi cùng một ngã với đại đa số người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại không phải bao giờ cũng bằng mặt, bằng lòng với nhau nhưng có một lập trường dứt khoát giống nhau đối với chế độ CS như một điều kiện tiền đề, không có chuyện “tuy nhiên”, “lẽ ra” hay “nói gì thì nói” nào cả.

- Lý luận đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ không phải là nhà tư tưởng hay nhà lý luận. Hầu hết các hoạt động của anh chỉ mang tính chiến thuật, ngắn hạn, gây khó khăn cho chế độ nhưng không tấn công vào nền tảng của ý thức hệ Mác Lê và các nguyên nhân dẫn đến một đất nước điêu tàn, nghèo đói, phân hóa như hôm nay. Có thể đó phương cách đấu tranh anh nghĩ là thích hợp nhưng trong điều kiện hải ngoại những chiến thuật như thế không hiệu quả và cũng không thuyết phục được bao nhiêu người. Tham nhũng tại Việt có tính đảng và sinh sôi nảy nở tốt tươi dưới bóng cây cổ thụ quyền lực của đảng, do đó, đánh tham nhũng mà tránh đánh vào đảng CS cũng chẳng khác gì đánh vào chiếc bóng đen mà để yên cho kẻ trộm dọn nhà mình.

Anh Cù Huy Hà Vũ có thể nói đã một mình đã tạo nên một phong trào đấu tranh đầy sinh động. Các nhà chiến lược và lý luận có thể không đánh giá anh cao nhưng cách đấu tranh của anh lại dễ gây phong trào quần chúng và gây khó cho lãnh đạo CS. Nhiều bạn trẻ đã khóc, đã xuống đường, đã bị tù vì anh khi anh bị chế độ CS hạ nhục. 

Nhiều cụ già đã thương quý anh như con, như cháu khi anh bị lao tù. Ngoài việc can đảm, gan dạ, với tuổi trung niên, anh là chất keo nối kết các tầng lớp xã hội. Quốc tế nhìn anh như một lãnh tụ đấu tranh nổi bật của giai đoạn này và luôn dùng để gây áp lực nhân quyền với chế độ. Nhưng chất keo đó chỉ còn là những giọt nước mưa rớt rơi trên mặt phi đạo khi chuyến bay mang anh đi vừa cất cánh. Nụ cười và dấu V chiến thắng của anh đưa lên khi ra khỏi phi trường Dulles ở Washington DC có thể chỉ để xã giao với người đang cầm máy ảnh nhưng làm đắng cay cho bao nhiêu đồng bào, anh em đang kỳ vọng ở nơi anh.

Lịch sử cũng từng chứng minh không phải đi là hết

Rất nhiều chính khách đối lập lưu vong hay tự lưu vong ở nước ngoài sau đó đã trở về và thành công trong việc lãnh đạo quốc gia như Benazir Bhutto, Kim Đại Trọng ở Á Châu, Jacob Zuma, Moncef Marzouki của Phi Châu và nhiều người khác.

Nhiều độc giả đã biết trường hợp Kim Đại Trọng của Nam Hàn và Benazir Bhutto của Parkistan, xin giới thiệu trường hợp của Tổng thống Tunisia Moncef Marzouki mới đây. Sau khi tốt nghiệp bác sĩ tại đại học Strasbourg, Pháp, Bác sĩ Moncef Marzouki trở lại Tunisia và thành lập Trung Tâm Y Tế Cộng Đồng để ngăn chận lạm dụng thiếu nhi. Bác sĩ Moncef Marzouki không có tham vọng chính trị nhưng trước việc nhà độc tài Ben Ali trấn áp một cách dã man các thành phần đối lập, ông đã đứng ra thành lập Ủy Ban Quốc Gia Bảo Vệ Tù Nhân Lương Tâm (the National Committee for the Defense of Prisoners of Conscience). 

Ông bị tù nhiều lần trước khi lưu vong sang Pháp. Tại Pháp, ông tiếp tục lãnh đạo Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa (Congrès pour la République) gọi tắt là CPR. Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa quy tụ một tập thể trí thức thuộc nhiều tôn giáo, thành phần xã hội, hữu và tả, Arab và không Arab nhưng theo đuổi một mục tiêu tối hậu là thành lập một chế độ Cộng Hòa đầu tiên tại Tunisia bao gồm tự do ngôn luận, tự do hội hộp, tự do bầu cử và ứng cử. 

CPR đòi hỏi một hiến pháp mới đặt cơ sở trên các nguyên tắc của chế độ Cộng Hòa. Sau khi nhà độc tài Ben Ali bị lật đổ, Moncef Marzouki trở về Tunisia để tham gia cuộc bầu cử quốc hội và được chọn làm Tổng thống của Tunisia ngày 12 tháng 12 năm 2011. Trả lời báo chí, Moncef Marzouki phát biểu về nhiệm vụ chính của ông ta “Khi một đất nước phải trải qua 50 năm độc tài, nhiệm vụ chính của tôi là ngăn chận độc tài tái diễn”.

Còn hơi sớm để đánh giá, nhận xét về việc anh Cù Huy Hà Vũ ra đi bởi vì có thể có nhiều yếu tố về phía Mỹ, phía CSVN và cả cá nhân anh vẫn chưa được biết, chưa được tiết lộ, chưa được tỏ bày. Những điểm người viết trình bày không có ý phê bình, chỉ trích nhưng chỉ muốn nêu ra một cách thẳng thắn về những hoàn cảnh và tình huống mà anh Cù Huy Hà Vũ có thể sẽ phải đương đầu trong những ngày tháng tới. Nếu anh chỉ muốn có cuộc sống bình an, đọc sách, họa, nghiên cứu luật sẽ không có gì để nói nhưng nếu anh tiếp tục dấn thân trên đường đấu tranh như đã từng làm thì trước mặt là đỉnh Everest đang đợi chờ anh.

Một góp ý chung cho tất cả những người ra đi, dù ra đi bằng ghe như kẻ viết bài này hay bằng máy bay như các lãnh tụ đấu tranh: Xa đất nước là một bất hạnh và ra đi, dù viện dẫn bất cứ một lý do gì, cũng có lỗi với quê hương.


Trần Trung Đạo
danlambaovn.blogspot.com
| 4/10/2014 8 Comments
___


CPJ kêu gọi Việt Nam ngưng dùng tù nhân chính trị làm con tin

CPJ kêu gọi Việt Nam ngưng dùng tù nhân chính trị làm con tin

·    
·    
·    
·  

Tin liên hệ

CỠ CHỮ 
11.04.2014
Ủy ban Bảo vệ Ký giả quốc tế (CPJ) kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam ngưng bắt giữ tù nhân chính trị làm con tin để đổi lấy những sự nhượng bộ từ quốc tế về kinh tế hay quân sự.

Lời kêu gọi được đưa ra vài ngày sau khi nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng Cù Huy Hà Vũ được Việt Nam phóng thích cho sang Mỹ trị bệnh.
CPJ kêu gọi Việt Nam ngưng dùng tù nhân chính trị làm con tin
Trong cuộc trao đổi với VOA Việt ngữ hôm 11/4, ông Bob Dietz, Điều phối viên Chương trình Châu Á của CPJ, nói dù hoan nghênh việc tiến sĩ luật Hà Vũ được trả tự do, nhưng Ủy ban Bảo vệ Ký giả rất lo ngại trước chính sách tiếp diễn của Hà Nội: bắt giam, đàn áp, ngược đãi các nhà bất đồng chính kiến, các nhà hoạt động dân chủ, hay những người chỉ trích nhà nước và dùng họ như những con cờ để đổi chác với quốc tế.

“Thật hết sức đáng quan ngại khi nhà cầm quyền Việt Nam cầm giữ chính người dân nước mình như những con tin để đổi lấy những sự nhượng bộ nào đó từ các nước.”

Ông Dietz nói giữa lúc hai nước Việt-Mỹ chưa tiết lộ rõ ràng các nguyên nhân trong vụ phóng thích tiến sĩ Hà Vũ, có thể  suy đoán rằng đây có lẽ là kết quả của một thỏa thuận nào đó giữa đôi bên dựa vào thực tế những gì diễn ra trước nay.

Không ít trường hợp các nhà hoạt động hay các tù nhân lương tâm trước đây từng được đề nghị trả tự do với điều kiện họ đồng ý rời khỏi nước, như trường hợp của luật sư Lê Thị Công Nhân, luật sư Bùi Kim Thành, hay nhà văn Trần Khải Thanh Thủy.

Hoa Kỳ luôn đặt vấn đề nhân quyền làm trọng tâm trong các mối quan hệ với Việt Nam trong khi Hà Nội đang ngày càng cần sự hỗ trợ của Mỹ về nhiều mặt kể cả quân sự và kinh tế, đặc biệt giữa bối cảnh tranh chấp Biển Đông căng thẳng với Trung Quốc và các cuộc thương lượng Hiệp định Đối tác Tự do Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP do Hoa Kỳ dẫn đầu với sự tham gia của 12 quốc gia.

Điều phối viên chương trình Châu Á của CPJ Bob Dietz nói việc Việt Nam chỉ đồng ý trả tự do cho tù nhân lương tâm Đinh Đăng Định trong những ngày cuối đời ông chống chọi với căn bệnh ung thư là một hành động vô nhân đạo. Đó là chưa kể đến, vẫn theo lời ông, tình trạng các tù nhân lương tâm đang bị giam cầm tại Việt Nam bị ngược đãi, bị hành hạ và các nhà hoạt động luôn bị công an sách nhiễu, đàn áp.

  
Việt Nam chỉ đồng ý trả tự do cho tù nhân lương tâm Đinh Đăng Định trong những ngày cuối đời.Việt Nam chỉ đồng ý trả tự do cho tù nhân lương tâm Đinh Đăng Định trong những ngày cuối đời.
“Chúng tôi rất quan tâm đến thực trạng vẫn còn rất nhiều tù nhân chính trị đang bị lao tù tại Việt Nam vì các hoạt động tương tự như tiến sĩ Hà Vũ mà không thấy Hà Nội có động thái nào tiến tới việc trả tự do cho họ.”

Trong số những tù nhân đang bị giam cầm tại Việt Nam được CPJ đặc biệt chú ý có trường hợp của blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải), người đang được CPJ mở các cuộc vận động trong đó có một chiến dịch thỉnh nguyện thư với hàng chục ngàn chữ ký gửi tới giới lãnh đạo Việt Nam.

Ông Dietz cho hay CPJ hiện có danh sách 18 blogger đang bị cầm tù tại Việt Nam không phải vì nội dung các bài viết của họ, mà vì chính sách độc đoán của nhà cầm quyền, hoàn toàn không dung chấp bất cứ một ý kiến đối lập nào. Ông Dietz nói chính sách này đi ngược lại với các nhân quyền căn bản được quốc tế công nhận và các cam kết của Việt Nam, nhất là trong cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc hiện nay.

  
Trong số những tù nhân đang bị giam cầm tại Việt
 Nam được CPJ đặc
 biệt chú ý có trường hợp của blogger Điếu Cày.Trong số những tù nhân đang bị giam cầm tại Việt Nam được CPJ đặc biệt chú ý có trường hợp của blogger Điếu Cày.
Ông Dietz nhấn mạnh vấn đề không phải là bao nhiêu tù nhân lương tâm được thả mà là đến bao giờ Hà Nội chịu từ bỏ các hành vi đàn áp nhân quyền đã và đang được tận dụng triệt để vì nhiều mục đích khác nhau.

Ông Dietz cho hay CPJ sẽ tiếp tục các nỗ lực mạnh mẽ, cố gắng thuyết phục Hà Nội thay đổi cách hành xử với những nhà hoạt động hay những tiếng nói phê phán nhà nước vì sự tiến bộ của xã hội và vì quyền con người.

Ông nói xuất khẩu tù nhân lương tâm để đổi lấy quyền lợi không phải là cách phát triển hay thay đổi lành mạnh cho đất nước Việt Nam và Hà Nội cần phải chấm dứt những chính sách đó.

“Nếu Việt Nam tiến tới vị trí một thị trường mở cửa hiện đại, thì cách hành xử vi phạm nhân quyền như thế hòan toàn không phù hợp chút nào. Hà Nội dù sớm hay muộn phải đảo ngược các chính sách đàn áp kiểu này. Họ phải tự coi lại và tự quyết định cho mình.”

  
Vụ phóng thích tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ không xoa dịu được nỗi đau của các blogger và các ký giả độc lập đang bị đàn áp tại Việt NamVụ phóng thích tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ không xoa dịu được nỗi đau của các blogger và các ký giả độc lập đang bị đàn áp tại Việt Nam
Ủy ban Bảo vệ Ký giả CPJ nêu rõ các vụ phóng thích tù nhân lương tâm như vụ tiến sĩ Hà Vũ không xoa dịu được nỗi đau của các blogger và các ký giả độc lập đang bị đàn áp tại Việt Nam kể cả trong lẫn ngoài tù cũng như không giúp được thân nhân của họ thoát khỏi cảnh bị công an sách nhiễu hằng ngày.

Ông Dietz khuyến cáo các thỏa thuận, nếu có, giữa Việt Nam với các nước trong việc phóng thích tù nhân lương tâm sẽ tạo ra một xu hướng rất tiêu cực vì Hà Nội sẽ tiếp diễn chính sách đàn áp của mình khi thấy rằng nó mang lại cho họ một số kết quả như mong đợi.

CPJ kêu gọi cộng đồng quốc tế bên cạnh việc thúc đẩy Việt Nam trả tự do cho tù nhân lương tâm, hãy chú ý hơn nữa đến việc áp lực họ ngưng bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận và thôi giam cầm những tiếng nói chỉ trích nhà nước.

CPJ nói thế giới cần tiếp tục có những nỗ lực đáng kể và hiệu quả hơn giúp Hà Nội cải thiện thành tích nhân quyền bị lên án gay gắt.

Theo thống kê của Ủy ban Bảo vệ Ký giả có trụ sở tại Mỹ, Việt Nam là nhà tù lớn thứ năm trên thế giới giam cầm ký giả. Tổ chức Phóng viên Không biên giới đặt tại Pháp xếp Việt Nam là nhà lao lớn thứ nhì trên toàn cầu giam cầm blogger và những người thể hiện quan điểm bất đồng với nhà nước trên mạng, chỉ sau Trung Quốc.

Việt Nam nói chỉ có những người vi phạm pháp luật mới bị xử lý, không có tù nhân lương tâm hay tù nhân chính trị.


Quyền của nhà báo sao lại phải xin?


Luật sư Trần Hồng Phong (Một Thế Giới) - Gần đây, dư luận báo chí phản ánh việc Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC) đang dự thảo một Thông tư quy định về nội quy phiên tòa. Theo đó có quy định “mới” là khi nhà báo dự phiên tòa xét xử thì phải xin phép và phải được chủ tọa hay lãnh đạo tòa án chấp thuận. 

Mới đây nhất lại có báo đưa tin nhà báo sẽ chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo, không phải xin phép nữa. Tuy nhiên, quy định chính thức sẽ như thế nào thì vẫn chưa có.

Trước hết, người ta chỉ xin cái gì không phải của mình, không thuộc quyền của mình. Còn cái gì pháp luật đã quy định là quyền của công dân, quyền của nhà báo, thì không cần phải xin và cũng không ai có quyền “cho”, không ai có quyền đứng trên pháp luật. 

Đơn cử như trong Hiến pháp quy định công dân có quyền kinh doanh, thì Luật doanh nghiệp quy định về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Tôi nhấn mạnh từ “đăng ký”, chứ không phải là “xin - cho”. Nếu hồ sơ đầy đủ, đúng quy định, thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có nghĩa vụ bắt buộc phải cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho người đăng ký. 

Theo quy định tại Hiến pháp và pháp luật tố tụng (dân sự, hình sự...), mọi phiên tòa đều được xét xử công khai, người dân bất kể ai đều có quyền tham dự. Còn trong Luật báo chí thì quy định rõ nhà báo được tác nghiệp, đưa tin phản ánh các sự kiện xã hội, các phiên tòa xét xử...

Như vậy, việc nhà báo tham dự phiên tòa và tác nghiệp là quyền (cũng là trách nhiệm) của nhà báo, pháp luật quy định rõ ràng. Và do vậy, việc ngành tòa án “đẻ” ra quy định xin – cho đối với nhà báo khi tham dự phiên tòa là trái quy định, ảnh hưởng và hạn chế quyền hành nghề của nhà báo, quyền được biết thông tin của xã hội.

Theo tôi nghĩ, chỉ cần quy định đơn giản là nhà báo khi tham dự phiên tòa thì phải “thông báo” hay “đăng ký” với tòa. Mục đích là để tòa biết và hỗ trợ (nếu có). Còn nếu nhà báo nào muốn tác nghiệp theo kiểu giống như một công dân bình thường, ngồi dự khán và ghi chép, thì cũng không cần phải đăng ký hay thông báo gì cả. 

Vấn đề quan trọng ở đây là nhà báo tác nghiệp tại tòa phải bảo đảm không ảnh hưởng đến trật tự phiên tòa, không xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (các đương sự, bị cáo) và nếu được tạo điều kiện thuận lợi hơn thì càng tốt. 

Chính vì vậy, thiết nghĩ nội quy phiên tòa phải quy định rõ và thống nhất trên toàn quốc việc tác nghiệp của nhà báo. Chẳng hạn như: không được đi lại, chụp ảnh trong khi đang xét xử, được đặt máy ghi âm ở đâu, khu vực tác nghiệp của nhà báo trong phòng xử...

Trước đây phiên tòa xét xử vụ án Năm Cam, tòa cho phép nhà báo vào chụp ảnh 15 phút đầu giờ xử mỗi ngày, đây là một quy định theo tôi đáng được nhân rộng. 

Thực tế hiện nay tại nhiều phiên tòa các nhà báo đi qua đi lại, chỉa máy ảnh vào mặt đương sự hay bị cáo, chụp cảnh bị cáo khóc, cười v.v... nhiều khi rất phản cảm và thực tế đã xâm hại quyền của cá nhân đối với hình ảnh của họ, thậm chí ảnh hưởng đến uy tín, danh dự công dân. 

Cũng cần nói thêm là việc chụp ảnh tại phiên tòa nên được quy định chặt chẽ hơn và phải phù hợp với quy định tại Bộ luật dân sự. Về nguyên tắc, không ai được phép sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác nếu người đó không đồng ý. 

Do vậy, chúng ta cần phải hướng đến quy định không cho phép chụp ảnh tại phiên tòa. Nhà báo có thể chụp ảnh bị cáo, đương sự, nhưng nên chụp bên ngoài phòng xử án. Nhiều nước trên thế giới cấm chụp ảnh tại phiên tòa. 

* Ảnh: Quang cảnh phiên tòa công an dùng nhục hình đánh chết người ở Tuy Hòa, Phú Yên.





Khi những chiếc đũa trở thành một bó

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-04-07

0020-305.jpg
Lễ tang thầy giáo Đinh Đăng Định tại DCCT Sài Gòn hôm 06/04/2014.
Courtesy Blog Quê Choa
Đám tang thầy giáo Đinh Đăng Định đã hoàn tất vào ngày hôm nay tuy nhiên hình ảnh của những ngày qua cho thấy người thầy giáo này đã chiếm được lòng tin yêu của bạn bè, đồng đội thậm chí ngay cả những người chỉ biết ông qua mạng xã hội cũng tỏ lòng tiếc thương. Điều gì đã tạo ra một đám tang trang nghiêm và không bị sách nhiễu ấy?

Mức ảnh hưởng khó tưởng tượng

Khi quan tài của thầy giáo Đinh Đăng Định được chuyển từ Nhà nguyện Đức Mẹ Thăm Viếng đến Dòng Chúa Cứu Thế tại đường Kỳ Đồng thì người trong cuộc nghĩ rằng đám tang thầy Định sẽ gặp rất nhiều phiền phức. Thế nhưng khi các linh mục DCCT mạnh mẽ khẳng định rằng sẵn sàng đối đầu với bất kỳ việc phá rối nào, thậm chí đã có tuyên bố nếu bắt được công an viên nào đến phá rối, cộng đồng Công giáo ở đây sẽ bắt giữ, và chỉ thả ra sau khi tang lễ hoàn tất thì hình như mọi việc đã trở nên khá bình thường.
Người tới viếng thăm bất kể là ai không bị chất vấn, ngăn cản hay theo dõi, hù dọa. Trước cửa nhà thờ không thấy côn đồ lảng vảng và tất cả mọi vòng hoa phúng điếu đều không bị xé bỏ tên người gửi như từng xảy ra tại nhiều tang lễ của những nhà bất đồng chính kiến khác trong quá khứ.
Những vòng hoa ấy nói lên rất nhiều điều vì nó đại diện cho hàng chục tổ chức, hội đoàn mà đa số đều là những tổ chức không được nhà nước cho phép. Chỉ duy nhất một vòng hoa nằm ngoài sự khó chịu của nhà nước được gửi đến rất sớm là của Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Anh ra đi rất thanh thản. Vâng anh đã thứ tha cho tất cả những kẻ đã gây ra không biết bao nhiêu khổ đau cho anh và cho gia đình anh.
-HT Thích Không Tánh
Đám tang của một thầy giáo nhưng mức ảnh hưởng của nó khó tưởng tượng ra được khi có ít nhất một ngàn người viếng thăm và hàng trăm người đã theo chân quan tài tới nơi hỏa táng. Thân nhân ruột thịt của thầy Đinh Đăng Định vỏn vẹn chỉ có 6 người đàn bà gồm vợ, ba con gái, một chị, một người em gái từ Bắc vào chịu tang. Sáu người đàn bà dắt díu nhau, xiêu vẹo chung quanh quan tài nhưng họ cảm thấy ấm áp lạ lùng vì bao vây họ là sự cảm thông sâu đậm của người tới thăm.
Họ là những dân oan, những bạn tù, những người ý thức sự suy sụp của một nền chính trị độc tôn. Họ là tín đồ các tôn giáo bị áp bức từ miền bắc như người H’Mông, từ miền Nam như Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài, từ Tây nguyên như Tin Lành Mennonite… họ như những chiếc đũa rời rạc khắp nơi đổ về tang lễ và tại đây trước di ngôn của người thầy giáo hiền lành này đã biến tất cả thành một bó đũa.
Có lẽ điều làm cho mọi người xúc động nhất là di ngôn của người từng bị tù đày, đàn áp, đối xử bất công đến chết được trịnh trọng đặt trước quan tài, đó là: “Không được giữ lòng thù hận, chúng ta không phải là kẻ thù của nhau”.
Nhìn những vòng hoa vây kín chung quanh quan tài với những cái tên như Phụ Nữ Vì Nhân Quyền, CLB No-U, CLB Hoa Mai, Phật Giáo Hòa Hảo, Tin lành Mennonite, Con Đường Việt Nam, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Bauxite Việt Nam, Dân Làm Báo, Radio Chân Trời Mới, hội Dân Chủ Miền Trung. . .người ta khó thể tin rằng nơi đây đang tập trung hầu hết các tổ chức, thành viên tranh đấu cho nhân quyền, tự do dân chủ nổi tiếng khắp nước và cả hải ngoại đã xuất hiện ngay tại trung tâm của thành phố.
Hòa thượng Thích Không Tánh của chùa Liên Trì đại diện cho Hội Cựu tù nhân lương tâm đã đọc một bài điếu văn cảm động và đầy lửa đấu tranh. Khó thể tin được những lời lẽ như thế có thể công khai tại thành phố mang tên bác:
0012-250.jpg
Lễ tang thầy giáo Đinh Đăng Định tại DCCT Sài Gòn hôm 06/04/2014. Courtesy Blog Quê Choa.
“Anh ra đi rất thanh thản. Vâng anh đã thứ tha cho tất cả những kẻ đã gây ra không biết bao nhiêu khổ đau cho anh và cho gia đình anh. Trong thời gian nằm chữa trị tại bệnh viện sức đã suy nhiều nhưng anh đã nhanh chóng tình nguyện góp sức cùng góp phần sáng lập hội Cựu tù nhân lương tâm. Một sáng lập viên đặc biệt của hội, chúng tôi xin kính cẩn nghiêm mình bái phục trước vong linh của anh, người chiến sĩ bất khuất can trường đấu tranh cho tự do dân chủ của đồng bào, cho công lý và an sinh của đất nước.
Anh, không bao giờ khuất phục trước tà quyền. Anh, là biểu tượng của sự dứt khoát đoạn tuyệt nhất với chủ nghĩa, chế độ cộng sản. Anh, là một tấm gương sáng trong sự nghiệp đấu tranh cho tổ quốc Việt Nam ngày hôm nay. Anh đã làm xong bổn phận trọn hiếu với người con Mẹ Việt Nam.
Trước khi ra đi anh vẫn còn cố thu chút hơi tàn nhắc nhở chúng tôi hãy quan tâm đến cương vị chung đó là cuộc đấu tranh chống lại chế độ độc tài cộng sản. Vâng, thưa anh chúng tôi sẽ ghi lòng tạc dạ.”

Đồng cảm và đoàn kết

Ông Lưu Trọng Kiệt người có mặt từ đầu nhận xét về đám tang của thầy Đinh Đăng Định:
“Theo nhận xét của tôi thì đám ma của thầy Đinh Đăng Định được rất nhiều sự quan tâm của công chúng. Tất cả những người đấu tranh dân chủ, sinh viên học sinh trẻ họ ý thức được, thứ hai nữa giáo dân ở Sài Gòn họ nghe thông tin của thầy trên mạng nên họ tới thăm rất nhiều. Chúng tôi rất hãnh diện khi có một anh em đấu tranh cho dân chủ mà được rất nhiều công dân Việt Nam họ quan tâm tới.
Đạo Hòa Hảo, Cao Đài, anh em H’Mông tại miền Bắc, một số anh em đấu tranh dân chủ miền Bắc họ đã đồng cảm với nhau và thấy rằng nều đoàn kết lại thì đây là một sức mạnh.”
Từ Hà Nội blogger Nguyễn Lân Thắng cũng vào tận Sài gòn để thăm người tù này, anh cho biết:
“Thầy Đinh Đăng Định là một nhà giáo rất nghèo ở vùng thôn quê. Sự hy sinh của thầy rất to lớn. Em là một trong những người ký vào bản tuyên bố bauxite và 14 ngàn người đã ký vào bản tuyên bố đó cho nên khi thầy bị nạn như thế thì lương tâm và trách nhiệm mình cảm thấy rằng phải có mặt trong đám tang của thầy để chia sẻ, động viên gia đình và cũng khẳng định uy tín của mình trong vấn đề bauxite.”
Giảng viên Phạm Minh Hoàng, đảng viên đảng Việt Tân một cựu tù nhân lương tâm chia sẻ:
Cái đám tang này nó đặc biệt là bởi nó tập trung rất nhiều hội đoàn tổ chức hoạt động chính trị cả trong và ngoài nước. Rất nhiều nhóm xã hội dân sự tham gia vào đám tang này.
-Blogger Nguyễn Lân Thắng
“Trước tiên tôi nghĩ tôi tới thăm thầy Định với tư cách là một con người, thứ hai là một đồng nghiệp mặc dù chúng tôi không làm việc chung với nhau, thứ ba nữa là một người từng ở tù thì tôi nghĩ ba yếu tố đó cũng đủ cho tôi đến thăm thầy Định đó là chưa kể tình cảm thầy Định đã dành cho tôi lúc thầy còn sống. Tôi rất xúc động lúc nhìn di ảnh của thầy vẽ ra trước mặt tôi một người đã nằm xuống bởi vì những suy nghĩ những đóng góp của thầy mà cho đến ngày hôm nay ai cũng phải công nhận điều thầy nói là đúng.
Báo chí trong tuần qua họ đã khẳng định chuyện bauxite lỗ hằng trăm triệu đô và không biết cái lỗ này nó sẽ chấm dứt vào lúc nào nữa. Khi tôi đốt nén nhang tôi thấy trước mặt mình một người đã nằm xuống vì suy nghĩ của họ thì tôi cảm thấy phải tiếp tục làm cái chuyện mà thầy đã làm không trọn vẹn.”
Không như các đám tang trước đây của những người đấu tranh, đám tang của thầy giáo Đinh Đăng Định hoàn toàn yên ắng và sự bình an này được anh Nguyễn Lân Thắng lý giải:
“Cái đám tang này nó đặc biệt là bởi nó tập trung rất nhiều hội đoàn tổ chức hoạt động chính trị cả trong và ngoài nước. Rất nhiều nhóm xã hội dân sự tham gia vào đám tang này. Vấn đề ở đây khiến họ không dám đàn áp đám tang này vì chính nghĩa, việc thầy Đinh Đăng Định đã làm. Rồi hậu quả của dự án Bauxite nó đã sờ sờ ra và tất cả mọi người đều biết nên có lẽ họ e ngại họ không tích cực đàn áp.”
Ông Lưu Trọng Kiệt bổ túc thêm những ghi nhận của mình về cách mà công an và an ninh thành phố âm thầm theo dõi nhưng không có động tác đối phó nào:
“Đúng ra đám ma thầy Đinh Đăng Định có rất nhiều an ninh mặc thường phục chứ không phải là không có, rất là nhiều, nhưng họ chỉ đứng quay phim và nhìn thôi vì họ thấy dân chúng, giáo dân rất đông, từ trong nhà thờ đi ra với máy quay phim, chụp hình của anh em đều đặt vào đám ma của thầy Định. Công an giao thông cũng kè theo hai ba chiếc xe mô tô. Mỗi một ngã tư đều có từ 4 tới 6 cảnh sát giao thông hết. Tới ngay lò thiêu thì cỡ chừng trên 100 nhưng họ không có động thái gì hết. Mình vẫn ôn hòa chứ không làm điều gì cho người ta phiền phức. Đây là một điều rất tốt khi không gây khó khăn trong một đám tang như vậy.”
Sự yên ắng ấy còn một cách lý giải khác, khi những chiếc đũa đã gom thành bó thì muốn hay không muốn người ta cũng khó mà bẻ gãy.


Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link