Saturday, November 29, 2014

NHỮNG CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM TỰ MÌNH LỪA DỐI CHÍNH MÌNH



NHỮNG CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM 
TỰ MÌNH LỪA DỐI CHÍNH MÌNH


Bản Chất CHÓ SÓI, NHỮNG MÁNH LỚI LỪA BỊP XƯƠNG MÁU NHÂN DÂN của Nhà Nước Chính Trị và CẢM TÍNH ÁI QUỐC NGU XUẨN của Quần Chúng.


Cho đến nay, nhiều người nói chung và đặc biệt là người Viêt Nam nói riêng vẫn chưa nhận ra được "bản chất chó sói" của định chế Nhà Nước Chính Phủ. Người ta vẫn coi nhà nước chính phủ là "cha mẹ" là kẻ "bảo vệ, chăm sóc" cho dân chúng

Cho nên còn rất nhiều người vẫn KHÔNG THỂ TIN RẰNG chính NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ là kẻ tạo ra BẠO LOẠN, nếu cần GIẾT HẠI CẢ NGƯỜI DÂN CỦA HỌ cho mục tiêu đánh lạc hướng dư luận CHÍNH TRỊ NỘI TẠI để CỦNG CỐ QUYỀN LỰC.


Sau hơn mười ngàn năm bị NHÀ NƯỚC-CHÍNH PHỦ áp bức bóc lột tra tấn và bị sử dụng xương máu như những công cụ NÔ LỆ PHỤC VỤ vua chúa, gia đình hoàng tộc, rồi QUÂN PHIỆT TƯỚNG LÃNH, rồi Đảng phái độc tài, rồi bị xúi dục cắm đầu chết hàng loạt cho các cuộc CHIẾN TRANH .. Nhân loại đã có nhiều người THỨC TỈNH và từ đó nhu cầu DÂN CHỦ mói được đặt ra.

 Từ đó  NGƯỜI TA  nỗ lực đấu tranh để tước đoạt QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ TUYỆT ĐỐI của định chế quốc gia nhà nước, đặt nó vào vòng kềm chế và sử dụng của người dân như một phương tiện qua việc THÀNH LẬP HIẾN PHÁP. Người dân nắm QUYỀN THÀNH LẬP và HỦY BỎ  NHÀ NƯỚC-CHÍNH PHỦ theo nguyện vọng đồng thuận CỦA CHÍNH HỌ.


Nhưng những não trạng quyền bính đại bản không bao giờ từ bỏ tham vọng chính trị quyền lực, một bản năng  thú vật còn tồn đọng trong mỗi cá nhân sinh vật hai chân chúng ta khi chưa trưởng thành NHẬN THỨC. Vì vậy cuộc đấu tranh để tiến lên thành CON NGƯỜI nó liên tục, miên tục, và miên viễn KHÔNG CHỈ GIỮA NGƯỜI DÂN và ĐỊNH CHẾ NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ mà còn khởi đi NGAY Ở TRONG NÃO TRẠNG SUY NGHĨ của mỗi chúng ta.

 Nếu ngưng nghỉ vì bất cứ lý do nào, thì bản năng thú vật với TÂM LÝ SỢ HÃI, THUẦN PHỤC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC sẽ trỗi dậy, và  bọn quyền lực nhà nước sẽ giơ nanh vuốt chó sói ra trở lại, như chúng ta đã và đan thấy ở những xã hội có dân chủ rồi mà vì ích kỷ sợ hãi, lòng thù hận đã bị Nhà nước Chính phủ thao túng..


Những trường hợp thí dụ cận đại điển hình như nhà nước Mỹ âm mưu cùng Do Thái hy sinh hàng trăm lính Mỹ trong sự vụ chiếc tầu USS Liberty 1967; trong chiến trường Việt Nam 1956-1973, trong vụ 911 v.v Tất cả rất RÕ RÀNG và HIỂN NHIÊN với đầy đủ chứng cớ; cũng như chứng cớ rõ ràng hiển nhiên của việc bọn Đảng CSVN và Hồ Chí Minh toa rập với Trung Cộng vấy máu dân chúng Việt Nam trong  CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, NHÂN VĂN GIAI PHẨM, đập đầu người dân ở Huế Mậu Thân; văn bản bán nước cho Tầu, rồi ĐÁNH TƯ SẢN, TẬP TRUNG CẢI TẠO v.v..-  và bọn Ngụy VNCH làm tay sai cho Mỹ, đàn áp thủ tiêu đối lập, những ai có ý thức đòi dân chủ;  bưng bít vụ thảm sát Mỹ Lai cho lính Mỹ, v.v  Nhưng bất hạnh thay, tất cả vẫn chỉ rõ ràng hiển nhiên với những người đã THỨC TỈNH  DÂN TRÍ , biết yêu quí giá trị tự thân, tôn trọng sự thật và công chính, không còn bị ô nhiễm bới căn bệnh quốc gia dân tộc bầy đàn, để đủ CAN ĐẢM để THỂ HIÊN giá trị TỰ THÂN của mình mà NÓI THẲNG NÓI THẬT, và VẠCH TRẦN TỘI ÁC, tố cáo những kẻ thủ phạm chủ mưu.


Trên thực tế, như Nhân Chủ đã trình bày NHIỀU LẦN về vần đề BIỂN ĐÔNG không chỉ là giữa TQ và VN, mà là 6 quốc gia liên đới, và toàn bộ an ninh của cả KHU VỰC ĐÔNG NAM Á của ASEAN, và của cả APEC Thái Bình Dương, nghĩa là cả Mỹ, Úc, Canada v.v Nó là CHIẾN CẢNH của thế giới LIÊN LẬP HÔM NAY... nhưng tại sao chỉ có những "bức hiếp, giết người xâm phạm" nặng nề giữa Việt và Hoa? Mà để giải quyết VẤN ĐỀ này, thì cũng đã quá rõ ràng rằng  KHÔNG thể chỉ giữa VIỆT NAM và TRUNG CỘNG, hay ngay cả vài ba quốc gia là đã giải quyết được, chứ huống hồ gì cái "LÒNG ÁI QUỐC thổ tả" của một dân tộc mà dân trí còn bán khai, nội lực còn yếu kém?  

Cho dù tất cả 80 triệu người trong nước và 3 triệu Viêt Kiều  "cùng một lòng" cứ biểu tình gào thét "LÃNH THỔ là của Tổ Tiên" .. Cứ hồ hào phất vẫy tấm giẻ "quốc kỳ" đủ loại "ba que giẻ rách" hay "dúm phân vàng trẻ con giẻ lau" cùng đứng với đảng CSVN mà gào yêu nước đi! Gào thét gọi tên Hùng Vương,  Trần Hưng Đạo, Quang Trung đi... xem  những "ngôn ngữ xu mị cảm tính" ấy, có ban được sức mạnh chống ngoại xâm lấy lại lãnh thổ hay không? Hay chỉ làm cho người dân càng NGU ĐI, càng nhẫn nhục với  với sự MẤT MÁT QUYỀN CON NGƯỜI (NHÂN QUYỀN), QUYỀN CÔNG DÂN (DÂN QUYỀN)  của chính mình, của quần chúng bị bọn Đảng CSVN vi phạm ngày càng trầm trọng; và nhắm mắt trước sự băng hoại của bọn CẦM QUYỀN ĐỘC TÀI mặc quyền thao túng?

Khi một quốc  gia ĐÃ BỊ XÂM PHẠM, tức là chứng tỏ đất nước dân tộc đó đã và đang YẾU KÉM HÈN NHƯỢC, và NHÀ NƯỚC , CHÍNH PHỦ của HỌ cũng đã và đang băng hoại bất tài và bất lực rồi.

Không lo xây dựng lại DÂN TRÍ, để đấu tranh DÂN CHỦ thay đổi CƠ CHẾ NHÀ NƯỚC THỐI NÁT BẤT LỰC và bọn chính phủ độc tài tay sai,  để QUẦN CHÚNG có điều kiện TRỰC TIẾP ĐÓNG GÓP công sức trí tuệ xây dựng xã hội vững mạnh- và có đủ điều kiện giải quyết vấn nạn bang giao quốc tế, mà chỉ lo gào thét cảm tính bầy đàn, tiếp tục ỉ lại, nương vào rồi ĐỂ MẶC  một bọn Đảng độc đoán, một nhà nước chính phủ của riêng Đảng, vốn đã bất tài bất lực và băng hoại MUỐN TỰ Ý LÀM SAO SAO THÌ LÀM, và quần chúng KHÔNG CÓ QUYỀN LUU TÂM KIỂM SOÁT hay THAM GIA,   thì làm sao mà có GIẢI PHÁP đúng đắn để GIẢI QUYẾT?

Ngăn chặn ngoại xâm ngay từ trứng nước, để kẻ NGOẠI BANG không có ý định XÂM LĂNG, là phải có DÂN TRÍ để sử dụng Nhà Nước Chính Phủ như là công cụ làm việc phục vụ cho quần chúng xã hội, tức là PHẢI CÓ DÂN CHỦ để người dân có TỰ DO  mà phát triển hết tiềm lực của họ cũng như THAM GIA CHÍNH TRỊ ĐẤT NƯỚC không bị ngăn cản và hạn chế. Không bị ngăn cản hạn chế,  TRÍ TUỆ người dân mới được khai phóng và PHÁT TRIỂN, rồi CỘNG HƯỞNG lại thành NỘI LỰC QUỐC GIA, sức mạnh tự tồn của ĐẤT NƯỚC mới được xây dựng CÓ NỀN TẢNG VỮNG CHẮC.

Có nội lực DÂN TRÍ, phát triển nền KINH TẾ TỰ THÂN, có TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT KHOA HỌC, có DÂN CHỦ để có chính sách NGOẠI GIAO TRUNG LẬP HỮU HIỆU, thì ĐE DỌA  sẽ giảm thiểu, nếu chưa nói là sẽ không còn.  Và cứ giả thiết là có đe dọa, thì lúc đó chúng ta cũng đủ TỰ TIN và   Đủ SỨC MẠNH ĐỂ TỰ VỆ và GIẢI QUYẾT hay ĐÁP TRẢ hũu hiệu như Nhật, Hàn, Đài Loan, Mã Lai, Singapore v.v chứ không chỉ gào thét ái quốc ái quần xuông mà hoàn toàn KHÔNG CÓ NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT, để rồi tiếp tục bị ức chế bởi chính nhà nước của  mình, và tiếp tục sống như bày nô lệ cho bọn nhà nước chính phủ của chính mình.

 ===================================

NKPTC-QLND


Thi Thuy Nguyen Syd: Bài viết có ý nghĩa, nhưng đảm bảo số người đọc có thể hiểu thông suốt được chắc chỉ 1% còn 99% còn lại sẽ cảm thấy tự ái và bị báng bổ hoặc sẽ cho là không thực tế

Jimmy Hoang: chang qua la` dan tri' co`n ke'm, van chua nhan thuc ra duoc

Nguyễn Tất Thành: Theo tôi nghĩ bạn Đăng Phúc nên đọc nhiều bài viết của tác giả ,, thì bạn sẽ hiểu vị trí của tác giả cũng như các anh chị em tham gia trong này.... Riêng theo tôi nghĩ vấn đề chính của các bài viết lấy Nhân bản làm cốt lõi để thay đổi xã hội.. tôi xin mạn phép copy và paste lại tiêu chí của Trang QLND này ,,sau khi đọc các anh chị em sẽ hiểu rộng hơn về QLND...

- Từ bỏ được định kiến nô lệ tư tưởng, bệnh hoạn chính trị: THÁNH HÓA CỜ QUẠT, THẦN TƯỢNG LÃNH TỤ.
- Từ bỏ sự ngu xuẩn đồng hóa XÃ HỘI, ĐẤT NƯỚC và NGƯỜI DÂN vào với CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ, ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ
- Phải nhận ra được GIÁ TRỊ TỰ THÂN, xác lập được GIÁ TRỊ TỰ THÂN
1- GIÁ TRỊ TỰ THÂN chính là NHÂN PHẨM CỦA CHÍNH MÌNH, là BIẾT QUÍ TRỌNG CHÍNH MÌNH,
    biết phẫn nộ và can đảm đối kháng khi NHÂN PHẨM bị xúc phạm

2- PHẨM GIÁ NHÂN BẢN CỦA CON NGƯÒI là TỐI THƯỢNG trên hết tất cả các giá trị,
    mà không một ai hay nhà nước có quyền chà đạp hay tước đoạt, dù nhân danh bất cứ điều gì .
3- Nó chính là NHÂN QUYỀN VÀ DÂN QUYỀN- là NỀN TẢNG CHUNG CỦA NHÂN LOẠI.
4- NHÂN LOẠI ĐA NGUYÊN VÀ BÌNH ĐẲNG
5- NHÀ NƯỚC, CHÍNH PHỦ chỉ là PHƯƠNG TIỆN của NGƯỜI DÂN
6- NGƯỜI DÂN là Chủ Thể của xã hội, đất nước, chứ không phải Nhà Nước hay Đảng Phái
7- DÂN TRÍ chính là sự hiểu biết và nhận thức của NGƯÒI DÂN rằng:
Họ có QUYỀN TỰ DO BÌNH ĐẲNG
và QUYỀN SỬ DỤNG NHÀ NƯỚC LÀM PHƯƠNG TIỆN phục vụ cho mình.
8- Đó chính là nhận thức Dân Quyền , nền tảng của DÂN CHỦ
9- DÂN CHỦ TỰ DO không thể tồn tại phát triển nếu
NGƯỜI DÂN KHÔNG CÓ SỰ NHÂN THỨC HIỂU BIẾT CĂN BẢN DÂN QUYỀN NÀY (tức là KHÔNG CÓ DÂN TRÍ)

__._,_.___

Posted by: Vanessa Nguyen 

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

CA cướp đất, đánh người kinh hoàng tại Dương Nội



image





Preview by Yahoo


Trần Quí Cao

Bài 1: Về đặc trưng thứ nhất và đặc trưng thứ hai 
Ông Trần Quí Cao hứa với chúng tôi sẽ tập trung công sức viết một hệ thống gồm 4 bài xoay quanh chủ đề “đánh giá lại một cách tổng thể thành quả đạt được sau 39 năm Việt Nam xây dựng cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội”. Nay cả 4 bài đã hoàn tất, ông gửi đến trang BVN. Xin được lần lượt đăng lên, mỗi ngày một bài, để bạn đọc rộng rãi tham khảo.
Bauxite Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam hạ quyết tâm tiến hành việc xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam dù phải trả bất cứ giá nào và dù chưa một lần trưng cầu dân ý để biết lòng dân có thuận hay không. Ngày 14/1/2011 ông Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, có bài tham luận cho rằng (1):
1.  Xã hội Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng dựa trên thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về Chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.  Xã hội đó có 8 đặc trưng thể hiện tính ưu việt của nó. Tám đặc trưng đó là:
3.  Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4.  Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ.
5.  Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
6.  Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
7.  Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
8.  Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
9.  Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
10.   Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. 
Từ sau năm 1975, khi toàn thể đất nước thu về một mối và toàn dân tộc Việt Nam nằm dưới sự lãnh đạo của đảng duy nhất của nước Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam (thực ra trước khi khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ, Việt Nam cũng có 2 đảng làm kiểng là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội, tuy nhiên quyền lãnh đạo cũng hoàn toàn trong tay Đảng Cộng sản), cho đến nay đã hơn 39 năm, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại xem Việt Nam đã đạt được những thành quả nào trong tám đặc trưng nói trên. Trong bài này chúng ta sẽ xét đặc trưng thứ nhất, và chỉ đánh giá thành quả chứ chưa thảo luận nguyên nhân của các thành quả đó.
Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Dân giàu:
Năm 2012, tính trong các nước ASEAN, GDP/đầu người của Việt Nam nằm ở vị trí thứ 7 theo thứ tự như sau (2):
Brunei, Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonexia, Philippines, Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia.
Trong đó, GDP/đầu người của Việt Nam xấp xỉ bằng 1/7 của Mã Lai, bằng 1/4 của Thái Lan, bằng 1/2,5 Indonesia, bằng 1/15 của Hàn Quốc, và 1/30 của Nhật.
Vậy, Việt Nam có giàu không?
Nước mạnh:
Bàn về nước Mạnh hay Yếu, ta cần xét trên hai mặt:
1.  Thứ nhất, mạnh là bảo vệ được chủ quyền, được tính tự chủ của quốc gia đối với kẻ đang muốn xâm chiếm đất nước. Luxembourg không có nguy cơ bị xâm lấn nên Luxembourg không cần mạnh. Với Luxembourg, chỉ cần giàu là mạnh. Với Việt Nam thì khác, mạnh có nghĩa là Trung Hoa không dám lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam dù đó là đất liền hay hải đảo.
2.  Thứ hai, mạnh ở đây nên hiểu theo nghĩa tổng hợp, nghĩa là mạnh trên nhiều mặt: quân sự, ngoại giao, kinh tế, chính trị, nội trị… Sức mạnh tổng hợp của các mặt đủ khiến kẻ có dã tâm không dám lấn chiếm hay can thiệp vào chủ quyền của ta.
Ngoại giao: Việt Nam giao thiệp rộng, nhưng yếu vì không có bạn sống chết, nghĩa là không có đồng minh chí cốt, không là Đối tác chiến lược, không có Hiệp ước Phòng thủ chung với một đại cường quốc nào. Khi Trung Hoa tiến công lãnh thổ đất liền Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Khi Trung Hoa tiến chiếm biển đảo Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Chỉ khi Trung Hoa lộ rõ ý đồ độc chiếm biển Đông thì thế giới mới phản đối, nhưng để bảo vệ tự do hàng hải, chứ không phải vì Việt Nam là đồng minh chí cốt của họ. Về mặt này, so sánh Việt Nam với Nhật hay với Philippines, Hàn Quốc, ta thấy rõ rằng Việt Nam rất yếu ớt vì cô đơn ngoại giao.
Kinh tế: Việt Nam nằm ở vị trí thấp về thứ bậc kinh tế tính theo tổng hợp (composite) hay tính theo từng tiêu chí khác nhau. Hệ số ICOR là một trong các ví dụ rõ nét. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng và độ lớn của nợ công là những thí dụ khác. Nền kinh tế của VN càng yếu ớt hơn vì tính mất cân bằng và, do đó, tính lệ thuộc của nó. Sự lệ thuộc này, tai hại thay, lại là lệ thuộc Trung Hoa, nước ngàn năm nay luôn muốn chiếm nước ta, và hiện đang bộc lộ rõ ý đồ không chế Việt Nam!
Chính trị: Sự đoàn kết toàn dân làm nên sức mạnh của quốc gia, nhất là một quốc gia bên cạnh Trung Quốc to lớn và luôn mang ý đồ bành trướng. Chính thể độc tài và toàn trị đã phá hỏng nền tảng sức mạnh này của Việt Nam vì nó liên tục khiến lòng dân bất an và bất mãn. Do đó, nội trị tất phải dựa trên công an trị. Dưới bề mặt có vẻ như ổn định, xung đột sâu sắc giữa giới cầm quyền và dân chúng luôn trong trạng thái âm ỉ và có nguy cơ bùng phát. Sinh lực của dân tộc thay vì dành cho phát triển và bảo vệ tự chủ của quốc gia, lại bị dốc vào đàn áp và trấn áp. Sự hao tổn sinh lực này có thể so sánh với một cuộc nội chiến giới hạn cho dù chưa xảy ra chiến tranh giữa các thành phần dân tộc.
Một đất nước có nền ngoại giao cô đơn, kinh tế lệ thuộc, chính trị không phù hợp, nội trị bất an và tiềm ẩn nội loạn, thì vũ khí hiện đại nào có thể giúp chống ngoại xâm và giữ chủ quyền? Huống chi, sức mạnh kho vũ khí ta đang có cũng rất giới hạn so với kho vũ khí của nước đang uy hiếp chúng ta! Vậy thì, đối diện với Trung Hoa, nước duy nhất trên thế giới có ý đồ và khả năng xâm lược Việt Nam, Việt Nam chẳng những không mạnh mà còn rất YẾU so với họ.
Dân chủ: Một nước mà người dân không có quyền tự do ứng cử, bầu cử, không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không có quyền tự do lập hội, lập đảng, một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, không có Tam quyền phân Lập, nước đó có làm gì có Dân Chủ!
Bình đẳng: Một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, và danh sách ứng cử viên vào Quốc hội phải được đưa ra bởi đảng độc tài đó, người dân trong nước có bình đẳng trong việc tiếp cận quyền lực không? Một nước mà, trong thực tế, người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể bị đưa ra tòa án (ngoại trừ khi đảng viên đó đã bị khai trừ khỏi đảng), thì dân chúng có bình đẳng trước pháp luật không?
Công bằng: Chính thể độc tài và toàn trị khiến quốc gia suy thoái mọi mặt, tầng lớp cầm quyền tham nhũng “không thứ gì không ăn” tạo thành một “bầy sâu tham nhũng lúc nhúc”, họ nắm hàng tỉ đô la trong một đất nước mà mức thu nhập trung bình trên đầu người khoảng hai ngàn đô la/năm. Đất nước có công bằng không? Một nước mà các cơ quan chính quyền cấp bộ nắm các tổng công ty hay công ty rất lớn, hoạt động kinh doanh trong nhiều lãnh vực kinh tế không liên quan hay liên quan rất ít với các lãnh vực then chốt về an ninh, quốc phòng… dân chúng trong nước có được tiếp cận nguồn lực phát triển của Tổ quốc một cách công bằng không?
Một nước không giàu mạnh, không dân chủ, không bình đẳng, không công bằng, nước đó không thể gọi là văn minh!?
Tóm lại:
Nước Việt Nam không đạt một tiêu chí nào trong 5 tiêu chí của đặc trưng thứ nhất là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
T.Q.C.
(còn tiếp)

Một người Mẹ xin giải oan và hoãn thi hành án tử hình cho con


CTV Danlambao - Bà Nguyễn Thị Loan đã gửi đơn kêu cứu khẩn cấp để yêu cầu toà án hoãn thi hành án tử hình của con bà là anh Hồ Duy Hải. Đây là một vụ án kéo dài trong hơn 6 năm và anh Hải đang sắp sửa bị đưa ra xử tử hình. 

Theo bà Loan, anh Hồ Duy Hải đã bị kết án tử hình vì tội giết người mặc dù anh bị bắt sau hơn 2 tháng xảy ra án mạng, không có nhân chứng, 10 dấu vân tay của anh không phải là dấu tay của hung thủ tại hiện trường, và cơ quan điều tra đã đánh tráo những tang chứng giết người để làm tang vật kết tội anh. Theo nguồn tin không kiểm chứng được là anh Hải đã "bị chết thay cho một quan chức hay đại gia".

Đơn kêu cứu khẩn cấp & 
Đề nghị được giám đốc thẩm
(V/v: Xin hoãn thi hành án tử hình 
và giám đốc thẩm giải oan cho con tôi)

Kính gửi: 

Ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang
Ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao
Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao

Tên tôi: Nguyễn Thị Loan sinh 1963
Ngụ tại: ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.

Nay có đơn này khẩn cấp kêu cứu và đề nghị các cơ quan chức năng hoãn việc thi hành án, giám đốc thẩm giải oan cho con tôi là Hồ Duy Hải - người đã bị kết án tử hình và sắp bị thi hành án về tội giết người. Vì con tôi thực sự bị oan và đã kêu oan trong suốt thời gian qua.

Vì lẽ:

- Trong vụ án này Hải không bị bắt quả tang mà chỉ bị bắt sau hơn 2 tháng mà không có nguyên nhân liên quan, vụ án không có nhân chứng nào nhìn thấy và đặc biệt là theo kết quả giám định pháp y: Cả 10 dấu vân tay của Hồ Duy Hải không phải là dấu vân tay của hung thủ được lưu giữ tại hiện trường, nhưng vẫn kết luận Hải là kẻ giết người duy nhất.

- Mặc dù bản án kết luận Hồ Duy Hải dùng dao, thớt đâm, đánh nạn nhân đến chết và để lại hung khí ngay tại hiện trường nhưng quá trình khám nghiệm kiểm tra hiện trường đã không hề thu giữ được hay phát hiện bất kỳ tang vật nào như vậy. (Sau đó cơ quan điều tra tự ý mua dao, thớt ở chợ bỏ vào làm tang vật và kết tội con tôi).

- Bỏ qua hàng loạt tình tiết ngoại phạm và có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án rất rõ ràng.

- Hồ Duy Hải kêu oan tại phiên tòa sơ thẩm nhưng bị ép phải làm đơn xin giảm án. Tại phiên tòa phúc thẩm tiếp tục kêu oan.

Suốt 6 năm qua, gia đình chúng tôi đã gửi đơn kêu oan và đề nghị giám đốc thẩm để giải oan cho con tôi, nhưng chỉ đều nhận được trả lời là “đã đúng người đúng tội” - nhưng chưa bao giờ được trả lời làm rõ những mâu thuẫn nêu trên(Xin xem trình bày chi tiết trong Đơn đề nghị giám đốc thẩm và các chứng cứ đính kèm).

Ngày 25/11/2014 vừa qua, cán bộ Tòa án tỉnh Long An đến nhà tôi thông báo sắp thi hành án và nhắc gia đình cần kêu oan khẩn cấp cho Hồ Duy Hải trước khi quá trễ.

Một lần nữa, chúng tôi khẩn thiết cắn cổ cầu xin quý cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, xin cho chút lương tâm và trách nhiệm, xem xét kỹ lại vụ án trước khi quá muộn. Nếu con tôi thật sự có tội thì sao lại phải kêu oan? (được báo Tuổi trẻ, Pháp luật... phản ảnh). Vì sao kết tội con tôi giết người mà dấu vân tay của người khác?

Xin cho chúng tôi chút niềm tin vào công lý. Xin chân thành cảm ơn

Đính kèm: 

Đơn đề nghị giám đốc thẩm.

Người làm đơn

Nguyễn Thị Loan

Án oan Hồ Duy Hải 01


Án oan Hồ Duy Hải 02



image





Preview by Yahoo



Clip thực hiện bởi blogger Trần Thuý Nga








Số điện thọai của người kêu cứu
Nguyễn Thị Loan 01279332777
Nguyễn Thị Rưỡi 0908514367




Câu chuyện Việt Nam qua thành ngữ (Phần 1): Thế kỷ 20

Câu chuyện Việt Nam qua thành ngữ (Phần 1): Thế kỷ 20
www.ducme.tv Câu chuyện truyền thông-Quyền Tôn Giáo tại Thủ Thiêm-21 09 2014




Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) Trong thế kỷ 20, Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng theo tình hình thế giới. Từ cuộc tranh đấu chống Pháp cho tới chiến tranh Việt Nam, dân Việt Nam phải chịu đựng biết bao nhiêu nỗi đau thương. Hồ Chí Minh và các đồng chí đem chủ nghĩa ngoại bang thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, tạo ra cảnh chiến tranh khốc liệt giữa hai miền Nam Bắc. Sau khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, người dân Việt lại còn bị hành hạ cướp bóc dưới sự đô hộ dã man tàn bạo của cộng sản.


*

Chơi chữ không những là một hình thức giải trí mà còn giúp xả căng thẳng, nhất là khi có những chuyện bực bội, cay đắng, giận dữ về những đối tượng mà người ta không muốn đối phó mặt đối mặt. Một trong những đối tượng thông thường đó là chính phủ. Hầu như khắp nơi trên thế giới tự do dân chủ, chế nhạo vả nhiều khi mạ lỵ chính phủ công khai xảy ra rất thông thường. Tại các xứ độc tài, cộng sản, chuyện đó hầu như không có. Tuy nhiên, điều đó không cản được dân chế giểu chính phủ qua những phương tiện không chính thức. Các hình thức chơi chữ gồm có nói lái, tiếng lóng, viết ra chữ viết tắt, và tô điểm thêm với thành ngữ và tục ngữ. Đặc biệt, thành ngữ, tục ngữ, và ca dao thường được dùng để chỉ trích hoặc nhạo báng chính phủ, vì tính chất hài hước và tượng hình của những thể loại này.

Trong phần sau đây, câu chuyện về Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 được kể qua thành ngữ và thỉnh thoảng tục ngữ, ca dao, tiếng lóng và quán ngữ Việt Nam. Sự châm biếm được thấy rõ với số lượng rất nhiều những từ ngữ này, hơn một ngàn, chính xác tổng cộng là 1071, trong số đó hơn 95% là thành ngữ, đa số dưới dạng bốn chữ. Có những nhóm chữ có thể không phải là thành ngữ, mà chỉ là tiếng lóng hoặc quán ngữ, nhưng vì ý nghĩa có chút khôi hài hoặc châm biếm nên tôi cũng dùng trong câu chuyện này. Những thành ngữ này là những thành ngữ đã có sẵn từ lâu trong tiếng Việt. Có nhiều thành ngữ hoặc tiếng lóng mới do người dân sáng chế để chế nhạo chế độ và chính quyền cộng sản trong suốt 70 năm ở miền Bắc và 40 năm ở miền Nam. Lẽ dĩ nhiên, những thành ngữ hoặc tiếng lóng này không được lưu hành chính thức hiện nay. Trong bài này, tôi không dùng những thành ngữ hoặc tiếng lóng này mà chỉ dùng từ ngữ được lưu hành chính thức. Lý do đơn giản là ta không thể kể các câu chuyện về cộng sản mà dùng những thành ngữ sáng tạo do từ các câu chuyện đó. Thí dụ, ta không thể dùng thành ngữ mới "bịt râu đeo kính" (xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2014d) khi kể chuyện Hồ Chí Minh bịt râu vả Trường Chinh đeo kính đi xem buổi đấu tố/ hành quyết bà Nguyễn Thị Năm.

Câu chuyện Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 được chia ra thành ba phần. Phần 1 nói về thế kỷ 20. Phần 2 nói về thế kỷ 21 (cho tới hiện đại). Phần 3 nói về cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ hiện nay. Phần 4 là phụ lục gồm có danh sách toàn bộ thành ngữ, tục ngữ, tiếng lóng dùng trong câu chuyện, và một phần tài liệu tham khảo. Tuy câu chuyện có hình thức châm biếm và đôi khi phóng đại qua các thành ngữ, nội dung về lịch sử được kể với sự chính xác khách quan trung thực dựa vào nhiều tài liệu tham cứu. Phần phụ lục liệt kê một phần những nguồn gốc tham khảo có thêm ghi chú liên hê ̣đến câu chuyện. Tuy nhiên, sự trình bày của tôi hẳn nhiên có nhiều sơ sót. Mục đích chính của tôi là đem lại chút thú vị cho độc giả khi đọc những chi tiết lịch sử khô khan.

Phần 1: Thế kỷ 20

Đất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi ở dưới chế độ quân chủ chuyên chế với sự kiểm soát và cai trị của thực dân Pháp. Lũ thực dân Pháp bóc lột Việt Nam dưới danh nghĩa ba miền Việt Nam là đất bảo hộ (Bắc Kỳ và Trung Kỳ) và thuộc địa (Nam Kỳ) trong khối Đông Dương. Họ xây cầu, làm đường xe lửa, và đường xá thành phố. Họ lập trường để huấn luyện thợ thuyền và nhân viên làm việc cho họ. Nhưng lũ Pháp rõ ràng là có âm mưu đen tối vì mọi phí tổn cho những dịch vụ và dự án xây cất này lấy từ sưu cao thuế nặng đặt lên dân Việt. Lũ Pháp coi dân Việt bằng nửa con mắt. Tuy chúng có mướn thợ thuyền địa phương, chúng trả lương rẻ mạt. Chúng tuyên bố là mang phúc lợi cho dân Việt nhưng những lợi này chẳng thấm tháp gì so với những lợi lộc chúng lấy từ Việt Nam. 

Triều đình quan lại bất lực chỉ là bù nhìn, không biết làm sao, nên bưng tai giả điếc nhiều khi lại còn hợp tác với Pháp vì lũ Pháp nắm hết quyền hành. Căm phẫn bởi sự thống trị hà khắc của thực dân Pháp và sự bất lực triều đình, biết bao nhiêu cuộc khởi nghĩa nổi lên, từ Nam ra Bắc, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nhưng nói dễ làm khó, những cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh vì thiếu quân số và vũ khí, chỉ có ảnh hưởng địa phương. Đã thế, chín người mười ý, các cuộc kháng chiến thiếu đoàn kết để tạo thành lực lượng toàn quốc. Thế rồi, mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, mặc dù các cuộc khởi nghĩa gây khó khăn cho Pháp, sau cùng cũng bị Pháp dẹp dần. Vào đầu thế kỷ 20, khi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp bớt dần, Pháp bắt đầu đặt nền móng cai trị quy củ lên Đông Dương. Nhờ sự phát triển chữ Quốc ngữ và báo chí, một giới trí thức mới bắt đầu hình thành. Ngoài ra, vì nhu cầu nhân sự địa phương, Pháp giúp đỡ dân Việt trong các vấn đề học hành, báo chí và hội họp. Nhờ vậy nhiều người Việt Nam mở mang kiến thức, hấp thụ ý tưởng và văn hóa Tây Phương, và còn được qua Pháp ăn học.

Nguyễn Tất Thành là người du thủ du thực, bỏ học và bỏ nhà ra đi vào năm 1911. Hắn sống cuộc đời ba chìm bảy nổi lênh đênh trên biển trôi sông lạc chợ vòng quanh thế giới làm phụ bếp dưới tàu và lang thang trên đất liền ăn bờ ở bụi làm các việc lặt vặt như mèo mù móc cống khi tàu cặp bến, tứ cố vô thânnay đây mai đó trong 8 năm trời. Hắn đến Paris năm 1919 bơ vơ như chó lạc đàn, lơ láo như bù nhìn nên ăn nhờ ở đậu nhà ông Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh. Thành giao du với các nhà trí thức này và trở thành một phần tử của nhóm họ gọi là nhóm Ngũ Long. Những người kia của nhóm là các ông Trinh, Trường, Nguyễn Thế Truyền, và Nguyễn An Ninh, là những người yêu nước hoạt động chống thực dân Pháp. Vìdốt đặc cán mai, kém cỏi tiếng Pháp, và chân ướt chân ráo mới đến Paris cà lơ thất thểu, Thành là kẻ thừa thãi trong nhóm. Hắn chỉ được giao phó nhiệm vụ đưa bản văn "Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" tới hội nghị Versailles và sau đó bài vở của các ông Trường, Truyền, và Ninh dưới bút danh nhóm là Nguyễn Ái Quốc tới các toà báo. Vì mật thám Pháp chưa có hồ sơ nhiều gì về hắn lúc ấy, hắn được các ông Trường, Truyền, và Ninh phái đi mượn sách vở tài liệu ở thư viện để họ biên soạn sách "Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp." Thành lợi dụng thời cơ và gây lẫn lộn cho mọi người tự xưng là Nguyễn Ái Quốc để lấy uy tín. 

Vì chẳng có nghề ngỗng gì và ăn báo cô ông Trường và ông Trinh mãi cũng kỳ, Thành cố xoay xở kiếm ăn. Hắn nghĩ là có thể tìm công kiếm việc bằng cách viết báo chống chính quyền Pháp như các ông Trường và Truyền. Thế là hắn nghiên cứu chính trị và cách mạng. Hắn mượn sách thư viện viết bởi Karl Marx, ráng học hỏi về lý thuyết Marx. Nhưng vì tư chất dốt nát, hắn đọc mãi mà không hiểu nên dùng quyển sách đó để gối đầu giường. Sau đó, có người cho hắn coi bài luận đề viết bởi Lenin về thể chế thuộc địa và thực dân. Mắt Thành sáng rực lên khi hắn đọc chữ "thuộc địa" trong bài đó. Sau khi đọc xong, Thành nhảy cà tưng cà tưng vì sung sướng. Như Archimedes la hét "Eureka!" hắn tưởng đã tìm ra chân lý. Vì không rành lịch sử nước Việt, hắn không biết là cái chân lý đánh đuổi ngoại xâm đã được biết xưa như trái đất và thực hiện cả mấy ngàn năm trước từ thời Hai Bà Trưng mà chẳng cần phải có một nhãn hiệu ý thức hệ nào.

Với tên Nguyễn Ái Quốc và mớ kiến thức mới thâu lượm, hắn bắt đầu ăn nói vung vít như là một nhà cách mạng thứ thiệt. Chẳng bao lâu, nỗ lực của hắn được đền bù. Hắn được kết nạp làm tác nhân Quốc tế cộng sản. Sau này hắn dựa vào tên Nguyễn Ái Quốc, tự nhận là tác giả "Thỉnh nguyện" và "Bản án" để tô rồng vẽ rắnquá trình hoạt động cách mạng của mình. Trên thực tế, từ lúc qua Liên Xô làm việc cho Đệ Tam Quốc Tế và đi qua Trung Hoa, hắn chỉ tha phương cầu thực làm tác nhân cho cộng sản¸ lang thang trên đất khách quê người. Trong những năm đó, hắn không hề có hoạt động nào cho thấy hắn thực sự tranh đấu cho nền tự chủ Việt Nam. Với hắn, của trọng hơn người. Khi hắn đói ăn vụng túng làm cànbần cùng sinh đạo tặc bán đứng cụ Phan Bội Châu, người yêu nước chân chính, cho Pháp, hắn đã chứng tỏ phẩm cách của hắn ăn ở hai lòng phản bội tổ quốc. Là người gian xảo, hắn bưng bít mọi chuyện về cuộc đời mình để che mắt thế gianNgày sinh tháng đẻ, ngay cả chuyện vợ con, hắn giấu như mèo giấu cứt. Hắn lấy bà Tăng Tuyết Minh bên Tàu, rồi quất ngựa truy phongtham vàng bỏ ngãi bỏ vợ cao bay xa chạy khi quân Trung hoa quốc gia của Tưởng Giới Thạch lùng bắt cộng sản. Hắn trở lại Nga, qua Pháp, rồi sang Thái Lan, tiếp tục làm việc cho Quốc tế cộng sản. 

Vào đầu năm 1930, Quốc và một vài người khác túm năm tụm ba, nhớn nha nhớn nhác trong một cuộc họp bí mật tổ chức tại một trận đá banh tại Hồng Kông, vừa coi đá banh vừa bàn bạc. Vì đảng cộng sản là một hội kín nên ai cũng lấm la lấm lét. Nói chuyện với nhau mà cặp mắt láo liên, nhìn trước trông sau, sợ tai vách mạch rừng. Sau cuộc họp thì Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) ra đời. Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản bắ̀t phải thay lông đổi cánh thành Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) vào cuối năm 1930. Hắn đóng vai trò liên lạc giữa ĐCSĐD và Quốc tế cộng sản. Trong khoảng thời gian này, dân Việt ngày càng tức giận sự bóc lột của Pháp nên khởi động một loạt các cuộc nổi dậy bùng nổ bắt đầu từ Nghệ Tĩnh, theo sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái tổ chức bởi Việt Nam Quốc Dân Đảng. Háo hức muốn kiếm điểm với cấp trên, Quốc láu ta láu táu báo cáo Quốc tế Cộng sản về cuộc nổi dậy. Hắn còn nhanh nhẩu đoảng nói bừa là nông dân tổ chức chính quyền làng địa phương ở Nghệ Tĩnh dựa vào kiểu Xô viết. ĐCSVN sau này chụp vào cái báo cáo có hàng chữ Xô viết đó mà tuyên bố cuộc nổi dậy ở Nghệ Tĩnh được các thành viên họ lãnh đạo. Thực ra, không có lãnh đạo cộng sản nào dính líu đến cuộc nổi dậy và cũng không có các chính phủ địa phương kiểu Xô viết mà chỉ là thuần túy dân làng tự trị theo chính sách phép vua thua lệ làng. Vụ Xô viết Nghệ Tĩnh là khởi đầu cho một loạt các vụ lừa đảo mà ĐCSVN tạo ra từ lúc thành lập cho tới bây giờ. 

Năm 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ. Tháng 9 năm 1940, Pháp ký thỏa hiệp với Nhật đồng ý cho Nhật mang quân đóng tại Bắc Việt. Tháng 7 năm 1941, Nhậtđược thể làm tới, đem quân vào miền Nam Việt Nam, chuẩn bị cho mặt trận Thái Bình Dương. Trong lúc này, Quốc được gửi sang Tàu để giúp tạo dựng chi nhánh cộng sản tại đó. Năm 1941, hắn trở về Việt Nam lần đầu sau 30 năm xa nước. Hắn bắt đầu thay hình đổi dạng và kéo bè kéo cánh. Tại Pác Bó, trong lúc ăn hang ở hốc, cùng với các đồng chí bàn ra tán vô, hắn đóng góp trong việc thành lập Việt minh dưới sự bảo trợ của ĐCSĐD. Việt minh hô hào dân Việt tham gia, lừa đảo dân bằng chiêu bài yêu nước thương nòi, giấu giếm tông tích cộng sản. Vì vậy, Việt minh kết nạp được một số người quốc gia lúc ban đầu. Bấy giờ Thế chiến thứ hai đang tới thời kỳ khốc liệt. Tháng 12 năm 1941, Nhật dám vuốt râu hùm công kích Hoa Kỳ tại Trân châu cảng khiến Hoa Kỳ nổi trận lôi đình, gia nhập Thế chiến thứ hai, liên kết với các đồng minh để đánh phe Trục gồm có Đức, Ý, và Nhật.

Năm 1942, Quốc thay tên đổi họ thành Hồ Chí Minh, mang giấy tờ giả mạo đi qua Tàu để kết bè kết đảng với đảng cộng sản Tàu bấy giờ. Nhưng đi đêm có ngày gặp ma, hắn bị quân quốc gia Trung hoa bắt tại Liễu châu. Trong lúc ở trong trại giam, hắn vớ được một tập thơ viết bởi một người Tàu, với nhan đề "Nhật ký trong tù." Khi bị điều tra thẩm vấn về chuyến đi thì hắn trơ như mặt thớt, chối loanh quanh không nhận là theo cộng sản. Đã thế hắn lại còn ba hoa chích chòe với tướng Trương Phát Khuê của Trung hoa quốc dân đảng để được tham gia việc tổ chức lại Đồng Minh Hội chống Nhật. Tới năm 1943, tướng Trương Phát Khuê đâu ngờnuôi ong tay áo, lại còn mở đường cho kẻ trộm, thả Hồ về Việt Nam, cho hắn tháo cũi sổ lồng

Khi trở về Việt Nam, Hồ và các đồng chí uống máu ăn thề tăng cường hoạt động. Đảng Việt minh mọc lông mọc cánh, dụ dỗ giới trí thức và dân ngu khu đen dưới danh nghĩa chống thực dân Pháp. Trong khoảng thời gian này, hắn móc nối được với Văn phòng dịch vụ chiến thuật (Office of Strategic Services - O.S.S.) của Hoa Kỳ và vì buôn có bạn, bán có phường, hắn hợp tác với Hoa Kỳ trong việc báo cáođường đi nước bước và hoạt động Nhật đang đóng quân tại Bắc Việt. Đổi lại, O.S.S. gửi nhân viên huấn luyện lính Việt minh dùng dụng cụ truyền thông và vũ khí. Hồ tận dụng triệt để mối liên hệ với Hoa Kỳ để quảng cáo Việt Minh. Khi gặp tướng Mỹ Chennault, hắn xin ảnh và chữ ký của tướng Chennault. Sau đó mỗi khi hắn đi đâu, hắn ve vẩy tấm ảnh có chữ ký đó để đi hù thiên hạ, dùng Hoa Kỳ để treo đầu dê bán thịt chó.

Năm 1945, Đồng minh đánh tan phe Trục tại Âu châu. Thế chiến thứ hai sắp tới màn kết thúc, nhưng Nhật vẫn còn hung hăng con bọ xít, đảo chánh Pháp vào tháng 3. Dân Việt Nam nhìn quân Nhật hạ bệ Pháp mà ngao ngán cõi lòng cho sự nhược tiểu của mình: trong nhiều thập kỷ, 23 triệu dân bị dưới sự kiểm soát của đám mật thám và vỏn vẹn 65.000 lính, trong số đó mười hai ngàn quân là Âu châu. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập vào tháng 4 năm 1945. Nhờ các hoạt động tích cực qua các đàm phán thương lượng với chính phủ Trần Trọng Kim, Nhật đồng ý giao trả độc lập và thống nhất đất nước cho Việt Nam. Tuy nhiên, do hỗn loạn chính trị từ Thế chiến thứ hai và các mâu thuẫn nội bộ, chính phủ Trần Trọng Kim giải tán vào đầu tháng 8 năm 1945. Vào giữa tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng minh và Thế chiến thứ hai chấm dứt. Tình hình chính trị Việt Nam trở thành tranh tối tranh sáng, không phân biệt được chính tà. Hồ và các đồng chí chụp cơ hội khoảng trống quyền lực này để cướp chính quyền. Thế là một kẻ vô danh tiểu tốt, chỉ sống cuộc đời bèo dạt mây trôi, cầu bơ cầu bất, dốt nát võ vẽ dăm ba chữ nghĩa cộng sản, thuộc hạng người ăn sung trả ngái, đầu óc ác quán mãn doanh, bịp bợm lừa đảo, lòng dạ đổi trắng thay đen, tay sai của Tàu cộng, trở thành thủ lãnh chính thức của một nhóm người tự xưng là yêu nước. Việt minhthừa nước đục thả câu nổi lên giành quyền thế khi Nhật án binh bất động. Họ đánh trống khua chiêng lợi dụng danh nghĩa Hoa Kỳ như cáo mượn oai hùm để ra vẻ cuộc nổi dậy của họ là danh chánh ngôn thuận với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và đồng minh. Tưởng thật, dân chúng ùn ùn đi theo. Thế là chó ngáp phải ruồi, Việt minh nắm giữ được chính quyền dễ như ăn cháo

Bấy giờ, Hồ quyết tâm theo đuổi tham vọng cầm quyền của mình. Dốt hay nói chữ, Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập với những câu dao to búa lớn mà chính hắn ù ù cạc cạc không hiểu ý nghĩa, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, mượn từ bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ và cách mạng Pháp. Hắn lại còn thêm mắm thêm muối, hứa hẹn dân Việt Nam “chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” trong bản tuyên ngôn độc lập. Nhưng hắn chỉ cho ăn bánh vẽ và đã có ý định bán đứng Việt Nam cho Pháp khi Pháp bị Nhật kiểm soát. 

Tháng 11 năm 1945, trong một kế hoạch nham hiểm lừa đảo thiên hạ, Hồ tuyên bố giải tán ĐCSĐD, giấu giếm mối liên hệ với cộng sản để lấy cảm tình những người quốc gia. Thực ra, đảng cộng sản vẫn còn hoạt động, dưới tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Người dân Việt Nam lúc bấy giờ tưởng là sẽ thoát được ách đô hộ tàn nhẫn của thực dân Pháp. Nhưng họ đâu ngờ là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Chẳng bao lâu, Hồ lộ ra bản chất phản trắc và nói một đàng làm một nẻo khi hắn ký thoả hiệp cho Pháp trở lại Việt Nam vào năm 1946, với mục đích chính thức hóa trên danh nghĩa chính quyền cộng sản bất hợp pháp của hắn và mượn Pháp để tiêu diệt các thành phần quốc gia đối nghịch. Các cán bộ Việt minh thì cũng cá mè một lứa. Đảng Việt minh của hắn lúc mới thành lập tuy có một thiểu số người trí thức quốc gia bị lừa gạt mà tham gia nhưng đa số là những người dốt có đuôi. Họ thuộc lòng những bài học chính trị rồi miệng nói như vẹt cố thuyết phục dân chúng. Họ nói hươu nói vượn và nói dối như cuội để lường gạt dân. Họ lại còn là những ngườiđầu trộm đuôi cướpgiết người như ngoé và đã thảm sát hằng hà sa số những người quốc gia chân chính. 

Thế rồi chiến tranh giữa Việt minh và Pháp bùng nổ. Hồ và những người ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu chạy trốn Pháp tại những nơi hang cùng ngõ hẻmthâm sơn cùng cốc trong vùng núi miền Bắc. Trong giai đoạn đầu đánh nhau với Pháp, Hồ viết thư năn nỉ ỉ ôi với Tổng thống Hoa Kỳ Truman xin xỏ viện trợ, lại còn giở giọng bán nước khi ngỏ ý dâng hiến vịnh Cam ranh cho Mỹ khai thác. Hồ hy vọng Hoa Kỳ nhớ lại tình xưa nghĩa cũ lúc hợp tác chống Nhật, nhưng Hoa Kỳ biết tỏng tòng tong hắn là cộng sản nên cứ phớt tỉnh Ăng lê, mặc cho những lời xin xỏ dai như đỉa đói, chẳng thèm đoái hoài gì đến Hồ. Bẽ mặt vì bị Mỹ coi thường, hắn tức tối đầy vơi, chửi Mỹ là đế quốc. May sao cho Hồ, Mao Trạch Đông thắng quân quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch và thành lập Cộng hòa nhân dân Trung hoa vào năm 1949. Năm 1950, Hồ hối hả trèo đèo lội suối, xuống ghềnh lên thác, qua Tàu rồi sang Nga, vào luồn ra cúi với Mao Trạch Đông và mềm lưng uốn gối với Stalin để xin viện trợ. Hắn lại giở trò xin chữ ký của Stalin trên một tạp chí, nhưng lần này âm mưu bị bại lộ. Stalin ký nhưng sai thủ hạ lấy lại tờ báo làm Hồ tẽn tò, bị quê một cục

Về nước, hắn và các đồng chí hô hào dân chúng, kêu gọi lòng yêu nước, và dụ dỗ nông dân theo Việt minh đánh Pháp. Năm 1951, sau khi hội ý với hai thầy Stalin và Mao, Hồ quyết định đổi tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác thành Đảng Lao Động Việt Nam (ĐLĐVN). Hắn dùng miệng lưỡi Tô Tần thuyết phục các đồng chí nghe theo lời Stalin và Mao vì hai vị thầy không bao giờ sai và không thầy đố mày làm nên. Thế là Hồ và các đồng chí tung hô vạn tuế hai vị thầy đáng kính Stalin và Mao của họ, và Đảng Lao Động Việt Nam ra đời. Là người thích chơi chữ, Hồ dùng tên Lao Động vì chữ viết tắt của nó, L.Đ., cũng có nghĩa là Lừa Đảo. 

Cuộc cải cách ruộng đất khởi đầu vào năm 1953 cho thấy bản chất lừa đảo của Hồ khi hắn ném đá giấu tay viết báo, dưới bút hiệu C.B., lên án bà Nguyễn Thị Năm rồi sau này lại giả nhân giả nghĩa la mắng thuộc hạ khi bà bị xử tử, trong khi chính hắn là kẻ bịt râu hóa trang đi xem cuộc đấu tố bà Năm. Cuộc cải cách ruộng đất là một thảm họa kinh thiên động địa cho dân miền Bắc và nó cũng cho thấy bộ mặtcùng hung cực ác của ĐLĐVN. Họ giết hơn 170,000 người và tạo ra những cảnhnhà tan cửa nát cho vô số dân vô tội. Dưới sự chỉ đạo của Tàu cộng, chính phủ cộng sản Bắc Việt tàn nhẫn giết hại chính dân mình, lại còn xúi giục dân phạm chuyện đảo lộn luân thường đạo lý, khuyến khích con cái đấu tố cha mẹ, người giúp việc đấu tố chủ nhân. 

Tháng hai năm 1956, tại hội nghị Đảng cộng sản Liên Xô, Khrushchev đọc bài diễn văn long trời lở đất nguyền rủa Stalin, chửi tưới hạt sen sự sùng bái cá nhân, và thúc dục mọi đại biểu thực hành tự phê bình. Diễn văn của Khrushchev làm Hồchột dạmặt xanh như tàu lá, nên vội vàng tuyên bố là Đảng cộng sản Liên Xô quả là có can đảm mới có sự tự phê bình, và các đảng cộng sản khác phải noi theo gương sáng của bậc đàn anh. Hồ lập tức khởi đầu cuộc tự phê bình, thú nhận là cuộc cải cách ruộng đất có nhiều sai lầm. Để biểu lộ lòng ân hận của mình, hắn cố rỏ những giọt nước mắt cá sấu khóc lóc như mèo già khóc chuột khi đọc diễn văn nhận lỗi là đã giết oan biết bao nhiêu người. Nhưng vì tài đóng kịch kém cỏi, hắn cố khóc nhưng cặp mắt ráo hoảnh. Đến giờ phút này, nhiều người vẫn tưởng Hồ biết ăn năn sám hối mà nhận lỗi chứ đâu có biết là Hồ và đảng cộng sản làm vậy để theo ý Liên Xô.

Năm 1954, Việt minh, với sự giúp đỡ quân sự và cố vấn của Tàu cộng và lừa đảo nông dân phu với hứa hẹn hão cho ruộng đất, huy động nhân lực đông như kiến cỏ, vây quanh Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày, Điện Biên Phủ thất thủ. Một lần nữa, ĐLĐVN vỗ ngực huênh hoang giành công cho cuộc chiến thắng trong khi đó là cuộc chiến của những người Việt Nam đánh Pháp vì tinh thần dân tộc bỏ qua những hiềm khích hoặc vì bị lừa đảo bởi các hứa hẹn hão chứ không hề vì chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1954, hiệp định Geneva phân chia nước Việt Nam thành hai miền: miền Bắc theo chế độ cộng sản và miền Nam theo chế độ cộng hòa. Nạn nọ chưa qua nạn kia đã tới, dân Việt Nam lại chịu thêm cảnh chiến tranh Nam Bắc. Dân miền Bắc đói khát liên miên, rách như tổ đỉa. Dân miền Nam chỉ muốn sống yên ổn thanh bình. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, Hồ và các đồng chí muốn thôn tính miền Nam. Họ tạo dựng Mặt trận giải phóng miền Nam và xua quân vào miền Nam. Họ dùng chiêu bài giải phóng miền Nam để dương Đông kích Tây, đánh lạc hướng dân miền Bắc để người dân không để ý đến các vấn đề nội bộ về kinh tế và xã hội. Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến, một công hai việc, vừa chống cộng sản lan tràn vừa dùng miền Nam Việt Nam là nơi thí nghiệm chiến tranh lạnh và làm giàu các tay buôn vũ khí quân sự. Bắc Việt khôn ngoan áp dụng chiến thuật một nồi hai vung, bợ đít cả hai quan thầy Liên Xô và Tàu cộng, nhận viện trợ về kinh tế lẫn quân sự, cho lính Tàu cộng qua Việt Nam, rước voi giày mả tổ. Dân Việt Nam bị rơi vào tình trạng chiến tranh huynh đệ tương tàn, ủy nhiệm bởi ba siêu cường quân sự. Đầu dây mối nhợ là chính quyền Bắc Việt chủ trương xâm lăng miền Nam.

Hồ bổn cũ sào lại tước đoạt quyền tác giả của quyển Nhật ký Trong Tù. Hắn lại còn trơ trẽn viết hai bản tự truyện mèo khen mèo dài đuôi ca ngợi chính mình. Sự đạo văn tột độ của hắn với Thỉnh nguyện, Bản án, và Nhật ký cho thấy rõ phẩm cách đá cá lăn dưa của hắn. Hồ thích mập mờ đánh lận con đen khi bị hỏi thẳng. Hắn không bao giở khẳng định rõ rệt chuyện gì về bản thân mình. Ngay cả khi có người hỏi hắn có phải là Nguyễn Ái Quốc không thì hắn lại nói, "Chú tìm ông ấy mà hỏi, tôi đâu biết." Mặc dù lúc đó là năm 1946, khi mà an ninh không còn là vấn đề. Hồ không bao giờ khẳng định mình là tác giả của Nhật Ký Trong Tù, nhưng khi có người hỏi là tại sao ngày tháng ghi trên trang bìa cuốn Nhật Ký Trong Tù lại sai trệch đi đúng mười năm, thì hắn trả lời là hắn muốn đánh lạc hướng thiên hạ.

Đã thế, hắn lại còn lên mặt đạo đức giả miệng nam mô, bụng bồ dao găm, khuyên răn dân chúng và cán bộ theo đuổi cần, kiệm, liêm, chính. Lẽ ra mọi chuyện khẩu Phật tâm xà của hắn cũng được bưng bít, nhưng thiên bất dung gian, chính những tài liệu bôi râu đánh phấn hắn của hắn và đảng cộng sản Việt Nam sau này lại lạy ông tôi ở bụi nàychẳng ai khảo mà xưng. Đa số những vụ lừa đảo của Hồ bị khám phá vì không có dối trá nào mà không bị vạch ra mãi mãi. Như một con chồn vụng về, Hồ giấu đầu lòi đuôi.

Hồ là người ba phải, không hề có một chính kiến gì rõ rệt. Mọi chuyện quan trọng đều tùy cơ ứng biến hoặc tới đâu hay tới đó. Ai cho tiền thì chạy theo, chẳng biết ất giáp gì. Vì vậy, khi Liên Xô và Tàu cộng muốn bành trướng ảnh hưởng trên thế giới, hắn và các đồng chí chỉ biết ôm chân liếm gót hai quan thầy Liên Xô và Tàu cộng và biến Bắc Việt thành một chư hầu cộng sản. Chính phủ hắn đã ghi lòng tạc dạ Tàu cộng trong cuộc chiến tranh với Pháp và chiến tranh với Hoa Kỳ. Chính hắn và các đồng chí tỏ bày lòng trung thành với người bạn môi hở răng lạnh Tàu cộng của họ khi năm 1958 Phạm Văn Đồng viết công hàm cho Chu Ân Lai mại quốc cầu vinh đồng ý sự xác nhận chủ quyền của Tàu cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau này, Liên Xô và Tàu cộng như hàng tôm nguýt hàng cá xung đột nhau, tranh giành ảnh hưởng trên Bắc Việt. Nhờ cảnh ngao cò tranh đấu, ngư ông đắc lợi, cộng sản Bắc Việt nhận được viện trợ cả hai bên. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chính trị Bắc Việt ổn định. ĐLĐVN có sự chia rẽ trầm trọng giữa hai phe thân Nga và thân Tàu. Hai phe vào lườm ra nguýt, tranh giành quyền thế. Cuối cùng thì phe Lê Duẩn thắng thế, đưa Lê Duẩn lên đỉnh cao danh vọng, trong khi Hồ chỉ là người bù nhìn. Thực ra, Hồ và ĐLĐVN có sự thỏa thuận. Hồ bề ngoài vẫn giữ quyền trong khi ĐLĐVN tạo ra hình ảnh hắn thánh thiện bịp bợm dân để họ dựa vào đó mà tung hoành ngang dọc. Cảnh vụng chèo khéo chốngđược hỗ trợ bằng đủ loại lừa đảo bịp bợm, tăng cường bởi chính sách mị dân, bảo vệ bởi sự đàn áp tàn bạo của chế độ độc đảng.

Trong khoảng mười năm đầu tiên của nền cộng hòa, tình trạng trong miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cũng chẳng hay ho gì. Trong mấy năm cuối của thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, miền Nam nếm mùi dân chủ lần đầu nên mới lẫm chẫm biết đi. Ông Ngô Đình Diệm là người thanh liêm, quốc gia chân chính và chống cộng tích cực nhưng lại độc tài. Trong vài năm đầu cầm quyền, ông tỏ ra là một người tài cao đức trọng, thiết tha cho việc xây dựng một quốc gia Việt Nam hùng mạnh, nhưng ông cũng có một vài khuyết điểm rất giống Hồ Chí Minh, tuy không đến nỗi tệ mạt như Hồ. Về phương diện chính trị, ông Diệm thích sùng bái cá nhân. Đài phát thanh trong nước lúc nào cũng rỉ rả bài hát "Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống Ngô Tổng Thống muôn năm." Ông Diệm cũng dùng những mánh lới chính trị trong cuộc trưng cầu dân ý truất phế vua Bảo Đại, sử dụng những thủ thuật bầu cử khả nghi, và tạo dựng một quốc hội bù nhìn. Nhưng khác với Hồ Chí Minh, ông Diệm là người trí thức, học cao, liêm chính, ngoan đạo, ăn ngay nói thẳng, không bị Mỹ khuất phục và quả thật là người không vợ không con. Tiếc là những ưu điểm của ông bị lu mờ bởi tinh thần chống cộng quá khích và gia đình trị đã khiến những năm ông cầm quyền phạm nhiều lỗi lầm nghiêm trọng. Chính quyền ông Diệm thành công trong việc tiêu diệt gần hết quân cộng sản ở lại miền Nam sau năm 1954. Nhưng ông cũng tiêu diệt một số những người không thân cộng, và vì vậy khiến những người không thân cộng chẳng đặng đừng phải theo phe cộng sản. Ngoài ra, lợi dụng thể chế tự do dân chủ, nhiều cán bộ cộng sản len lỏi vào hàng ngũ chính quyền, tôn giáo, và trí thức, kích động tôn giáo và sinh viên học sinh. Thay vì đối phó mềm mỏng với các phe phái này, chính quyền ông Diệm dùng nhiều biện pháp cứng rắn. Ông Nhu, em ông Diệm, chuyên quyền đàn áp Phật giáo và các phe chống đối, tạo ra bất mãn. Ông Nhu là người thông minh, nhưng có nhiều thủ đoạn và mưu mẹo chính trị, nên nhiều khi già quá hóa non. Ông Nhu còn tổ chức buôn gian bán lận,chuyên chở thuốc phiện và dung túng đàn em. Bè lũ ông thì tham nhũng, ăn cắp như ranh. Mỹ biết ông Diệm biết lo cho tổ quốc nhưng chẳng ưa gì ông Nhu, nhưng không biết làm sao vì hai anh em như hình với bóng. Hơn nữa, hai anh em ông Diệm Nhu có ý tưởng không lệ thuộc Mỹ và không muốn Mỹ dính líu nhiều vào nội bộ Việt Nam. 

Năm 1963, hai anh em Diệm và Nhu bị giết chết trong một cuộc đảo chánh được Mỹ hỗ trợ. Sau đó, miền Nam lại rơi vào rối loạn chính trị. Giới lãnh đạo miền Nam có khuynh hướng chia rẽ, chia bè lập phái, hết đảo chánh này sang đảo chánh nọ. Cục diện chính trị tại miền Nam như một màn kịch cải lương, tướng lãnh tranh ngôi đoạt vị ra vô cầm quyền Sài gòn như chỗ không người, khiến cho Mỹ điên đầu, không biết đâu mà mò. Mỹ có ưu tiên là cản mức bành trướng của cộng sản, và họ hy vọng thể chế dân chủ ở miền Nam giúp việc đó. Tuy nhiên, chính quyền Mỹ bị ảnh hưởng bởi đám diều hâu thích có chiến tranh để có dịp làm giàu cho hệ thống thương mại kỹ nghệ quân sự chế tạo súng ống, máy bay, xe tăng. 

Thế là Mỹ đổ tiền viện trợ kinh tế quân sự vào Việt Nam, nhắm mắt làm ngơnhững chuyện tham nhũng, ăn cắp của cả người Mỹ lẫn Việt. Sau cùng, tình trạng ổn định hơn và ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống năm 1967. Tuy nhiên, khi tiền Mỹ đổ vào càng nhiều, cấp lãnh đạo miền Nam bị hư hại bởi tệ trạng tham nhũng, mua quan bán tước. Công việc địa vị béo bở thì để cho người quen kẻ thuộc, bạn bè hay họ hàng thân quyến. Tiền và vật liệu viện trợ của Mỹ thì bị ăn bớt ăn xén. Thiệu là một người chống cộng tích cực. Một trong những câu nói bất hủ của Thiệu là, "Đừng nghe những gì cộng sản nói. mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm." Nhưng ông lại là người tham quyền cố vị, có tính đa nghi, chỉ tin dùng những tướng lãnh thân cận. Tệ hơn nữa, ông để bè lũ lạm dụng quyền thế, buôn bán trục lợi. Cũng may là có nhiều tướng lãnh liêm khiết và tinh thần chiến đấu chống cộng của binh sĩ cao. Dân miền Nam có một phần tự do, không bị chính quyền bóp hầu bóp cổ. Đảng phái tự do hoạt động, xuống đường biểu tình chống đối chính quyền liên miên. Chính nhờ chính sách và tinh thần tự do dân chủ của miền Nam mà cộng sản Bắc Việt có thể cho người của họ xâm nhập vào hàng ngũ chống cộng miền Nam, kể cả chính quyền, quân đội, báo chí, tôn giáo, và ngay cả sinh viên học sinh, tạo thành một đám ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Ngoài những thủ đoạn rối loạn dân cho lợi thế chính trị, cán bộ cộng sản thực hiện nhiều công tác gián điệp bí mật tàn bạo, ám sát hàng ngàn viên chức chính quyền và dân vô tội.

Trận chiến tại miền Nam càng ngày càng tàn khốc. Người dân miền Nam chạy trốn cộng sản, tất tả ngược xuôi. Trong cảnh trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết, những người dân vô tội bị cộng sản bắn giết bừa bãi. Trong những vùng đồng quê xa thành phố người dân miền Nam chỉ muốn sống yên thân nhưng lũ cộng sản trà trộn với dân làng, dùng họ làm bia đỡ đạn, lại còn ép buộc tham gia cái cách mạng rởm. Tuy người dân miền Nam muốn tránh né cộng sản như tránh cùi hủi, họ không thể bỏ nhà và làng xã họ; vì vậy dân bị trong cảnh trên đe dưới búa, tránh hùm mắc hổ. Ban ngày thì phải đối phó với lính VNCH hoạnh họe, ban đêm thì bị kéo đi hội họp nghe tuyên truyền của cán bộ Việt cộng. 

Lũ cộng sản lại còn cố tình tạo ra nhầm lẫn cho lính Mỹ bằng cách giả dân phục kích bắn tỉa khiến lính Mỹ hoang mang không phân biệt ai là bạn ai là thù. Đa số lính Mỹ có tôn ti trật tự, tôn trọng mạng dân, lo cho thường dân, nhất là người già, đàn bà, và trẻ em. Lính Mỹ mang người già, đàn bà trẻ em, và ngay cả lính cộng sàn bị thương ra khỏi hiểm nguy trong lúc và sau khi đánh trận. Họ cung cấp săn sóc y tế cho nông dân trong các vùng quê xa xôi, chăm lo những người bị thương, và bảo đảm an toàn cho thường dân. Còn có người hy sinh tính mạng để cứu dân Việt. Tuy nhiên, vẫn có thiểu số là phường thất học, coi dân Việt như cỏ rác. Khi đồng đội thương vong vì bị bắn tỉa hoặc dẵm mìn gài bởi Việt cộng, lũ vô lại Mỹ này lên cơn điên dại bắn bừa bắn bãi vào đàn bà và trẻ em, đốt nhà đốt cửa, rải mưa bom bão đạn lên đầu dân khiến cho dân căm phẫn Mỹ. Trong vụ thảm sát Mỹ Lai năm 1968, có cả hàng trăm dân kể cả đàn bà con nít bị bắn chết. Nhưng những vụ này không thấm vào đâu so với tội ác chiến tranh của lũ cộng sản Việt Nam. Cái đáng nói hơn hết là lũ cộng sản giết hại chính người dân của họ, mà sau này lại còn chối đây đẩy. Dân miền Bắc cũng bị thương vong vì tai họa phụ do bom Mỹ. Chính phủ Bắc Việt lợi dụng những tai họa phụ này để lên án Mỹ, làm gia tăng sự căm thù Mỹ trong đầu óc người dân Bắc Việt.

Năm 1968, bất kể ngày Tết thiêng liêng, cộng sản Bắc Việt tổng công kích toàn thể miền Nam, nhưng bị phản công dữ dội bởi Quân Lực VNCH và Hoa Kỳ. Quân cộng sản bị quét sạch bò lê bò càng khiến chúng kinh hồn bạt vía, chạy trốn chui trốn nhủi. Tuy nhiên, trước khi bị quét ra khỏi Huế, quân cộng sản thực hiện cái gọi là bạo động cách mạng bằng thảm sát hàng ngàn người dân tại Huế, trẻ không tha già không thương. Cái mà lũ cộng sản gây cho dân Huế làm ai cũng rùng mình rởn gáy. Dân chết như rạ, bị bắn, đập đến chết, và bị chôn sống tập thể. Thành phố Huế phủ ngập màu trắng khăn tang trên đầu những người vợ khóc chồng, con khóc cha.

Là người xưng không có vợ con, Hồ không hiểu được cái đau đớn của dân Huế. Nhưng hắn hiểu cái chết là gì. Khi hắn gần kề miệng lỗ, hắn viết chúc thư, sau này sửa đổi nhiều lần. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ an giấc ngàn thu. Có những bí mật về hắn thì hắn sống để dạ, chết mang đi. Trong chúc thư với chữ như gà bớiđầy lỗi chính tả, hắn mong mỏi được gặp hai thần tượng là Karl Marx và Vladimir Lenin. Nếu hắn được gặp họ thì hắn cũng ngậm cười nơi chín suối. Hắn còn dặn dò mọi người là tiếp tục kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tiêu diệt ngụy quyền Sài gòn.

Chẳng cần Hồ dặn dò, Hoa Kỳ đang chán ngấy về cuộc chiến. Niềm tin của dân Hoa Kỳ bị suy thoái bởi sự bi quan biểu lộ qua truyền hình và báo chí, cộng thêm với sự gia tăng hoạt động của phong trào phản chiến. Tổng thống Nixon muốn có hòa bình trong danh dự. Ông phái quân sư quạt mo Kissinger đi đêm với Bắc Việt nhưng Bắc Việt muốn kéo dài cuộc chiến nên cà kê dê ngỗng về chuyện đàm phán hòa bình. Đám ngoại giao Bắc Việt cứ đủng đà đủng đỉnh trì hoãn mọi chuyện. Ngay cả chuyện hình dạng bàn họp cũng kéo dài đến cả mấy tháng chưa xong. Trong khi chính họ là những kẻ cướp đoạt chính quyền bất hợp pháp, cộng sản Bắc Việt mồm năm miệng mười không chịu công nhận chính quyền Sài gòn. Đã thế, Bắc Việt lại còn lôi kéo Mặt trận giải phóng miền Nam, một lực lượng cộng sản do chính họ tạo dựng, vào cuộc họp như là một phe độc lập. Nhưng những nhà ngoại giao cộng sản Bắc Việt chỉ múa rìu qua mắt thợ với cặp bài trùng Nixon và Kissinger. Hoa Kỳ muốn ngồi xích lại với Nga và Tàu, nói chuyện thẳng với quan thầy của cộng sản Bắc Việt, mặc cho Bắc Việt khua môi múa mép

Khi cuộc họp bắt đầu thì cộng sản Bắc Việt thuyết phục Tàu cộng cho phép họ sử dụng chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Họ cố tìm một chiến thắng quân sự để gây áp lực cho cuộc đàm phán. Tàu cộng không thích ý đó, nhưng trước sự Bắc Việt nài nỉ, họ đồng ý. Đám lãnh đạo Bắc Việt bèn tiến hành kế hoạch thua keo này bày keo kháchăm hăm hở hở tưởng là có thể tái diễn trò Điện Biên Phủ. Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, cộng sản Bắc Việt tung ra một đợt tấn công khốc liệt vào miền Nam. Họ lại một lần nữa thảm bại ê chề, bị đánh tan không còn mảnh giáp

Nhưng họ không quên pháo kích giết chết gần hai ngàn người dân vô tội trên Đại Lộ Kinh Hoàng tại Quảng Trị, phạm thêm một tội ác trời không dung đất không tha. Không có được một chiến thắng quân sự nhưng cộng sản Bắc Việt vẫn đú đa đú đởn với chuyện đàm phán, không màng đến dân. Nhưng vỏ quýt dầy gặp móng tay nhọn, Nixon nộ khí xung thiên ra lệnh thả bom khốc liệt vào tháng 12 năm 1972. Đám lãnh đạo cộng sản Bắc Việt sợ té đái vãi cứt, mặt cắt không còn hột máu, tưởng là tên điên Nixon thả bom để tiêu diệt chính họ. Thế là họ thúc dục đám ngoại giaoba chân bốn cẳng, chạy bở hơi tai về bàn đàm phán. Trong những ngày cuối của cuộc đàm phán, hòa bình đâu chẳng thấy trên miền Nam, mà lại còn giao tranh dữ dội hơn. Hai bên lo tranh bờ lấn cõi, chiếm đất chuẩn bị cho ranh giới quy định bởi hiệp định. Hiệp định Paris được ký vào tháng giêng năm 1973.

Ngay sau khi ký xong hiệp định, Bắc Việt đã chờ gió bẻ măng nên bắt đầu cuộc thôn tính miền Nam. Với thủ đoạn vừa đánh trống vừa ăn cướp, họ tuyên bố Hoa Kỳ và miền Nam vi phạm hiệp định Paris trong khi chính họ gửi cả trăm ngàn binh sĩ vào Nam. Trước hiểm họa cộng sản xâm lăng, Sài gòn hy vọng Nixon giữ lời hứa trừng phạt Bắc Việt. Nhưng họa vô đơn chí, miền Nam lại bị xui xẻo thêm lần nữa. Vụ Watergate khiến Nixon phải từ chức, thân bại danh liệt, chẳng còn thế lực gì để giúp Sài gòn. 

Đầu năm 1974, Tàu cộng, dưới sự đồng ý ngầm của Mỹ, tấn công một phần quần đảo Hoàng Sa trấn giữ bởi Hải quân VNCH. Sau một trận đánh đẫm máu, Tàu cộng chiếm được Hoàng Sa. VNCH phản đối kịch liệt cuộc xâm lăng này, nhưng cộng sản Bắc Việt miệng câm như hến. Thấy Hoa Kỳ không can thiệp vụ Hoàng Sa, cộng sản Bắc Việt chụp lấy cơ hội ngàn năm một thuở, mở màn chiến dịch xâm lược. Vào lúc này, Hoa Kỳ đã quyết định hy sinh miền Nam Việt Nam vì phong trào phản chiến trong nước và chính sách ngoại giao. Sau trận đánh Phước Long vào đầu năm 1975 để dọ dẫm phản ứng Hoa Kỳ, Bắc Việt mừng rỡ khi thấy Hoa Kỳ điềm nhiên tọa thị. Thế là bộ chính trị cộng sản Bắc Việt ra lệnh tung toàn bộ lực lượng quân sự vào mùa xuân năm 1975 tấn công miền Nam. 

Trước sự chống đối của Quốc hội ảnh hưởng bởi phong trào phản chiến, Hoa Kỳ chỉ biết ngồi trơ mắt ếch, nhìn miền Nam Việt Nam bị ăn tươi nuốt sống bởi quân Bắc Việt với xe tăng đại bác Nga Tàu. Tổng thống miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu, trước sự Hoa Kỳ im hơi lặng tiếng, biết mình đã bị lừa. Trong tình trạng khẩn cấp của mặt trận cao nguyên và quân khu I, ông làm nhiều quyết định mà ông sẽ ân hận ngàn đời. Quan trọng nhất là quyết định di tản chiến thuật, ra lệnh quân VNCH rút lui, cho quân cộng sản chiếm các tỉnh cao nguyên và quân khu I, với ý định tập trung vào việc phòng thủ một lãnh thổ nhỏ hơn cho có hiệu quả hơn. 

Tiếc thay, sai một ly đi một dặm. quyết định vội vã đó tạo ra những hậu quả tâm lý và chiến thuật tác hại. Binh sĩ và nhiều cấp chỉ huy tin rằng chuyện di tản chiến thuật là bước đầu của sự xụp đổ miền Nam, nhất là khi thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì. Cộng thêm vào đó là sự thiếu thốn đạn dược và vật liệu đã làm nao núng tinh thần chiến đấu. Đã thế, Thiệu còn thay đổi ý kiến vào phút chót khi một số đơn vị đã thi hành lệnh di tản. Các tướng lãnh VNCH vò đầu bức tai, dậm đất kêu trời. Dân tị nạn còn ùn ùn tay bồng tay dắt chạy theo binh sĩ rút lui vì kinh cung chi điểu khi ký ức về thảm sát Tết Mậu Thân vẫn còn, càng làm quân đội VNCHvướng chân vướng cẳng, vừa lo bảo vệ dân, vừa chống trả quân địch, vừa rút lui trong cùng một lúc. Những thành phần cộng sản nằm vùng báo cáo tin tức tình báo cho quân xâm lăng và tung ra những tin đồn thất thiệt, càng làm tình trạng thêm phần tồi tệ. Toàn bộ trở nên một cảnh hỗn loạn chưa từng thấy. Nhiều thành phần hèn nhát trong quân đội VNCH vừa nghe tin đồn xe tăng địch lăn vào thành phố làrụng rời tay chân, bỏ súng chạy bán sống bán chết, vắt giò lên cổ. 

Quân cộng sản reo hò mừng rỡ, chiếm các tỉnh ở quân khu I mà không tốn một viên đạn. Tưởng bở, cấp lãnh đạo Bắc Việt ra lệnh tiến quân vào Sài gòn với xe tăng bộ đội giữa thanh thiên bạch nhật. Trong cảnh hầu như tuyệt vọng đó, quân lực VNCH vùng lên, thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, chặn đứng sức tiến quân cộng sản tại Xuân Lộc. Còn nước còn tát, sáu ngàn người lính VNCH kề vai sát cánh chống lại bốn mươi ngàn quân Bắc Việt, trùng trùng điệp điệp bao vây Xuân Lộc với xe tăng và chiến thuật tiền pháo hậu xung, trong một trận hào hùng nhất của chiến tranh Việt Nam. Tuy mãnh hổ nan địch quần hồ, quân lực VNCH tại trận Xuân Lộc thề một mất một còn với cộng sản và đã ghi lại một trang sử oai hùng và dậy cộng sản một bài học vô giá: người Việt đừng bao giờ coi thường người Việt. Chiếm không được Xuân Lộc lại bị thiệt hại quá nặng nề, quân cộng sản bỏ mục tiêu và đi luồn qua đường khác tiến tới Sài gòn. Những người hùng Xuân Lộc rút về Sài gòn để bảo vệ. Nhưng đã quá trễ vì cái sảy nảy cái ung. Thiệu từ chức và bay qua Đài Loan không kèn không trống, để lại các tướng lãnh ngơ ngác. 

Số trời đã định, Dương Văn Minh kế nhiệm Thiệu ra lệnh quân lực VNCH đầu hàng vô điều kiện. Mặc dù tình thế tuyệt vọng nhưng lệnh Minh bắt đầu hàng nhưsét đánh ngang tai cho miền Nam Việt Nam. Những cấp chỉ huy quân lực VNCHđấm ngực than trời nhưng đa số phải tuân theo lệnh. Năm vị tướng VNCH tự tử, không muốn nhìn hình ảnh ác quỷ của lá cờ cộng sản bay trên miền Nam, trong tinh thần thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua đất Bắc của Trần Bình Trọng, một vị tướng nhà Trần vào thế kỷ thứ 13. Biết bao nhiêu binh sĩ và sĩ quan theo gót họ hoặc tuy sa cơ thất thế nhưng vẫn chiến đấu tới viên đạn cuối cùng tận trung báo quốc, thà chết vinh hơn sống nhục. Những người vị quốc vong thân tuy chết, nhưng anh hùng tử, khí hùng bất tử.

 Cái chết của họ sẽ được sử sách ghi nhận là bằng chứng cho tinh thần bất khuất của dân Việt. Nhiều chiến sĩ không đầu hàng nhưng sức cùng lực kiệt, anh hùng mạt lộ và bị bắt sống như hùm thiêng sa lưới. Thế rồi, như rắn mất đầu, Sài Gòn bị thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau 20 năm trời chinh chiến nồi da xáo thịt, Việt Nam được thống nhất với một giá rất đắt với hơn ba triệu người Việt Nam bỏ mình. Trong những ngày cuối cùng cuộc chiến, hơn 130.000 người sống ở miền Nam bỏ của chạy lấy người, được di tản sang Hoa Kỳ. Họ là những người thuộc đợt dân tị nạn cộng sản đầu tiên, sau này trở thành những người Việt hải ngoại chống cộng tích cực nhất. 

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mèo mù vớ cá rán, chính quyền cộng sản Bắc Việthí ha hí hửng chiếm đóng miền Nam. Như chuột sa chĩnh gạo, họ thu thập được cả chì lẫn chài vô số quân cụ, vũ khí, máy bay, xe tăng, tàu bè, súng ống, đạn dược, và mọi thứ quân nhu vật liệu Hoa Kỳ để lại. Ngoài ra họ thừa hưởng biết bao nhiêu tài sản của chính phủ VNCH và dân chúng miền Nam đã chạy thoát. Những người cộng sản từ Bắc vào Nam còn thất đảm kinh hồn khi thấy mức sống thịnh vượng của miền Nam, một trời một vực so với miền Bắc khác hẳn những gì họ nghe chính phủ Bắc Việt tuyên truyền. Thật là tréo cẳng ngỗng khi một nước nghèo túng đem quân tấn công một nước thịnh vượng đang yên ổn không hề gây hấn gì đến họ. Cộng sản Bắc Việt gọi đó là "giải phóng," nhưng từ điển khắp nơi định nghĩa hành động đó là "đánh cướp." Đoàn quân cướp nước mắt trắng môi thâmlếch tha lếch thếch đi vào Sài gòn ngơ ngác như vạc đui trước sự văn minh tân tiến của hòn ngọc Viễn Đông. Các cán bộ cộng sản loé mắt trước những hàng hóa, đồ đạc tân kỳ trong miền Nam. Như mèo thấy mỡ, họ mặt dày mặt dạn, tham con giếc, tiếc con rô vơ vét tài sản, đồ đạc bỏ lại bởi những người đã thoát khỏi nước. Có những cảnh cười ra nước mắt khi các cán bộ Bắc Việt hì hà hì hục khệ nệ vác những đồ dùng thông thường ở miền Nam để mang ra Bắc coi như là quý giá lắm. 

Dương dương tự đắc, kẻ chiến thắng tác oai tác quái, giở trò được làm vua thua làm giặc. Nhưng kẻ thua đã đầu hàng, mà vua đâu không thấy, chỉ thấy một lũ mặt người lòng thú, hành quyết hơn 65.000 người. Sau đó, họ kêu gọi binh lính sĩ quan và viên chức thuộc chính thể VNCH ra trình diện, hứa hẹn là chỉ đi học tập trong bốn năm tuần. Hàng trăm ngàn người thuộc chính thể VNCH tin vào lời hứa hẹn đó, quên câu “nói láo như vẹm,” và hoan hỉ ra trình diện vì nghĩ rằng không lẽ kẻ chiến thắng lại đi nói láo với người đã đầu hàng. Họ không ngờ những người cộng sản là những người có lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, ăn nói tráo trở, đi dối cha, về nhà dối chú. Ba mươi ngày học tập hứa hẹn biến thành vào trại cải tạo ba năm, mười năm, và với các sĩ quan cao cấp, còn lên tới mười bảy, mười tám năm. Họ bị tống đến những nơi đèo heo hút giórừng sâu núi thẳm, hoặc những vùnglam sơn chướng khí, ma thiêng nước độc


Không những thế, những tù nhân sa cơ lỡ vận còn bị đối xử một cách cạn tàu ráo máng, làm lụng cực khổ, thiếu ăn thiếu ngủ, thiếu thuốc men và săn sóc y tế, bị khủng bố tinh thần và vật chất. Hàng chục ngàn người tan xương nát thịt trong các trại tù vì bệnh hoạn, đói khát, bị đánh đập dã man, và hành quyết. Chính quyền cộng sản còn hà hiếp, làm tình làm tội gia đình những người đi học tập. Họ bới lông tìm vết, ngăn cấm vợ con họ hàng những người này tiến thân trong xã hội. Biết bao gia đình bị tan hoang vì sẩy đàn tai nghé. Không những đối xử tàn nhẫn với những người thuộc chế độ cũ, đám lãnh đạo Bắc Việt còn vắt chanh bỏ vỏ, ngược đãi những người trong chính phủ lâm thời của mặt trận giải phóng miền Nam. Họ thuộc loài vong ơn bội nghĩađánh trống bỏ dùi, xong chay quẳng thầy xuống ao, không đếm xỉa gì đến những người đã giúp họ chinh phục miền Nam, cho dù chuyện giúp đỡ đó là để thực hiện một mục tiêu bất nhân bất nghĩa.

Năm 1976, ĐLĐVN được đổi tên thành Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Sau suốt 46 năm trời che đậy, ĐCSVN sau cùng chính thức xuất đầu lộ diện. Đất nước Việt Nam tuy không còn cảnh binh đao khói lửa nhưng bị thảm họa tàn khốc gấp ngàn lần: thảm họa quỷ đỏ khiến người dân chết lần chết mòn, sống đọa thác đầy năm này qua năm khác. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, trong cơn điên cuồng thác loạn,như điên như dại, lũ cộng sản Việt Nam đổi tên Sài gòn bằng một tên ô nhục. Buồn thay, Sài gòn, hòn ngọc Viễn Đông ngày nào, như một thiếu nữ đoan trang thùy mịmá đào mày liễu với nhan sắc chim sa cá lặn, nét đẹp sắc nước hương trời, dáng dấp hoa nhường nguyệt thẹn, nụ cười khuynh quốc khuynh thành bị lũ quỷ đỏ xo vai rụt cổmặt bủng da chì nhẫn tâm giập liễu vùi hoa, trở thành hoa tàn nhị rữa, ủ liễu phai đào

Chính quyền cộng sản quay sang ức hiếp dân miền Nam kể cả người Việt gốc Hoa bằng đủ mọi thủ đoạn ác độc như tịch thu tài sản, hàng hóa, giới hạn tiền lưu trữ trong ngân hàng. Họ đốt sách chôn nho, coi thường khinh rẻ những người trí thức thuộc chế độ cũ. Họ đem con bỏ chợ, tống khứ dân từ các vùng đồng bằng, thành phố đến các vùng nông thôn đồng không mông quạnh, đồi núi, biên giới xa xôi khỉ ho cò gáy mà họ gọi là vùng kinh tế mới. Người miền Nam vốn có tính dễ chịu và thái độ vô tư. Họ ưa chuộng tự do và ghét giả dối. Nhưng ghét của nào trời trao của ấy. Trong suốt mấy năm sau năm 1975, chính quyền cộng sản làm mưa làm gió. Đám cán bộ cao cấp ngông nghêng tự mãn ăn tục nói phét. Đám cán bộ con thì theo đóm ăn tànbắt tội bắt vạ hà hiếp dân lành. Từ trên xuống dưới, người cộng sản ỷ thế hiếp cô, quen thói ăn ngược nói xuôi, nhũng nhiễu dân lành. Biết là dân miền Nam ưa chuộng tự do, nhưng chính quyền cộng sản vẫn đàn áp, mong làtrước lạ sau quen. Nhưng chẳng ai có thể quen nổi chế độ cộng sản. Sự đối xử tàn nhẫn của chính quyền cộng sản với chính dân họ tạo sự căm phẫn trong dân gian. Người dân miền Nam bấy giờ nằm trong chăn mới biết chăn có rệp. Ai cũng bầm gan tím ruột, nhưng chỉ biết ngậm cay nuốt đắng

Nhưng rồi, chịu không nổi cảnh chim lồng cá chậu, nhiều người tìm cách vượt biên, đứt gan đứt ruột quệt nước mắt bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để đi tìm tự do. Hơn một triệu người rời quê cha đất tổ bằng đường biển và đất liền. Khoảng tám trăm ngàn thuyền nhân cuối cùng định cư tại những nơi đất lành chim đậu trên các quốc gia tự do. Khoảng năm trăm ngàn người vùi thây chết tức tưởi trong biển cả vì hải tặc, hết lương thực, và phong ba bão táp. Cuộc di dân vĩ đại trong thời bình này thật là vô tiền khoáng hậu. Nhưng cái đáng nói hơn là lòng can đảm vô bờ của những thuyền nhân nam phụ lão ấu đã quyết định dấn thân ra đi một đi không trở lại trong nguy hiểm ngặt nghèo thập tử nhất sinh với cái chết trong đường tơ kẽ tóc. Dù sống hay chết trên đường đi, họ là những chiến sĩ cho tự do biểu hiện tinh thần bất khuất của nòi giống Lạc Hồng.

Chính quyền cộng sản say sưa điên cuồng trong chiến thắng, như ếch ngồi đáy giếngcoi trời bằng vung, tưởng mình đã thành ba đầu sáu tay, nên họ nhơn nhơn tự đắc. Bấy giờ họ không cần đến quan thầy Tàu cộng của họ nữa, nghĩ rằng họ là những người bách chiến bách thắng, và chỉ muốn xưng hùng xưng bá, dùng lực lượng quân sự sẵn có và chiến lợi phẩm thu thập của miền Nam để gây thù chuốc oán với các nước láng giềng. Lòng tham không đáy, họ thừa thắng xông lên, đem quân xâm lấn Kampuchea, một lâu la của Tàu cộng bấy giờ. Tàu cộng đã tức tối vì Việt Nam đối xử tàn nhẫn với người Việt gốc Hoa. Sự chiếm đóng Kampuchea như chế dầu vào lửa

Tàu cộng thù Việt Nam là kẻ ăn cháo đái bát, đã không đội ơn họ qua sự giúp đỡ thời chiến tranh với Pháp và suốt hai chục năm chiến tranh với miền Nam và Hoa Kỳ, mà lại còn ngông cuồng khiêu khích họ, lộ rõ bản chấtqua cầu rút ván. Lúc trước khi cần giúp đỡ quân sự và kinh tế thì làm nũng làm nịu, vòi vĩnh đủ điều. Bây giờ thì thay thầy đổi chủ, ỷ có Liên Xô hỗ trợ nên thay lòng đổi dạ. Thế là Tàu cộng quyết định dạy Việt Nam một bài học. Đầu năm 1979, chiến tranh giữa Việt Nam và Tàu cộng bùng lên ngắn ngủi. Kẻ tám lạng người nửa cân, hai bên quần thảo đánh nhau trong một tháng, thật là kỳ phùng địch thủ. Kết quả cuộc chiến bất phân thắng bại nhưng tạo tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Như hai đứa bé, hai bên rối rít tít mù cả lên, rốt cục chẳng đi đến đâu cả. Chỉ tội cho hàng ngàn dân Việt vì tai bay vạ gió mà chết hoặc mang thương tích thảm thương ở các tỉnh gần biên giới trong cuộc đánh nhau.

Việc chiếm đóng Kampuchea chẳng có lợi lộc gì cho Việt Nam, lại còn tiền mất tật mang. Trong đầu thập niên 1980, Việt Nam kiệt quệ vì không còn nhận được viện trợ từ Tàu cộng, lại còn suy xụp thêm vì quốc tế lên án Việt Nam về vụ Kampuchea, khiến cho mậu dịch như bị bế quan tỏa cảng. Thêm vào đó, chế độ kinh tế cộng sản nhắm vào kiểm soát trung ương, cấm cản tự do buôn bán nên thương mại dậm chân tại chỗ. Nhận thấy tình trạng ngày càng nguy ngập lửa cháy ngang mày, chính quyền Việt Nam bắt đầu chương trình Đổi Mới vào năm 1986, đổi sang kinh tế thị trường, giảm thiểu kiểm soát của nhà nước và rút quân cuốn gói ra đi rời khỏi Kampuchea. Nhờ vậy nền kinh tế dần dần hồi phục, lạm phát bớt dần. Nhưng rồi chỉ được một thời gian, khi thấy có chút tiến triển, đảng cộng sản Việt Nam lại ngựa quen đường cũ, tiếp tục thói bóc lột hà hiếp dân. Chương trình Nói Và Làm (NVL) của Nguyễn Văn Linh biến thành Nói Và Lờ, đâu cũng vào đấy.

Để gây uy tín với cộng đồng quốc tế, chính phủ CHXHCNVN muốn vinh danh Hồ trên lãnh vực quốc tế. Họ vẽ vời chuyện không cần thiết và đánh một lá bài nguy hiểm vì nếu không thành công thì sẽ là mối nhục nhã cho đất nước. Nhưng họ vẫn như điếc không sợ súng, lao đầu vào, cố gắng xin xỏ UNESCO có lời tôn vinh Hồ. UNESCO chỉ ghi chú và xét rằng Hồ là người vĩ đại trong nền văn hóa Việt Nam theo lời yêu cầu của chính phủ CHXHCNVN, chứ không có thừa nhận, và cũng không coi Hồ có tầm vóc quốc tế. Bằng cớ cho thấy UNESCO phân biệt "ghi chú/xét rằng" khác với "thừa nhận," và "quốc gia" khác với "thế giới/ quốc tế" là trong cùng một phân đoạn nói về Hồ, UNESCO "thừa nhận" ông Phya Anuman Rajadhon, một học giả Thái Lan, là một học giả vĩ đại với những đóng góp cho "thế giới" văn học. Phân đoạn này cho thấy UNESCO coi Hồ thua xa ông Rajadhon. Đó là không kể Hồ là một lãnh tụ nước trong khi ông Rajadhon chỉ là một dân quèn. Thay vì coi đó là một mối nhục dân tộc, chính phủ CHXHCNVN lại mồm loa mép giải, huênh hoang Hồ là "người văn hóa nổi tiếng thế giới." Không hiểu chính phủ Việt Nam toàn là những người dốt như bò, đọc những hàng chữ "ghi chú" và "xem xét" mà như vịt nghe sấm, không hiểu gì cả và không phân biệt được những chỉ định quốc tế; hoặc họ là những người chứng nào tật nấy, dùngvải thưa che mắt thánh để lừa lọc dân gian; hoặc họ biết nhưng lỡ phóng lao phải theo lao không thể thoát ra khỏi kết cục xấu hổ và thay vì đó lại chọn giấu giếm nó bằng dối trá trắng trợn. Chỉ tội nghiệp cho hàng triệu người Việt sống tại Việt Nam, nhất là giới trẻ, tưởng rằng Hồ được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. 

Đã thế, đảng cộng sản Việt Nam còn thánh thiện hóa Hồ, ca công tụng đức, coi lời lẽ hắn như khuôn vàng thước ngọcdệt gấm thêu hoa những thành tích tác nhân cộng sản như lả những hoạt động cách mạng. Họ muốn chứng minh rằng câu nhân vô thập toàn là sai lầm với Hồ Chí Minh và dân Việt phải hãnh diện là có một nhà lãnh tụ văn hay chữ tốt và đức rộng tài cao và phải tôn thờ hắn như thánh thần. Nhưng cái hãnh diện đó chỉ là một danh dự hão huyền với một giá đổi lại quá đắt: cả thế giới cười chê dân Việt là ngu xuẩn, tôn thờ sùng bái một lãnh tụ dốt nát, hiểm ác và vô đạo đức. ĐCSVN lại còn không để Hồ mồ yên mả đẹp, làm ngược lại di chúc hắn muốn được hỏa thiêu mà đem ướp xác hắn, để trưng bày triển lãm trong lăng khổng lồ. Hàng ngày, những người bị lừa bịp, trong nước và nước ngoài, lũ lượt đứng xếp hàng ở lăng Hồ để được chiêm ngưỡng dung nhan hắn, với xác chết cứng đơ như khúc gỗ nằm trong lồng kính trong một bầu không khí tiêu điều ảm đạm. Không khác gì hàng triệu người đã xem xác Stalin. 

Một chuyện kỳ lạ xảy ra là Stalin, kẻ sát nhân hàng triệu người lúc còn sống, vẫn còn có tà khí để ráng giết thêm hàng trăm người cho dù đã chết. Cũng chỉ vì muốn nhìn xác Stalin lúc hắn mới chết, 500 người phải chế̉t vì giày xéo nhau trong lúc hối hả chạy loạn xà ngầu. Cũng may cho dân Nga là xác Stalin đã bị dời ra khỏi lăng sau này và chôn tại một nơi hẻo lánh, nếu không thì nước Nga đã bị rơi vào cảnh lầm than đói rách. Một điều quái lạ là dân Việt Nam nổi tiếng mê tín dị đoanmà lại không nghĩ ra là khi Hồ chết mà không được hỏa thiêu như ý muốn thì hắn sẽ biến thành hồn ma vất vưởng, triệu tập âm binh thiên tướng nhũng nhiễu dân lành như rắn chết vẫn còn nọc, và do đó dân Việt vẫn tiếp tục sống trong cảnh A Tì địa ngụcdầu sôi lửa bỏng, nơi mà lũ âm binh cộng sản hoành hành. Một cách giúp dân là chấm dứt ca ngợi hắn, mang xác hắn ra khỏi lăng và thiêu đốt thành tro để dẹp cái âm dương quái khí đó, và để hắn siêu thoát đi gặp Marx và đồng chí Lenin của hắn.

Năm 1989, một loạt thay đổi chính trị xảy ra tại Đông Âu, dẫn đến sự xụp đổ của các chế độ cộng sản. Thế là Việt Nam hỏng chân hụt cẳng không còn chỗ dựa. Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) cuống cuồng quýnh quáng cố gắng kiếm cách dĩ hòa vi quý với Tàu cộng. Nhiều người lãnh tụ Đảng vẫn còn thầm thương trộm nhớ người bạn ngày nào nên chụp lấy cơ hội, ưỡn à ưỡn ẹo tiến tới nối lại tình xưa với Tàu cộng. 


Quả thật tình cũ không rủ cũng tới, Tàu cộng mừng húm, mở cờ trong bụng hoan hỉ chào đón phái đoàn Việt Nam trong cảnh bến cũ đò xưa. Năm 1990, tại Hội Nghị Thành đô, các lãnh tụ Việt Tàu thảo luận về vấn đề chính trị tại Campuchia và bình thường hóa mối liên hệ Việt Tàu. Tiếng đồn gần xa cho biết có những thỏa thuận về lãnh thổ bất lợi cho Việt Nam. Nhưng cho đến nay, chính phủ cộng sản Việt Nam vẫn chưa công bố hoàn toàn các thỏa thuận này. Năm 1991, Liên Xô bị giải tán. Cuối năm 1991, Việt Nam và Tàu cộng bình thường hóa liên hệ ngoại giao với nhau, không những biến thù thành bạngương vỡ lại lành mà còn khắng khít nhau hơn xưa. Cùng là những người đàn áp dân chủ, ĐCSVN và Đảng cộng sản Tàu quả thật là xứng đôi vừa lứa. Các lãnh đạo hai bên tán dương lẫn nhau, mẹ hát con khen hay. Các cuộc họp thảo luận bang giao sau đó rất là tâm đầu ý hợp. Năm 1994, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton bùi tai nghe lời các cố vấn kinh tế nên bãi bỏ hoàn toàn cấm vận. Sau đó, năm 1995, trong tinh thần tứ hải giai huynh đệ, Hoa Kỳ và Việt Nam tay bắt mặt mừng, thiết lập bang giao để hàn gắn lại vết thương chiến tranh sau 20 năm xa mặt cách lòng. Năm 1999, Tàu cộng và Việt Nam vẽ vời phương châm hoa hòe hoa sói cho mối liên hệ của hai nước là dựa vào 16 chữ vàng: Láng Giềng Hữu Nghị, Hợp Tác Toàn Diện, Ổn Định Lâu Dài, Hướng Tới Tương Lai, và 4 điều tốt: Láng giềng tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Cộng sự tốt. 

© 2014 Cao-Đắc Tuấn.






Câu chuyện Việt Nam qua thành ngữ (Phần 2): Thế kỷ 21




Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Vào đầu thế kỷ 21, nền kinh tế Việt Nam giảm bớt tiến triển sau chương trình Đổi Mới. Mặc dù có những nguồn tài nguyên phong phú và lực lượng làm việc năng động, nền kinh tế Việt Nam vẫn không được phát triển tương xứng. Cuộc sống đa số dân vẫn khó khăn, tệ trạng xã hội càng gia tăng. Nguyên nhân là khả năng yếu kém của ĐCSVN, tệ trạng tham nhũng, và sự kết hợp không tương xứng giữa kinh tế thị trường và chế độ độc tài. Chính phủ cộng sản Việt Nam còn hèn với giặc ác với dân, tiếp tục đàn áp dân, đặt ra những luật lệ mơ hồ để giam giữ những người bất đồng chính kiến. Người Việt Hải Ngoại (NVHN) tích cực góp tay với người dân trong nước trong việc đem lại thể chế tự do dân chủ cho Việt Nam.

*

Năm 2000, Tàu cộng và Việt Nam chính thức tuyên bố bà con xa thua láng giềnggần với 16 chữ vàng và 4 điều tốt là phương châm chỉ đạo cho mối quan hệ hai quốc gia. Đây là khởi đầu cho một tiến trình ĐCSVN đưa Việt Nam vào cảnh lệ thuộc Tàu cộng về đủ mọi phương diện, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội.

Năm 2007, Việt Nam được gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Chương trình Đổi Mới kích động kinh tế và Việt Nam trải qua một tiến triển lớn lao trong những thập niên sau đó. Tuy nhiên, nền kinh tế dần dà chạy hết xí quách trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21. Mặc dù có tiến triển về kinh tế, mức tiến triển vẫn còn chậm chạp so với khả năng của một quốc gia sống động. Năm 2014, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Với nền kinh tế tiến triển chậm như rùa bò, chính phủ Việt Namvô kế khả thi, không biết tính toán ra làm sao. Họ thừa biết là chế độ cộng sản trước sau gì cũng tiêu tan, nhưng bỏ thì thương vương thì tội, tạm thời thì cứ tiếp tục bắt cá hai tay. Nhưng vì râu ông nọ cắm cằm bà kia, nên toàn bộ hệ thống đâm ra dở dở ương ươngđầu gà đít vịt chẳng ra cái quái gì cả. Chính trị thì theo chủ nghĩa cộng sản Marx - Lenin độc đảng, kinh tế thì theo biến dạng của chủ nghĩa tư bản, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi. Một hệ thống như vậy thì không thể tồn tại được. Đó là vì để cho tư bản phát triển, phải có tự do buôn bán, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do tôn giáo. Nhưng tự do ngôn luận và độc đảng là hai kẻ thù không đội trời chung. Vì tự do ngôn luận cho phép dân phát biểu ý kiến, chỉ trích chính quyền, mà độc đảng thì làm sao chịu bị chỉ trích? 

Dân Việt Nam không phải là dân ngu dốt. Trái lại nữa là khác. Họ rất thông minh, cần cù, và có tinh thần bất khuất. Tướng Hoa Kỳ Westmoreland đã từng nói dân Việt Nam là thông minh tài giỏi nhất Á châu. Lý Quang Diệu, cựu Thủ tướng Singapore, ca ngợi dân Việt Nam là một trong những dân tộc có khả năng và đầy năng lực nhất ở Đông Nam Á. Nhưng dưới sự thống trị vô lương tâm của chính phủ, người dân thấp cổ bé miệng chỉ biết bấm bụng bấm gan, chấp nhận cuộc đờiđen như mõm chó. Người thì khoanh tay bó gối, người thì ngậm bồ hòn làm ngọt, người thì bưng tai bít mắt trước những cảnh chướng tai gai mắt. Có người vì nhiều hoàn cảnh bó buộc, phải cố đấm ăn xôi, miễn cưỡng hợp tác với chính quyền. Nhiều người cũng đã cố gắng trình bày điều hơn lẽ thiệt với chính phủ. Nhưng những lời lẽ của giới trí thức như đàn gẩy tai trâu vì đa số thành viên chính phủ không đủ trình độ hiểu được những lời ngay lẽ phải. Với những người hiểu được thì những lời đó cũng như nước đổ đầu vịt vì họ chẳng thèm màng. Chung quy thì chính phủ giả câm giả điếc, nhiều khi lại còn vu oan giá họa những người có ý kiến xây dựng hoặc chỉ trích chính quyền là phản động và muốn lật đổ chính quyền. Lẽ dĩ nhiên cũng có những kẻ ủng hộ cộng sản, dù là bên trong hay bên ngoài, nhất là đảng viên cộng sản và những kẻ có lợi trong chế độ cộng sản như nhân viên chính quyền, công an, an ninh, cảnh sát, bồi bút, giới trí thức dỏm, v.v.

Vấn đề với ĐCSVN và công cụ của nó, chính phủ CHXHCNVN, là các lãnh tụ đảng hoặc chính quyền chẳng hiểu mô tê gì về ý nghĩa của dân chủ. Bề ngoài họ tuyên bố là tôn trọng dân chủ, nhưng trong thâm tâm, họ tin rằng dân chủ và chủ nghĩa cộng sản là bất cộng đái thiên. Trong thể chế dân chủ đa nguyên thực thụ, chủ nghĩa cộng sản vẫn có thể hiện hữu. ĐCSVN hiểu rõ chuyện này nhưng biết là nếu dân có sự lựa chọn thì chẳng ai chọn đảng cộng sản. Vì vậy họ phải dùng đến chính sách độc tài để sinh tồn. Tệ hơn nữa, ĐCSVN, hoặc chính phủ CHXHCNVN, lạm dụng quyền lực ép buộc quân đội, cảnh sát, và công an chỉ phục vụ họ, và thậm chí dùng các lực lượng này để đàn áp dân. Vì ĐCSVN chỉ có bốn triệu đảng viên trong khi toàn thể dân số là 90 triệu, chuyện ĐCSVN xưng là đại diện dân là một chuyện hoang tưởng.

Người Việt hải ngoại tuy ghét cay ghét đắng chế độ cộng sản và phải làm việc kéo cày trả nợ nhưng vẫn gửi tiền về giúp đỡ gia đình họ hàng, hoặc để giúp đỡ những người xấu xố, nghèo nàn tàn tật, hoặc nạn nhân của hạn hán thiên tai trong tinh thần một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ và lá lành đùm lá rách. Tiền kiều hối gửi về gãi đúng chỗ ngứa của chính phủ Việt Nam. Họ mừng rỡ ra nghị quyết 36,dỗ ngon dỗ ngọt kêu gọi người Việt hải ngoại trở về Việt Nam dưới danh nghĩa đoàn kết quốc gia. Nhưng nhiều người Việt hải ngoại đi guốc trong bụng người cộng sản, biết lời kêu gọi đó là mật ngọt chết ruồi nên không thèm về. Tuy nhiên, tổng số kiều hối cũng rất cao, lên đến 9 tỉ đô la trong năm 2011, 10 tỉ đô la trong năm 2012, và 11 tỉ đô la trong năm 2013, khoảng 8% tổng số thu nhập quốc nội. Số tiền này thực ra không phản ảnh đúng số tiền NVHN chống cộng gửi về Việt Nam. Sổ sách tài chánh thường không phân minh, ít khi nào mà ra môn ra khoai, nhất là có rất nhiều vụ chuyển tiền không khai báo, từ Việt Nam ra ngoại quốc và ngược lại. Dầu gì thì tiền NVHN gửi về cũng rất nhiều.

Với tiền đầu tư từ nhiều công ty quốc tế, tiền kiều hối sung túc, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, và khối lao động trẻ trung nhiệt tình, Việt Nam lẽ ra phải là một quốc gia giàu có. Nhưng không hiểu sao dân Việt Nam vẫn cực khổ, sống trong tình trạng gạo châu củi quế mà tiền lương cố định, ba cọc ba đồng. Nhiều người không có được việc làm trong nước phải tìm cách tha phương lập nghiệp tại các xứ ngoài. Công nhân nam nữ được gửi làm việc tại Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai Á, và các nước khác ở Âu châu và Trung Đông. Bằng cách xuất cảng lao động, Việt Nam thu nhập được thêm tiền kiều hối do các công nhân gửi về cho gia đình. Tổng quát, công nhân làm việc xứ ngoài lấy bát mồ hôi đổi bát cơmdãi nắng dầm sương nơi xứ lạ quê người. Đa số sống chân chỉ hạt bộthà tằn hà tiệnchắt chiu từng đồng dành dụm tiền để gửi về gia đình. Ngoài những công nhân lao động, một số lớn thiếu nữ kiếm tiền bằng cách nhận lập gia đình với đàn ông từ Đài Loan, Nam Hàn. Nhiều người bị đối xử tàn tệ, mang tiếng là vợ nhưng bị coi như người giúp việc trong nhà. Nhiều cô gái đau lòng xót dạ, héo ruột héo gan phải xa gia đình vì miếng cơm manh áo đành đánh liều đưa chân làm nô lệ cho thiên hạ, như là một hình thức buôn hương bán phấn để sinh sống qua ngày. Không kém thảm thương, người dân trong nước cày sâu cuốc bẫm làm việc cực khổ nhưng vẫnnghèo rớt mồng tơi. Cả ngày chạy ngược chạy xuôi mà vẫn xấc bấc xang bang,bữa đói bữa no. Dân cố thắt lưng buộc bụng, hàng ngày chỉ biết thở vắn than dài, hy vọng ngày mai trời lại sáng. Chỉ có những tay con ông cháu cha hoặc các cán bộ cao cấp ăn tiền hối lộ mới có tiền rừng bạc bể, sống trong nhà cao cửa rộng,lên xe xuống ngựa, bát ngọc đũa ngà, cao lương mĩ vị, rủng rỉnh đô la, ném tiền qua cửa sổ. Trong khi những cán bộ cao cấp hoặc các đại gia thì giàu nứt vách đổ tường, biết bao nhiêu người dân tay làm hàm nhai, vất vả bán cốt lột xương. Một xã hội bắt kiến nuôi voi như vậy thì không thể tồn tại được.

Có nhiều lý do giải thích cho chuyện này. Thứ nhất là tệ trạng tham nhũng. Tham nhũng đã có gốc rễ từ xưa. Ở mức độ nhỏ, tham nhũng được ngụy trang dưới hình thức quà cáp biếu xén biểu hiện cho sự biết ơn hay kính trọng, có qua có lại. Nhưng càng lên cao, tham nhũng trở thành trắng trợn. Viên chức chính quyền thìquen ăn bén mùi, chức càng cao, hối lộ càng nhiều và tham nhũng càng được che chở cẩn thận. Các cán bộ cao cấp và ngay cả giới lãnh đạo ĐCSVN có của chìm của nổi đầy rẫy khắp nơi. Những hoạt động tham nhũng là một hệ thống phức tạpdây mơ rễ má, dính líu ̣mọi cấp. Do đó thanh trừng tham nhũng rất khó vì rút dây động rừng. Tình trạng thượng bất chính, hạ tắc loạn có ảnh hưởng thật sâu xa và rộng lớn, hút hết tiền bạc của dân mọi giới. Thứ nhì là sự đối nghịch giữa tổ chức chính trị và cơ cấu kinh tế. Chính trị cộng sản và kinh tế tư bản là đầu Ngô mình Sở, sẽ chỉ tạo ra quái thai mà không làm ra trò trống gì. Đó là vì chính trị cộng sản chủ trương kềm kẹp và bạo lực, trong khi kinh tế tư bản nuôi dưỡng tự do và cơ hội. Kết hợp cả hai chỉ có thể dẫn đến một hệ thống như một kẻ say chân nam đá chân xiêu; trước sau gì thì cũng té nhào chổng bốn vó lên trời.

Một thí dụ điển hình cho những tệ trạng đưa đến sự bế tắc kinh tế Việt Nam là vụ Vinashin. Vinashin được thành lập là một tập đoàn kinh doanh, chuyên về đóng tàu năm 2006, với mục tiêu vĩ đại là sẽ trở thành công ty đóng tàu lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2018. Nhưng té ra Vinashin chỉ là thùng rỗng kêu to, có nhiều dự án kếch xù nhưng tất cả chỉ là đầu voi đuôi chuột. Mặc dù có nhà nước bảo trợ tài chánh, chỉ sau vài năm hoạt động, Vinashin đã nợ như chúa chổm, mắc nợ lên tới 4.4 tỉ đô la vào giữa năm 2010, nằm bên bờ vực phá sản. Biết bao nhiêu tiền đầu tư, vay mượn với lãi xuất rẻ, lên đến hàng tỉ đô la, đã không cánh mà bay. Trong một quốc gia có Tổng sản phẩm quốc nội khoảng một trăm tỉ đô la vào năm 2010, sự phá hủy 4 tỉ đô la trong vài năm quả là một thành tích siêu quần bạt tụy. Chỉ có những người có phép thần thông biến hóa mới làm được. Các phân tách về sự thất bại cho biết nguyên nhân gồm có quản lý sai lầm, không tự lượng sức mình, và khủng hoảng tài chánh quốc tế. Quản lý sai lầm thực ra chỉ là ngụy trang cho tham nhũng dưới hình thức vi phạm các nguyên tắc căn bản của luân lý kinh doanh. Vì thế dẫn đến chuyện vô trách nhiệm. Tập đoàn có hàng trăm công ty con, nhưng mạnh ai nấy làm, mỗi khi thiếu thốn thì giựt gấu vá vai hoặc mượn đầu heo nấu cháo. Sổ sách thì xập xí xập ngầu, khai gian lận, tính toán không rành mạch. Người kiểm tra sổ sách thì như cưỡi ngựa xem hoa, chỉ coi qua loa cho xong chuyện. Đến khi đổ vỡ thì không ai chịu trách nhiệm. Không tự lượng sức mình là kết quả của sự bất tương đồng giữa xã hội cộng sản chủ nghĩa và tư hữu. Vì không nhìn thấy được những nguyên lý kinh doanh tư bản, nên các quản lý thiếu trình độ phán xét sai lầm và đưa đến cảnh dắt trâu chui qua ống hoặc mèo con mà đòi bắt chuột cống. Ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, người đứng mũi chịu sào, sau cùng thì giơ đầu chịu báng, bị toà án sơ thẩm kết án 20 năm tù. Vụ Vinashin cho thấy ĐCSVN không biết tự lượng sức mình và những nỗ lực của chính phủ Việt Nam mà không nhắm vào những nguyên do gốc rễ cũng sẽ chỉ như dã tràng xe cát. 

Thực ra vụ Vinashin chỉ là một đỉnh đầu một tảng băng khổng lồ của sự suy xụp sắp đến trong nền kinh tế Việt Nam. Với tiền vô như nước, doanh nghiệp nhà nước hiện tại đóng góp khoảng 40% tổng số thu nhập quốc nội, nhưng tiền ra như sông đổ biển vì bán thua mua lỗ nên dẫn đến khủng hoảng trầm trọng trên lãnh vực tài chánh. Các ngân hàng có tỷ lệ vay mượn xấu cao hơn mức an toàn, tạo nên hiểm họa vỡ nợ. Các kế hoạch đầu tư thì vĩ đại với những dự án khổng lồ, làm những chuyện bắt cóc bỏ dĩa, chẳng có hy vọng thành công, hoặc làm những chuyện dại dột ngu xuẩn, bắt ngựa đàng đuôi. Vì trèo cao té đau, càng ăn to nói lớn bao nhiêu thì lúc xụp đổ cũng sẽ to tát tương xứng. Nền kinh tế Việt Nam có tiếng mà không có miếng. Mấy thập kỷ trước ai cũng tưởng Việt Nam là con cọp rời chuồng. Chính phủ CHXHCNVN hô hào thế giới đầu tư. Các công ty ngoại quốc ào àonhảy vào vòng chiến, xây cất trung tâm nghiên cứu, nhà máy, xưởng chế tạo. Nhưng sau hai thập kỷ chẳng có phát triển gì kinh khủng cả. Công ty xí nghiệp phần lớn chỉ gồm có những nhà máy lắp ráp đầy những thợ lắp ráp. Ngày 5 tháng 10, 2014, Bộ trưởng bộ công thương Vũ Huy Hoàng huênh hoang rằng nền công nghiệp Việt Nam ‘đã sản xuất được ốc vít’ cho tổ hợp Samsung trong khi tổng giám đốc tổ hợp Samsung cho biết doanh nghiệp Việt Nam 'chỉ cung ứng được sản phẩm in ấn, bao bì.' Nhiều dự án xây cất nhà cửa bị bỏ dở nửa chừng vì những người đầu tư hết tiền, không vay được tiền, hoặc gặp khó khăn với luật lệ bất động sản. Nhiều cao ốc thương mại thì vắng như chùa bà Đanh. Con cọp tráng lệ hào nhoáng ngày nào bây giờ tiu nghỉu như mèo cúp tai, chui trở lại chuồng giấu mặt. Chính phủ CHXHCNVN tiếp tục lừa dối dân với những lời hứa hẹn rỗng tuếch, nhưng sự mất tin tưởng vào chính quyền tiếp tục gia tăng. Nền kinh tế Việt Nam chẳng bao lâu sẽ tan vỡ, lao xuống vực thẳm.

Những người cộng sản Việt Nam hay suy bụng ta ra bụng người. Họ là những người ăn không nói có, lại hay đâm bị thóc, thọc bị gạo. Trước đó họ đã cướp chính quyền và xâm lăng miền Nam Việt Nam bằng những chiêu giơ tay mặt giật tay trái, nên họ tưởng ai cũng vậy. Do đó mỗi khi dân chúng biểu tình là họ có tật giật mình, nghĩ rằng dân đang muốn lật đổ chính quyền. Để chống lại, tay cầm khoán, tay bẻ măng, họ cứ dùng luật lệ mơ hồ về an ninh nhà nước, cả vú lấp miệng em để đàn áp dân. Quên đi ý nghĩa tự do ngôn luận, họ bóp cổ bóp họngnhững người phản đối chính quyền. Mỗi khi dân đòi hỏi điều tra, họ lại hay ̣đùn đẩy trách nhiệm bắn binh sang hộ, viện lẽ này cớ nọ để kiếm kế hoãn binh. Chuyện gì cũng kéo dài, chờ đến hồi sau phân giải. Nhưng họ đâu biết là càng kéo dài, càng đàn áp, càng làm dân bất mãn, càng làm tích tụ sự căm phẫn, rồi cho đến mức nào đó thì bùng nổ, dân sẽ nổi dậy. Lúc đó thì quá trễ, chẳng còn hồi sau đâu để mà phân giải.

Họ đặt ra cả một rừng luật nhưng tiếc thay đa số đều là luật rừng. Chính phủ CHXHCNVN càng làm ra nhiều luật lệ, họ càng làm dân thù ghét họ. Với điều 79, 88, và 258 của bộ luật hình sự là bùa hộ mệnh, chính phủ CHXHCNVN kết tội những người bất đồng chính kiến, vơ đũa cả nắm bất cứ ai chỉ trích chính phủ là có ý định lật đổ chính phủ. Ngoài ra, tin là bị nội công ngoại kích, chính phủ đa nghi như Tào Tháo của CHXHCNVN vu khống những người Việt hải ngoại chống cộng là thọc gậy bánh xe. Chính phủ cộng sản lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, tuyên truyền là những người chống cộng hải ngoại vẫn còn ấm a ấm ức hậm hà hậm hựcchuyện thua trận ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng đó không phải là thua trận. Người Việt Nam không bao giờ thua người Việt Nam, cho dù là Bắc hay Nam. Mạ lỵ người Việt hải ngoại vẫn còn cay cú như cà cuống chết đến đít vẫn còn cay vì thua cộng sản Bắc Việt là mạ lỵ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, những vị tướng của phe Nguyễn và Tây Sơn bị thua trận và chết trong cuộc nội chiến vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Chỉ vì nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc dùng xe tăng đại bác Nga Tàu thừa cơ hội Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam để tấn công một cách hèn hạ nên một số người mới phải cắn răng nuốt hậnbỏ nước ra đi. Đó là không kể số người rời bỏ Việt Nam trong những ngày cuối của cuộc chiến chỉ chiếm khoảng một phần ba mươi tổng số người Việt hải ngoại hiện tại. Ngoài ra, có quả thật là họ vẫn còn cay cú khi mà lớp người tị nạn thuộc chế độ VNCH cũ đã già cốc đế, đầu bạc răng long, và con cháu họ chẳng còn biết gì về cuộc chiến nữa? Phải có một lý do gì khác mới khiến họ tiếp tục tranh đấu cho nền dân chủ ở Việt Nam chứ? Phải chăng đó là vì họ vẫn còn có lòng yêu nước? Ngoài ra, giả sử miền Nam thua trận vào năm 1975 nhưng chưa biết mèo nào cắn mỉu nào vì cuộc chiến chống cộng chưa chấm dứt. Do đó cho rằng người Việt hải ngoại thua trận thì quả là hơi sớm.

Trong chiến dịch tấn công những người chống cộng trong nước và hải ngoại, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN vẽ chân rắn, giặm lông lương ra hình ảnh một đất nước thanh bình và nền kinh tế phát triển. Với nghị quyết 36, chính phủ CHXHCNVN kêu gọi kiều bào hải ngoại gác bỏ hận thù quá khứ để trở về xây dựng đất nước. Nhiều người trong nước tin vào lời lẽ này, và trách kiều bào là không chịu về nước để xem đất nước đã thay đổi như thế nào. Buồn thay, quả thực là đất nước đã thay đổi. Nhưng thay vì thay đổi để tiến hóa, đất nước thay đổi để đi thụt lùi, thua đơn kém kép các quốc gia lân cận. Câu hỏi đơn giản là tại sao sau gần bốn mươi năm sau chiến tranh, Việt Nam vẫn là một nước nghèo ao tù nước đọngmặc dù có tài nguyên phong phú, ̣đất thuần dân hậu, và nguồn lao động trẻ trung to tát. 

Nhiều người dân sống ở Việt Nam còn trách người Việt hải ngoại chống cộng làvạch áo cho người xem lưng, chỉ biết khua môi múa mỏ chửi chính quyền Việt Nam hoặc bêu xấu Hồ Chí Minh, đã chẳng làm nên trò trống gì cả, mà còn khiến cho Việt Nam mất uy tín với thế giới. Nhưng đó là những lời kết tội thiếu suy nghĩ. Trước hết, sự kính phục hay khinh bỉ một dân tộc không có dính líu gì đến phẩm cách hoặc tài năng lãnh tụ của dân tộc đó. Một dân tộc có được sự kính phục của thế giới không phải vì họ có lãnh tụ là hiền nhân quân tử hay là người anh hùng cái thế, mà là vì dân tộc đó can đảm, đạo đức, cần cù, tài giỏi, yêu chuộng hòa bình. 

Hồ, giả sử lừa bịp được thế giới, chỉ đáng xách dép cho Mahatma Gandhi hoặc ông Nelson Mandela về tài năng và đức độ, nhưng thế giới đâu có ngưỡng mộ dân tộc Ấn độ vì ông Gandhi hoặc dân Nam phi vì ông Mandela? Ngược lại, thế giớimù tịt về các lãnh tụ Nhật Bản nhưng hầu hết ai cũng phục sát đất dân tộc Nhật vì sự cần cù, chăm chỉ, lương thiện, và ý chí đoàn kết của họ đã đưa Nhật lên hàng siêu cường kinh tế. Thế giới quên đi chuyện Nhật Bản đã tạo ra những chuyện tang tóc cho biết bao nhiêu dân Á châu trong Thế chiến thứ hai. Một dân tộc cũng không bị thế giới khinh bỉ hay coi thường vì sự tàn ác hiểm độc của một lãnh tụ dân tộc đó. Hitler là một trong những lãnh tụ tàn ác khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, đã biến Âu châu thành địa ngục trần gian trong Thế chiến thứ hai. Nhưng thế giới đâu có khinh bỉ hay coi thường dân tộc Đức, nếu không muốn nói là còn nể nang họ qua những đóng góp về văn học, khoa học kỹ thuật, và kinh tế của họ. Tuy nhiên, có một điểm rõ như ban ngày. Nếu một dân tộc tôn thờ một lãnh tụ hiểm ác vô đạo đức thì chắc chắn thế giới sẽ coi thường và khinh bỉ dân tộc đó. 

Người Việt hải ngoại (NVHN) mang lại vinh quang cho dân tộc Việt Nam trên nhiều khía cạnh. Thế giới ngả mũ nghiêng mình trước lòng can đảm kiên trì của thuyền nhân vượt biển, bàng hoàng về sự tàn bạo của lũ hải tặc, bùi ngùi nhỏ lệcho những cái chết bi hùng tráng lệ của những trẻ em ngây thơ, của cha mẹ nhịn ăn nhịn uống cho con, của vợ chồng che chở lẫn nhau trong cơn giông tố mịt mù

NVHN đến định cư nước ngoài sinh cơ lập nghiệp với hai bàn tay trắng, tự lực cánh sinh. Họ làm việc cực khổ, thức khuya dậy sớm, gây dựng sự nghiệp với mồ hôi nước mắt. Sống nơi xứ người, lạ nước lạ cái, họ vẫn đoàn kết, chung lưng đấu cật, tạo dựng những cộng đồng trù phú. Biết bao nhiêu người thành công rực rỡ,công thành danh toại, có sự nghiệp trọng vọng, nắm giữ địa vị lớn lao trong xã hội, thiết lập công ty, hoặc khuếch trương đủ mọi cơ sở buôn bán thành công. Tuy vẫn có người còn thua kém, nhưng đa số NVHN có đời sống sung túc, có công ăn việc làm, tậu nhà tậu cửa, sinh con đẻ cái. Họ vẫn uống nước nhớ nguồn, không quên quê hương Việt Nam, dạy dỗ con cái theo truyền thống Việt Nam. Con cái họ ngoan ngoãn, kính trên nhường dướigọi dạ bảo vâng, cố gắng học hành, dùi mài kinh sử, tạo nên những huyền thoại làm biết bao nhiêu người kính phục. NVHN lúc nào cũng duy trì di sản tổ quốc, tổ chức hội hè đình đám, kỷ niệm những ngày lễ cổ truyền. Họ tổ chức văn nghệ, chương trình ca nhạc văn hóa đượm màu sắc dân tộc. Những thành quả tốt đẹp, sự bảo tồn văn hóa, sự đóng góp vào xã hội của người Việt hải ngoại đã khiến người nước ngoài cảm phục dân tộc Việt Nam. Lúc trước, có một thiểu số NVHN lạm dụng danh nghĩa chống cộng để lừa gạt cộng đồng cho lợi lộc tài chánh. Tuy nhiên, đó chỉ là một số rất nhỏ và bây giờ những kẻ lừa đảo đó không còn đất dụng võ nữa vì NVHN đã khôn ngoan và hiểu được những mánh khóe này. Nói chung, những kẻ lưu manh này không đủ mạnh để thành những con sâu làm rầu nồi canh. Ngoài ra, cũng có những NVHN hoặc vì khờ dại, hoặc vì ngây thơ, hoặc vì có máu trục lợi, nghe lời dụ dỗ chính quyền mà trở về Việt Nam hợp tác với chính quyền cộng sản. Sau này, một số đụng chạm thực tế, hiểu được mưu mô Việt cộng, hoặc bị lừa đảo nên tỉnh ngộ, trốn về nước.

NVHN vẫn có thể ăn sung mặc sướng cả đời, an cư lạc nghiệp trên xứ tự do. Tại sao họ lại bận tâm đến Việt Nam? Thế hệ NVHN thứ nhất chống cộng tích cực đã dần dần thu nhỏ lại. Đa số đã qua đời hoặc đã da mồi tóc bạc đang hay sắp hưu trívui thú điền viên. Bây giờ chỉ còn thế hệ một rưỡi, không có kinh nghiệm trực tiếp với Việt Nam và kiến thức về Việt Nam thường là qua lời cha mẹ ông bà. Thế hệ thứ hai thì lại càng không màng chuyện gì xảy đến Việt Nam. Tuy thế, NVHN vẫn còn quan tâm đến Việt Nam. Ở Hoa Kỳ, cơ sở thông tin mọc lên như nấm. Nhiều đài truyền hình và phát thanh của người Việt có những chương trình tin tức và thảo luận chỉ về Việt Nam. Báo chí, tạp chí, tin trên mạng, blogs của người Việt đều có những tiết mục dành riêng về Việt Nam. Sự quan tâm đó chứng tỏ tình yêu thương thiết tha cho đồng hương. NVHN bận rộn sinh nhai, nếu không có tình yêu đồng hương máu chảy ruột mềm, họ đã không thèm đoái hoài gì đến đất nước, mặc kệ những gì xảy ra ở Việt Nam, sống chết mặc bay. Vì chính phủ cộng sản Việt Nam bưng bít sự thật, áp dụng chính sách ngu dân để dễ cai trị, người Việt, trong nước và hải ngoại, muốn vạch ra những trò ám muội đó. Do đó, chỉ trích hay vạch ra những cái xấu xa cùa chính quyền chế độ cộng sản không phải là chuyện gà nhà bôi mặt đá nhau, mà là cho dân chúng biết sự thật và để phục hồi danh dự dân tộc. 

Tình trạng nhân quyền tại Việt Nam là một thảm họa. Chính phủ bắt bớ những người bất đồng chính kiến dựa vào luật lệ mơ hồ. Họ khóa mồm khóa miệng dân, cấm dân không được phát biểu ý kiến bày tỏ sự bất mãn hoặc chống đối chính sách chính quyền. Công an ngăn cản dân chúng tham gia biểu tình, phùng mang trợn mắt hò hét hung hăng, chửi thề tục tĩu, lại còn khoa tay múa chân hà hiếp dân lành. Có dịp thì đấm đá những người dân chân yếu tay mềm, đánh dân bầm môi tím mặt. Họ bẻ hành bẻ tỏi vặn vẹo đủ điều, bắt bớ giam cầm những người hoạt động nhân quyền một cách hèn nhát, lại còn sai thủ hạ đầu trâu mặt ngựa bám đuôi theo dõi,rình như mèo rình chuột, lén lút đánh đập, sách nhiễu những người này một cách đê tiện.

Với những thành quả vi phạm nhân quyền như vậy, thế mà Việt Nam cũng xoay sở để trở thành một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Vào ngày 12 tháng 11, năm 2013, Việt Nam, cùng với Tàu cộng, Nga, Cuba, và Saudi Arabia, được bầu là thành viên của Hội đồng Nhân quyền có 47 ghế của Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ ba năm 2014-2016. Nhiều nhóm Nhân quyền độc lập chỉ trích nặng nề cuộc bầu, cho rằng các thành viên mới bầu này là trong số những quốc gia vi phạm nhân quyền tệ hại nhất trên chính công dân của họ. Chính phủ CHXHCNVN thích thú tiểu nhân đắc chí tiếu hi hi với cuộc trúng cử. Điểm cười lăn cười bò là chính phủ CHXHCNVN lại mang vạ vào thân khi xin gia nhập vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vì bây giờ ai ở Việt Nam cũng biết đến nhân quyền. Hơn nữa, là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam phải hành động phù hợp với lời hứa trịnh trọng và cam kết tình nguyện của mình trong việc tôn trọng nhân quyền ở mức quốc gia và thế giới, và hợp tác với Hội đồng trong việc chia sẻ thông tin và thi hành những đề nghị được chấp thuận của nhóm công tác Duyệt xét Định kỳ Phổ quát. 

Tuy nhiên, thay vì biết thân biết phận bây giờ là họ lẽ ra biết tôn trọng nhân quyền, ĐCSVN lại còn mặt trâng mày tráo đi ngược lại những lời cam kết của họ với thế giới. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2013, các blogger tại Việt Nam chính thức ra mắt tổ chức họ, Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) tại Hà Nội với các cuộc họp tổ chức tại Hà Nội và Sài Gòn. Cùng ngày, bạo lực và tàn bạo bùng nổ tại Sài Gòn. Cảnh sát và công an bao vây nhà của blogger Nguyễn Hoàng Vi và tấn công cô và blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (hay còn gọi Mẹ Nấm) để ngăn cản họ tham dự cuộc họp với các blogger khác. Họ thậm chí còn dữ dội tấn côngthượng cẳng tay, hạ cẳng chân đấm đá các blogger khác đến cứu các nạn nhân. Máu đổ vào ngày dân Việt Nam mừng ngày Nhân quyền tại Việt Nam. Chưa đầy một tháng sau khi trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, chính phủ CHXHCNVN đã chứng minh cho thế giới thái độ mục hạ vô nhân khinh thị tổ chức LHQ và coi thường nhân quyền của chính công dân họ. Hành động này là cái tát vào lời hứa trịnh trọng và cam kết tình nguyện của Việt Nam trong đơn xin gia nhập Hội đồng Nhân quyền LHQ. 

Mặc cho thế giới nghĩ sao về Việt Nam, dân Việt biết rõ chính phủ họ. Họ đã chán ngấy với tuyên truyền và hư tin của chính phủ. Chính phủ CHXHCNVN có thể gạt và tung hỏa mù được thế giới, nhưng không thể gạt được dân. Phản đối chống chính phủ đã xảy ra biết bao nhiêu năm trời. Các nhà hoạt động dân chủ biểu hiện sự bất mãn của họ qua bỉểu tình, blogs chống chính quyền, thư ngỏ gởi cho lãnh đạo ĐCSVN, và các phương tiện truyền thông khác.

Trước những biểu tình phản đối và chỉ trích trên mạng, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN cố gắng tìm cách trấn an dân chúng. Nhưng quanh đi quẩn lại cũng vẫn là những kết tội mơ hồ về những thế lực thù địch hoặc úp úp mở mở về những hoạt động chính quyền. Những viên chức chính quyền và các đại biểu quốc hội họp hành đã đời, đọc diễn văn tràng giang đại hải, trả lời báo chí dài dòng văn tự, nói vòng vo tam quốc, rốt cục rồi cũng khen lấy khen để đảng và chính phủ, và rêu rao những lời tuyên truyền chán như cơm nếp nát. Thỉnh thoảng chỉ trích nhau thì cũng như anh đui chê anh mù không có mắt. Chẳng có ai bênh vực cho người dân thực hành tự do ngôn luận qua biểu tình hoặc trên mạng. Những biểu tình, phản đối, chỉ trích trên mạng tuôn ra ào ào như thác lũ làm chính phủ CHXHCNVN tối tăm mặt mũi, nhìn quanh trông gà hoá quốc, tưởng ai cũng muốn lật đổ chính quyền, hoặc biết rõ là họ không muốn lật đổ chính quyền nhưng muốn đàn áp tiếng nói dân chủ nên bắt bớ cấm cản người dân.

Đối với ĐCSVN, truyền thông trên mạng là chuyện làm họ khó chịu bực bội vì nó là kỳ đà cản mũi cho cái gọi là tự do ngôn luận của họ. Những tố cáo tham nhũng và chia rẽ bè phái trong ĐCSVN đăng tải trên các trang mạng làm rúng động chính quyền cộng sản vì không có lửa làm sao có khói. Ngày 12 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra công văn 7169 lên án những trang mạng "đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước." Chưa từng bao giờ tự cổ chí kim trên lịch sử thế giới lại có một lãnh tụ quốc gia sợ tiếng nói người dân đến độ hớt ha hớt hải ra công văn kêu đích danh những trang mạng như vậy. Hành động có một không hai đó cho thấy rõ nỗi lo sợ của ĐCSVN trước phong trào dân chủ tự do và như thế nào. Làm sao mả một lãnh tụ chính phủ cao cấp có thể ngu như lợn ra một công văn ăn ốc nói mò, kết tội thiên hạ không có căn cứ cơ sở nào cả? 

Với công văn 7169, chính phủ CHXHCNVN còn lộ rõ bản chất khinh người của họ, coi thường dân Việt quá mức, cho rằng dân Việt ngu dốt không đủ trí tuệ ̣để phân biệt vàng thau lẫn lộn giữa tin giả và tin thật. Mà họ cũng lòi ra là dân đâu còn tin tưởng gì ở thông tin báo chí của chính quyền nữa. Ngoài ra, chính phủ CHXHCNVN quả thật là ngu hết chỗ nói khi họ ra công văn 7169. Nếu họ nói sai, thì chính họ mới là người đăng tải thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc. Nếu họ nói đúng thì điểm khôi hài là cộng sản Việt Nam là vua về tuyên truyền xuyên tạc mà bây giờ lại ở trong cảnh gậy ông đập lưng ông, bị các "thế lực thù địch" dùng chính những chiêu tuyên truyền đập cho tơi bời hoa lá. Nếu các thế lực thù địch này lại chính là các phe phái trong ĐCSVN thì chuyện lại càng tiếu lâm hơn vì chính phủ CHXHCNVN chế giễu chế độ VNCH là bị lũng đoạn vì tài địch vận chia rẽ kẻ thù của họ. Bây giờ, đúng là cười người hôm trước hôm sau người cười. Trong cả hai trường hợp, chính phủ CHXHCNVN đều là trò cười cho thiên hạ. Cái oái oăm của vụ này là ĐCSVN bị ám ảnh bởi cảnh gậy ông đập lưng ông đã từ lâu. Vì họ chiếm đoạt chính quyền quá dễ dàng vào năm 1945 nên họ biết ai cũng có thể lật đổ họ một cách dễ dàng. Nhất là trong giai đoạn này, dân Việt đã quá chán ghét họ. Tức nước vỡ bờ, toàn dân chỉ chờ dịp là bùng nổ. Chỉ cần một nhóm hoạt động dân chủ trẻ đứng lên hô hào dân chúng biểu tình rầm rộ đòi hỏi cải tổ theo kiểu chống đối ở Thiên An môn năm 1989 bên Tàu cộng hoặc Cách mạng Dù do Joshua Wong ở Hồng Kông vào tháng 10 năm 2014 là ĐCSVN tức khắc tan tành mây khóiđi đời nhà ma. Bố bảo họ cũng không dám mang xe tăng và binh lính bắn giết dân chúng như chính quyền Tàu cộng.

Vụ tranh chấp biển Đông còn cho thấy tình trạng tệ mạt hơn. Khi bị phanh phui,cháy nhà ra mặt chuột, công hàm của Phạm Văn Đồng biểu hiện không những lốibán trời không văn tự mà còn tinh thần phản quốc của chính phủ cộng sản. Bây giờbụng làm dạ chịu nên há miệng mắc quai, chính phủ CHXHCNVN cãi cố cãi chàylà lúc đó Bắc Việt không có quyền sở hữu trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì những quần đảo đó là thuộc Việt Nam Cộng Hòa và do đó công hàm là vô giá trị. Nhưng như vậy lại càng lộ ra họ là những kẻ lừa thầy phản bạn, dùng thủ thuật ba que xỏ lá, biết là không có quyền sở hữu mà vẫn đồng ý với Tàu cộng. Họ đã mày trơ trán bóng lừa gạt ân nhân của họ lúc đó, thì làm sao thế giới tin tưởng những gì họ nói bây giờ nữa? Một sự không tin vạn sự bất tín. Nhất là những kẻ gian dối đó là thành phần lãnh đạo nhà nước. Làm sao mà các công ty kỹ nghệ quốc tế tin tưởng vào những người đi ngang về tắt và tiền hậu bất nhất như vậy để bỏ tiền đầu tư? 

Đối với Việt Nam, Tàu cộng dùng chiến thuật đi với Phật mặc áo cà sa đi với ma mặc áo giấy. Họ đã từng là quan thầy của cộng sản Bắc Việt, nên biết rõ bộ mặt thật của đám lâu la. Tàu cộng dùng những lời lấp la lấp liếmvừa đánh trống vừa la làng, đã lấy quần đảo Hoàng Sa năm 1974, rồi còn chiếm một phần quần đảo Trường Sa năm 1988, rồi đưa ra những bằng cớ lịch sử tam sao thất bổn và lý lẽ pháp luật nói nhăng nói cuội để tuyên bố chủ quyền trên những quần đảo này. Cộng sản Việt Nam quả thật là kẻ cắp gặp bà già và bà già này có một lực lượng quân đội hùng hậu nhất thế giới với ba triệu người. Tàu cộng càng ngày càng hung hăng, ỷ cá lớn nuốt cá bé, xua hàng ngàn tàu bè đánh cá tới biển Đông, lại đặt ra một thành phố có nhiệm vụ quản lý các đảo, rồi còn điều động quân đội để diễu võ dương oai và phô trương thanh thế. Ngày 1 tháng 5 năm 2014, Tàu cộng mang giàn khoan Hải dương 981 tới vùng gần quần đảo Hoàng Sa để thăm dò dầu khí. Dân Việt bừng bừng nổi giận, tổ chức biểu tình phản đối, nhưng chính phủ ngăn cản, chỉ cho phép cuộc biểu tình "quốc doanh" tại Bình dương với bạo động nhằm gây tiếng xấu cho phong trào dân chủ và dùng đó là cớ để đàn áp các cuộc biểu tình sau này.

Dân chúng Việt Nam căm phẫn, tổ chức biểu tình chống đối Tàu cộng. Các nhà trí thức viết thư điều trình tới chính phủ, vạch ra những gì nên làm. Chính phủ CHXHCNVN tiến thoái lưỡng nandở khóc dở cười, không biết làm gì, đầu óc rối như tơ vò. Một mặt không dám làm mất lòng Tàu cộng vì đã lỡ dung dăng dung dẻvới người bạn láng giềng này qua 16 chữ vàng và 4 tốt. Một mặt sợ mất thớ với dân, không muốn lộ ra sự hèn nhát của mình với dân Việt Nam và thế giới. Họ ngoài miệng tuyên bố cứng rắn, nhưng miệng hùm gan sứa, bên trong thì nhát như thỏ đế, chỉ muốn chủ trương tránh voi chẳng xấu mặt nào. Trước sự khiêu khích của Tàu cộng, các lãnh tụ Đảng sợ run như cầy sấy nên áp dụng chính sách im lặng là vàng. Chính phủ CHXHCNVN còn giở trò mị dân với những chiêu sáo mượn lông công như mua sắm vũ khí tối tân, tầu ngầm, ra vẻ như là đang chuẩn bị ̣chiến tranh với Tàu cộng. Trong khi chuyện đơn giản nhất là tuyên bố cứng rắn với Tàu cộng thì không làm, lại đi vẽ rồng nên giun. Tàu cộng, dưới áp lực thế giới, rút giàn khoan Hải dương 981 ra khỏi vùng vào ngày 15 tháng 7, năm 2014, vin vào cớ bão tố. Ngày 6 tháng 10 năm 2014, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng huênh hoang tuyên bố, "Trong giải quyết căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, chúng ta đã giành được thắng lợi."

Chính phủ còn giở bộ mặt khôn nhà dại chợ, quay sang dọa nạt đàn áp dân chúng,lấy thịt đè ngườicá mè đè cá chép cấm cản biểu tình chống đối. Đã thế họ lại cònphao tin vịt là những người biểu tình được trả tiền để đi biểu tình. Vào ngày 26 tháng 7 năm 2013, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Thanh Sơn, trong một cuộc phỏng vấn, ngậm máu phun người những NVHN biểu tình chống đối cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của chủ tịch Trương Tấn Sang là "có những người chỉ vì đồng tiền, có những người chỉ vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu nhập thêm." Lời kết tội không có bằng chứng của một viên chức ngoại giao này cho thấy phẩm cách ngược ngạo của chính phủ CHXHCNVN. Là những người chỉ biết chỉ tay năm ngón và quen với sự tuân lệnh cấp trên sai đâu chạy đó, những người cộng sản không thể hiểu được làm sao người ta lại có thể tự ý biểu tình phát biểu ý kiến. Thế mà họ vẫn tôn thờ lời lẽ rỗng tuếch của Hồ trong bản tuyên ngôn độc lập về quyền tự do và câu hắn nói, "Không có gì quý hơn độc lập tự do." Quả là thầy nào tớ ấy, đám lãnh đạo ĐCSVN hiện thời cha truyền con nốinoi gương Hồ Chí Minh nên dùng đủ mọi mưu ma chước quỷ để lừa đảo dân lành. 

Vào tháng 10 năm 2012, ĐCSVN có cơ hội đái công chuộc tội trong Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, nhưng giới lãnh đạo đã bỏ lỡ cơ hội này. Ban chấp hành trung ương đảng công nhận có nhiều thất bại về kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, hành chánh và tham nhũng, nhưng lại có thái độ vô thưởng vô phạt, quyết định "không kỷ luật Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị." Chủ tịch Trương Tấn Sang sau này gọi người đó là "đồng chí X." Nhận thức được những thất bại mà không trừng phạt những kẻ có trách nhiệm gây ra chúng là một hành động đạo đức giả ở mức độ cao nhất, vi phạm trắng trợn nguyên tắc pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình. Vì họ cùng trong một đảng, hành động đó còn cho thấy đám lãnh đạo đảng một đồng một cốt, bảo vệ và bôi son trát phấn lẫn nhau, cùng bảo nhau cả bè đè cây nứa, rốt cục chỉ có dân là bị thiệt thòi. Ngoài ra, trong khi toàn dân ai cũng biết Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là "đồng chí X," kiểu ĐCSVN đối xử dân thiếu thành thật với ngôn ngữ mơ hồ chỉ càng làm cho dân khinh thường họ. Vì nếu họ là cây ngay không sợ chết đứng, sao họ khôngnói toạc móng heo cho rồi? Không lẽ thanh danh của Thủ tướng quan trọng hơn quyền người dân được biết? 

Ngày 12 tháng 6 năm 2013, Quốc hội Việt Nam công bố kết quả cuộc bỏ phiếu tín nhiệm 47 lãnh đạo chính phủ cao cấp, kể cả chủ tịch Trương Tấn Sang và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Điểm đáng cười ngặt cười nghẽo cho màn kịch này là phiếu tín nhiệm chỉ có ba lựa chọn: tín nhiệm cao, tín nhiệm, và tín nhiệ̣m thấp. Cuộc bỏ phiếu như là không có lựa chọn gì cả vì không có lựa chọn không tín nhiệm. Vậy mà các bản tin trên báo chí muối mặt đăng tải kết quả cuộc bỏ phiếu với nhan đề: "Không có viên chức cao cấp nào có phiếu không tín nhiệm." Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng còn hí hửng như Ngô được vàng tuyên bố, "Có thể nói nhìn chung cách đánh giá của các đại biểu khá khách quan." ĐCSVN quả thật là khinh người vắt nóc dân Việt Nam với màn kịch bỏ phiếu tín nhiệm này.

Vào ngày 28 tháng 11, năm 2013, Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu tán thành sửa đổi cho hiến pháp năm 1992 với tỉ lệ kỷ lục gần 98%. Hiến pháp mới sửa đổi, có hiệu lực ngày 1 tháng 1, năm 2014, bị chỉ trích là một bước thụt lùi về chính trị và kinh tế. Các sửa đổi tái xác nhận quyền lực tối cao của Đảng cộng sản mô tả trong Điều 4, bắt quân đội phải thề non hẹn biển với đảng, cho phép tịch thu đất đai vì "quyền lợi" quốc gia, và duy trì vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Vì đa số thành viên của Quốc hội cũng là đảng viên của ĐCSVN, kết quả cuộc bỏ phiếu không hoàn toàn bất ngờ. Chuyện đó còn cho thấy Quốc hội không đại diện dân mà chỉ là con rối của ĐCSVN đang cai trị.

Chính quyền CHXHCNVN có một mặc cảm lo sợ kỳ lạ. Những hoạt động dân chủ đã khiến các lãnh tụ ĐCSVN ăn không ngon, ngủ không yên. Các lãnh tụ ĐCSVN và viên chức chính phủ lúc nào cũng lo ngay ngáy phập phồng là bị dân mất tín nhiệm, sợ bị nói xấu. Nhưng nếu họ là người quang minh chính trực thì làm sao bị mất tín nhiệm hay bị nói xấu được? Thay vì cải tà quy chánh, sửa lại lỗi lầm để lấy công chuộc tội, họ lại cứ như đười ươi giữ ống khư khư theo cái chủ nghĩa sai lầm và ráng giữ cái sĩ diện hão huyền. Họ hứa hẹn dân đủ điều tốt đẹp, trấn an là mọi việc đều được đảng lo. Nhưng đó chỉ là đầu môi chót lưỡi vì giới lãnh đạo toàn là những người tài thô trí thiểnvăn dốt vũ dátđầu óc bã đậu, lại hay nói thánh nói tướng. Họ không biết lo việc nước và không học hỏi gì cả, nói như rồng leolàm như mèo mửa. Họ còn có máu du côn du kề chỉ biết ăn hiếp dân nghèo, hèn nhát với Tàu cộng, ̣đối với quan chức Tàu cộng thì nhũn như chi chi, đi ra nước ngoài thì ngớ nga ngớ ngẩn như gà mở cửa mả, ấm ớ hội tề, ăn nói chẳng ra thể thống gìbạ đâu nói đấy. 

Chính quyền đồi trụy. Các cơ quan chính quyền bóc lột, ăn cướp tài nguyên đất nước, trá hình bằng những chương trình xây cất hoặc khai thác quặng mỏ vĩ đại. Chúng còn đặt ra những chương trình cướp đoạt đất đai nhà cửa dân với mức bồi hoàn rẻ mạt, mục đích là moi ruột moi gan dân khiến dân khố rách áo ômmàn trời chiếu đất. Dân oan nghèo túng, ăn bát mẻ, nằm chiếu manh. Dân oan ta thán,kêu trời như bọng, kiện cáo chính phủ ngày này qua ngày khác mà chẳng có công hiệu gì. Nhiều người lại còn bị chính quyền địa phương hà hiếp, trở thành thân tàn ma dại, con cái không được chăm sóc. Nhiều viên chức cao cấp chính phủ là những kẻ tham quan ô lại chỉ biết vinh thân phì giabất tài vô tướng, ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời, bằng cấp giả hiệu buôn danh bán tiếngbìm bìm lại muốn leo nhà gạch. Nhân viên chính quyền thì sáng tai họ, điếc tai cày, làm việc lè phè buổi đực buổi cái lại cà rịch cà tang. Quốc hội chỉ là con rối của ĐCSVN. Cuộc bỏ phiếu tán thành các sửa đổi hiến pháp tháng 11 năm 2013 là bằng chứng hùng hồn cho hành vi này. Đại diện dân thì đa số là lũ hèn nhát, ăn càn nói bậy, lên diễn đàn thì múa may quay cuồng, tuyên bố như những kẻ ăn đàng sóng, nói đàng gió. Lắm kẻ chỉ tham danh trục lợi, a dua nịnh bợ như anh lùn xem hội. Công an cảnh sát thì tham nhũng, hung ác, giá áo túi cơm, ăn bơ làm biếng chỉ có tài hút máu hút mủ dân lành. 

Xã hội suy đồi, đầy rẫy tệ đoan đồi phong bại tụctrộm cướp như rươi, trai gái hư thân mất nết, lêu lổng như mèo mả gà đồng. Con người thì ích kỷ, ăn cắp, dối trá, lừa đảo. Giáo dục thì yếu kém, hữu danh vô thực, học sinh chỉ biết học như vẹt, ê a lý thuyết Mác Lê nin, học trước quên sau. Các em bị dạy dỗ tôn thờ Hồ Chí Minh mặc dù hắn là kẻ thù của tổ quốc. Sinh viên ra trường không có việc làm, phí phạm công trình dầy công đèn sáchnấu sử sôi kinh. Tuy thanh thiếu niên Việt Nam thông minh và chăm chỉ, chính sách giáo dục tẩy não của chính phủ chỉ làm tổn hại đầu óc của những nhân tài tương lai của đất nước. 

Với cấp lãnh đạo tham nhũng và bất tài, ĐCSVN và chính phủ CHXHCNVN không tài nào mà lèo lái con thuyền Việt Nam trên con đường đúng đi tới kinh tế trù phú và xã hội ổn định. 

© 2014 Cao-Đắc Tuấn





Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link