Saturday, August 18, 2012

Album ảnh màu chụp Việt Nam năm 1915.




Người Và Phong Cảnh Bắc Việt

 Chụp Năm 1915 !

Album ảnh màu chụp Việt Nam năm 1915.
link to the album :www.flickr.com/photos/...374348279/Bất ngờ ảnh màu chụp Việt Nam năm 1915 của Albert Kahn và W. Robert Moore Viện Bảo Tàng Albert Kahn vùng ngoại ô Hauts-de-Seine sát cạnh Paris lưu trữ một bộ sưu tập hiếm hoi ảnh màu về Việt Nam chụp ngay từ đầu thế kỷ 20.Phần lớn album này chụp trong năm 1915


photo

Woman Smoking Opium, Hanoi - French Indochina circa 1915

Cô gái người Hoa hút thuốc phiện, Hà Nội 1915(source: Museé d'Albert Kahn) - A woman indulges in opium utilizing a lavish gilt opium-smoking layout amidst opulent surroundings. The photo was taken by Léon Busy in the smoking room of a private residence in French Indochina -- what is now Vietnam -- around 1915.

photo

Hanoi, sampans and Paul Doumer Bridge, 1915

Hà Nội 1915 - Thuyền bè trên sông Hồng và cầu Paul Doumer, tức cầu Long Biên ngày nay . Source: Museé d'Albert Kahn

photo

actor-actress-hanoi-tonkin-1915

Diễn viên tuồng Hà Nội 1915

photo

Tonkin - Hanoi: Two opium smokers drinking tea, 1915

Hai ông nghiện ngồi uống trà và hút thuốc lào trong một tiệm hút - Hà Nội 1915

photo

Rue Paul Bert, Hanoi, 1914-1915 Góc phố Tràng Tiền - Lê Thánh Tông

TONKIN , HANOI , ANGLE DE LA RUE PAUL-BERT ET DU BOULEVARD BOBILLOT (góc phố Tràng Tiền và Lê Thánh Tông, phía trước Nhà Hát Lớn)


photo

Mandarin militaire, mandarin chef de province et préfet en costume d’audience solennelle, 1915, vers Hanoi

1915 - Quan đầu tỉnh trong phẩm phục nghi lễ, gần Hà Nội

photo

Tinsmiths' Street, Hanoi, 1915

Phố Hàng Thiếc, 1915


photo

Le Pont Paul Doumer, Hanoi, 1915

Cầu Long Biên năm 1915, được đặt theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer


photo

Sampan en baie d'Halong, 1916

Thuyền trên vịnh Hạ Long


photo

Haiphong, 1915

Sông Tam Bạc Haiphong

photo

Two opium smokers, 1915

hai ông "tiên nâu" hút thuốc phiện

photo

Baie d'Halong, 1915

Vịnh Hạ Long 1915


photo

Village actors, Hanoi, May June 1916

Nghệ sĩ tuồng, Hà Nội 1916


photo

A district chief reading a patent Imperial, 1916


photo

A district chief and district authorities gathered at the town hall, 1915


photo

Two young girls wearing the non-ba tam

hai cô gái mặc áo yếm, đội nón Ba Tầm (tức nón quai thao)Yếm:

photo

Hongay, 1915


photo

Banane Hanoi, 1915

Ghe bán chuối bên sông Hồng

photo

Chaloupe Chinoise, 1915

Thuyền đò của người Hoa

photo

Marchand de sentences, Hanoi, 1915

Thầy đồ viết câu đối để bán


photo

Marchande de riz, 1914-1915

Những người bán gạo


photo

Mine de cuivre, 1915

Mỏ đồng

photo

Marché de Bac Lè, 1915

Chợ Bắc Lệ (địa điểm ngày nay thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn)

photo

Mine de Hong Gay, 1918-1921

Mỏ than Hòn Gai 1918-21


photo

The highlands on the border of China, Na-Cham village

Nà Chạm là một làng nhỏ trên vùng cao, thuộc huyện Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái (cách Nghĩa Lộ 16 km về phía Đông, nay thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.)Toạ độ địa lý: 21° 33' 0" N, 104° 39' 0" E

photo

Groupe de notables, environ de Hanoi, vers 1920

Các hương chức gần Hà Nội, khoảng 1920(source: Museé d'Albert Kahn)

photo

A North Vietnamse girl whose teeth are tinted black, 1915

Cô gái Bắc kỳ nhuộm răng đen, 1915

photo

Group of Tonkin girls, 1916

Mấy bé gái Bắc kỳ, 1916


photo

village chief smoking a water pipe, 1916

Ông lý trưởng bên bình thuốc lào(source: Museé d'Albert Kahn)


photo

Rue du Chanvre, Hanoi, 1915 (Hemp street)

Phố Hàng Gai, Hà Nội 1915. Có lẽ vào dịp tết Trung Thu, vì thấy bán lồng đèn


photo

Prêtresse des 3 mondes, 1915

một bà đồng bóng, 1915

photo

Buddhist Temple on the road to Tam Dao, June 4, 1916

Chùa trên đường lên Tam Đảo

photo

A nun and two novices, circa 1916

một bà vãi và hai chú tiểu, khoảng 1916

photo

Young girls play the pawns in a human chess match, 1920

các cô gái đóng vai những con Tốt trong một ván cờ người, 1920 - Jeunes filles figurant les pions d’un jeu d’échecs vivant, 1920

photo

Un étalage de jouets en fer blanc vendus au moment de la fête des enfants, 1915

một kệ bán đồ chơi bằng thiếc vào dịp Tết nhi đồng, 1915

photo

Un lettré lisant environ de Hanoi, 1915

một nhà nho ngồi đọc sách gần Hà Nội, 1915

photo

A local authority in hearing ordinary costume, 1916

một vị quan địa phương trong triều phục thường

photo

An elder village notable near Hanoi, 1920

Một vị kỳ mục gần Hà Nội 1920

photo

making betel quid, about Hanoi, 1916

Cô gái Hà Nội ngồi têm trầu

photo

Priestess of the cult of the 3 worlds, 1916

một bà đồng bóng

photo

The Governor of Tonkin and his family, 1915

Quan Thống sứ Bắc kỳ và gia đình, 1915 (source: Museé d'Albert Kahn)

photo

Một phụ nữ Hà Nội đang trang điểm - khoảng 1914-15

Hanoi woman making up

VIỆN TRẦN NHÂN TÔNG TẠI MỸ ( Đại học Harvard) : MỘT SÁNG KIẾN TẦM CỞ CHIẾN LƯỢC TRONG QUAN HỆ VĂN MINH VIỆT MỸ, XỨNG ĐáNG VỚI VUA TRẦN NHÂN TÔNG ĐẠO ĐỜI TOÀN VẸN, DIỆT MÔNG 2 LẦN CỨU NƯỚC,KHAI LẬP THIỀN TRÚC LÂM YÊN TỬ MANG VUI CỨU KHỔ

 

VIỆN TRẦN NHÂN TÔNG TẠI MỸ ( Đại học Harvard) : MỘT SÁNG KIẾN TẦM CỞ CHIẾN LƯỢC TRONG QUAN HỆ VĂN MINH VIỆT MỸ, XỨNG ĐÁNG VỚI VUA TRẦN NHÂN TÔNG ĐẠO ĐỜI TOÀN VẸN, DIỆT MÔNG 2 LẦN CỨU NƯỚC,KHAI LẬP THIỀN TRÚC LÂM YÊN TỬ MANG VUI CỨU KHỔ ! TS



Mời viếng thăm.






Trần Nhân Tông.jpg 

Viện Trần Nhân Tông tại Hoa Kỳ



Thứ Bảy, 11/08/2012 

Mấy ai biết rằng, cách xa nửa vòng trái đất, tên tuổi của vị vua anh minh Trần Nhân Tông đã được đặt tên cho một viện nghiên cứu đặt tại thành phố Boston, Hoa Kỳ.Viện được thành lập do một nhóm nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Harvard, một trong những cái nôi của trí tuệ nước Mỹ và do Giáo sư Thomas Patterson làm chủ tịch.

Điều gì khiến vị giáo sư này quyết định trở thành chủ tịch Viện Trần Nhân Tông (Tran nhan tong Academy)?

Giáo sư Thomas Patterson cho biết: “Khi được mời giữ vai trò lãnh đạo tại Viện Trần Nhân Tông, tôi đã chấp nhận với tất cả sự nhún nhường. Nhiều năm trước, tôi là một người lính Mỹ tới Việt Nam và tôi đã đem lòng yêu đất nước, con người và lịch sử của Việt Nam.

Đó là thời điểm lần đầu tiên tôi nhận biết về Trần Nhân Tông, vị vua đã hoàn thành được điều mà nhiều người không làm được: chiến thắng quân Mông Cổ trong thế kỷ XIII. Tuy nhiên, mãi đến năm 2010 tôi mới có được một sự hiểu biết đầy đủ về tầm vóc của ông khi tôi cùng vợ đến viếng Yên Tử ở Quảng Ninh. Chính vào thời điểm này tôi bắt đầu ngưỡng mộ sự hy sinh lớn lao của ông đối với đất nước.

Tôi rất vinh dự khi được đóng góp một phần nhỏ trong việc thúc đẩy di sản Trần Nhân Tông để lại, thu hút sự quan tâm của mọi người ở Việt Nam và nơi khác”.

Giáo sư Thomas Patterson hiện là Giám đốc nghiên cứu Trung tâm Shorenstein thuộc Đại học Harvard, được đánh giá là Trung tâm nghiên cứu Báo chí, Chính trị và Chính sách công uy tín trên toàn cầu, nơi thu hút được nhiều nhà lãnh đạo truyền thông, nhà báo nổi tiếng thế giới về đây nghiên cứu.

Trung tâm Shorenstein cũng là nơi tổ chức các giải thưởng báo chí lớn như Goldsmith và các hội nghị Theodore H. White nổi tiếng thế giới về báo chí và chính trị



.


Phật hoàng Trần Nhân Tông



Mục đích dài hạn mà Viện Trần Nhân Tông Academy đề ra gồm (1) Tổ chức nghiên cứu về Trần Nhân Tông theo chuẩn mực quốc tế, đồng thời xuất bản các kết quả nghiên cứu, các ấn phẩm về Trần Nhân Tông bằng nhiều loại hình, (2) Thúc đẩy, ứng dụng những tư tưởng nhân ái, giàu trí tuệ của Phật hoàng Trần Nhân Tông vào cuộc sống, (3) Quảng bá những giá trị tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Trần Nhân Tông trên toàn thế giới.

Trước mắt, trong giai đoạn 2012-2017, viện này dự kiến tổ chức Giải thưởng quốc tế Trần Nhân Tông về Hòa giải và Yêu thương hằng năm. Nhân dịp công bố giải thưởng này, dự kiến vào tháng 9 tới đây sẽ tổ chức Hội nghị quốc tế Trần Nhân Tông tại Boston.Ý tưởng về một  Viện Trần Nhân TôngThật ra ý tưởng thành lập Viện Trần Nhân Tông do nhà báo Nguyễn Anh Tuấn, cựu Tổng biên tập VietnamNet, đề xuất từ năm 2009.

Sau đó được cụ thể qua buổi trình diễn nhạc giao hưởng chủ đề “Hòa giải và yêu thương” ngày 22-4-2010 tại Nhà hát Lớn của thủ đô Hà Nội. Hiện nay ông Tuấn đang làm công việc nghiên cứu tại Trung tâm Báo chí, Chính trị và Chính sách công Shorenstein – Đại học Harvard.

Ông cho biết, sáng kiến thành lập Viện Trần Nhân Tông và Giải thưởng quốc tế Trần Nhân Tông về Hòa giải và Yêu thương của ông đã nhận được sự ủng hộ của các giáo sư có uy tín tại Đại học Harvard.Vào ngày 16-2-2011, tại Hà Nội, một hội nghị về vấn đề này cũng được tổ chức với sự có mặt của nhiều học giả trong đó có cựu Tổng thống Latvia Vaira Vike-Freiberga.

Chính Giáo sư Thomas Patterson là người đề xuất ý tưởng và phương án để Viện Trần Nhân Tông triển khai xây dựng bảo tàng Trần Nhân Tông ở Hà Nội.

Ông cũng động viên vợ là nhà làm phim tài liệu có uy tín ở Mỹ bà Lorie Conway sang Việt Nam làm phim tài liệu về vua Trần Nhân Tông.Giáo sư Thomas Patterson cho biết nhiều bạn đồng nghiệp của ông ở Harvard cùng với một số nhà báo lớn ở Mỹ rất trân trọng và sẵn sàng đồng hành cùng Viện Trần Nhân Tông, bởi tư tưởng, minh triết và sự nghiệp của Trần Nhân Tông thực sự là một giá trị rất quý không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của cả nhân loại.

Như vậy, cùng với Hòa nhạc Trần Nhân Tông chủ đề Hòa giải và Yêu thương được tổ chức hằng năm vào tháng 8 tại Boston, Viện Trần Nhân Tông đã nhận được sự đồng hành của một số nhà lãnh đạo có uy tín, của các học giả lớn ở Harvard và vùng Boston, cùng với tâm huyết của các nhà khoa học, nhà văn hóa tại Việt Nam như nhà văn hóa Việt Phương, giáo sư Hoàng Tụy, giáo sư Phan Huy Lê, Phó giáo sư Trần Ngọc Vương…

Giải thưởng Trần Nhân Tông: giải thưởng quốc tế mang tên vị vua ViệtNgày 19-6 vừa qua, Viện Trần Nhân Tông chính thức công bố Giải thưởng quốc tế và Hội nghị Trần Nhân Tông về hòa giải yêu thương tại trang web Trannhantongprize.org.

Sự kiện này sẽ được tổ chức vào ngày 22-9 tới đây tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ. Giáo sư Thomas Patterson làm Chủ tịch giải thưởng này.




Giải thưởng sẽ được xét chọn hằng năm cho những người bằng hành động, ảnh hưởng của mình có những đóng góp nổi bật cho sự nghiệp hòa giải và yêu thương nhân loại, xây dựng tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, tôn giáo giải quyết các mối xung đột, chấm dứt chiến tranh, những người đóng góp to lớn trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh thái trên thế giới.

Hội đồng cố vấn giải thưởng bao gồm nhiều nhân vật uy tín như bà Vaira Vike-Freiberga, cựu Tổng thống Latvia; ông Michael Dukakis, cựu Thống đốc bang Massachusetts; bà Ann Mc Daniel, Phó chủ tịch thường trực Washington Post; bà Robin Sproul, Phó chủ tịch – Giám đốc chi nhánh Washington DC, ABC News; ông Phil Barboni, Chủ tịch và Giám đốc điều hành Global Post và nhiều học giả trong nước.

Nói về ý nghĩa của giải thưởng Trần Nhân Tông, Giáo sư Daniel Shapiro, của Trường Luật Harvard so sánh: “Một năm thế giới mất đi 3.000 tỉ USD để giải quyết những vấn đề như chiến tranh, bạo loạn, xung đột, thiên tai. Nếu thế giới ngăn chặn được thì sẽ tiết kiệm được một khoản tiền lớn để đầu tư vào kinh tế và giải quyết được những vấn đề lâu dài của nhân loại”.

Nhạc trưởng Charles Ansbacher của dàn nhạc giao hưởng Landmark Boston cũng đã nhiệt tình tham gia vận động ủng hộ giải thưởng, mà cụ thể là tổ chức các buổi hòa nhạc “Hòa giải và Yêu thương” và mời vị nhạc trưởng nổi tiếng ở châu Âu Daniel Barenboim làm Đại sứ Giải thưởng Trần Nhân Tông.

Sau buổi hòa nhạc lần thứ hai hồi tháng 8-2011, mới đây Viện Trần Nhân Tông đã phối hợp với Dàn nhạc Landmark Boston và Quỹ văn hóa Free for All Concert (Quỹ Âm nhạc Miễn phí cho mọi người) tổ chức buổi hòa nhạc “Hòa giải và Yêu thương” lần thứ ba vào ngày 11-7-2012 tại Boston với sự tham dự của hơn 10.000 người. Dịp này nhạc trưởng Armand Diangienda người Congo đã nhận lời làm đại sứ Quỹ Trần Nhân Tông tại châu Phi.

Hiện nay, địa chỉ Trannhantong.net đã được rất nhiều người trong cũng như ngoài nước truy cập, đây vừa là cổng thông tin hoạt động của Viện Trần Nhân Tông vừa là một diễn đàn giữa những người muốn đến với viện.Tại cổng điện tử này bước đầu đã có các tư liệu giới thiệu những nghiên cứu, các thành quả trong việc ứng dụng tư tưởng, giá trị cao quý của Trần Nhân Tông vào cuộc sống, những sáng tác văn hóa nghệ thuật về Trần Nhân Tông.

Đây cũng là cổng tích hợp, kết nối tất cả các tư liệu về Trần Nhân Tông.





Bản di chúc của vua Trần Nhân Tông

Moi doc
Bản di chúc của vua Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông ( 陳仁宗; 1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam.

Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm.
Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự.
Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà).
Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.

Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.

Ông đã để lại bản di chúc dặn dò con cháu, cũng là lời dặn dò cho muôn đời hậu thế nước Việt, gần ngàn năm qua vẫn còn nguyên chân giá trị!



" Các người chớ quên , chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ , trái đạo .

Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo .

Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu .

Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải .

Các việc trên , khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn .

Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước .

Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp .

Không thôn tính được ta , thì gậm nhấm ta .

Họ gậm nhấm đất đai của ta , lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái
tổ chim chích .

Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn :

" Một tấc đất của Tiền nhân để lại , cũng không được để lọt vào tay kẻ khác " .

Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu " .

CHINA GO HOME !!!


 

CHINA GO HOME !!!


 

Lệnh Khai Hỏa

Trận Hoàng Sa tôi là SQ Trưởng ngành Vô Tuyến Điện Tử kiêm Mật Mã của HQ5, được Đại tá Hà Văn Ngạc chỉ định làm SQ Tr/tin cho BCH/Hành Quân mà ông là Chỉ Huy Trưởng. Tôi túc trực bên cạnh Đ/tá Ngạc những khi ông chuyển và nhận lệnh




Khẩu pháo 76.2 trên Chiến Hạm Trần Khánh Dư HQ4 góp phần không nhỏ trong việc bắn chìm chiến hạm Kronstadt của Trung Cộng.
Bức hình được chụp ngày 19/01/1974 ngay trước giờ khai trận Hoàng Sa !


Gần một thập niên qua đã có nhiều qúy vị Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Đoàn Viên, những người có tham dự trận Hải Chiến Hoàng Sa, tường thuật lại trận chiến, nhìnchung tôi tự nghĩ như vậy cũng đã tương đối đầy đủ.
Tuy vậy, với tư cách là người có tham dự trận chiến, tôi thấy có trách nhiệm ghi lại những điều mắt thấy tai nghe, giới hạn trong phạm vi trách nhiệm của mình để được đóng góp thêm. Và như vậy, bài này sẽ không phải là toàn bộ trận chiến mà chỉ là bổ túc thêm một số dữ kiện, hy vọng là mới, để chúng ta có được sự ghi nhận từ nhiều phía khác nhau.

Trận Hoàng Sa tôi là SQ Trưởng ngành Vô Tuyến Điện Tử kiêm Mật Mã của HQ5, được Đại tá Hà Văn Ngạc chỉ định làm SQ Tr/tin cho BCH/Hành Quân mà ông là Chỉ Huy Trưởng. Tôi túc trực bên cạnh Đ/tá Ngạc những khi ông chuyển và nhận lệnh và có trách nhiệm ghi lại vào sổ nhật ký truyền tin tất cả những lệnh này.




Soái Hạm HQ5 Trần Bình Trọng


HQ5 rời Vũng Tàu trực chỉ đến Đà Nẳng ngày 17/1, cặp cầu Tiên Sa trước BTL/HQ/V1DH. Khoảng 7,8 giờ tối hôm đó, Đ/ tá Ngạc từ BTL/HQ/V1DH xuống chiến hạm (cùng đi với ông còn có Th/ Tá Nguyễn Chí Toàn , biệt phái đi theo Đ/Tá Ngạc như là một Sĩ Quan phụ tá) tập họp một số rất ít SQ chiến hạm trong phòng ăn SQ, phổ biến nội dung lệnh hành quân rất ngắn gọn: HQ5 và HQ10 sẽ khởi hành ngay trong đêm để tham dự hành quân lấy lại Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng. HQ16, và HQ4 đã có mặt tại vùng từ mấy ngày trước.

Về quan niệm hành quân thì cũng rất ngắn gọn và đã khiến cho chúng tôi bàn tán: "Chúng ta phải lấy lại quần đảo Hoàng Sa nhưng phải tránh tối đa đụng đô". Lúc đó chúng tôi có người nói đùa (tất nhiên cũng chỉ là nói nhỏ cho nhau nghe): muốn giành lại đất với TC mà tránh đụng độ, coi bộ không dễ!
Tuy nhiên chúng tôi cũng lờ mờ hiểu là ở cấp cao chắc có đủ dữ kiện chứng minh đó là đảo của ta, bằng đường lối ngoại giao, chính trị, ôn hòa nhưng cứng rắn, điều đình sao đó (có thể có sự can thiệp của Hoa Kỳ) để lấy lại tốt hơn là phải đụng độ với một cường quốc như Trung Cộng.
Hơn nữa, thời điểm đầu năm 1974, cuộc chiến trên đất liền với CSBV đã gia tăng nặng nề, nay nếu chủ động tạo thêm một cuộc chiến lớn nữa với TC, tất nhiên là có nhiều bất lợi. Chúng tôi chỉ được vài phút lạm bàn để hiểu thêm đôi chút vấn đề, sau đó mọi người phải trở lại ngay nhiệm sở vì đã có lệnh nhiệm sở vận chuyển.





Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ16


Trên đường di chuyển ra vùng hành quân không có liên lạc gì quan trọng đáng kề ngoại trừ thông báo cho HQ16 và HQ4 biết là HQ5 và HQ10 đang trên đường ra vùng và sẽ có mặt ở đó vào giờ G. cùng ngày.

HQ5 ra đến vùng hành quân sáng ngày 18/1/74. Nhiệm sở của tôi ở Phòng Vô Tuyến, Điện Tử và Mật Mã; tuy nhiên khi chiến hạm vừa mới nhập vùng hành quân, tình hình được mô tả là đang căng thẳng nên trong ngày hôm đó, ít nhất là vài ba lần tôi ra boong tàu quan sát.

Tôi không quan tâm nhiều về vị trí, đội hình các chiến hạm của ta trong ngày đó bởi vì thứ nhất, không phải là "job" của tôi. Thứ hai, chưa lâm chiến nên chẳng có gì đặc biệt phải chú ý. Một cách tổng quát để chúng ta dễ mường tượng, các chiến hạm di chuyển trong vùng nhưđể nói lên sự có mặt hùng hậu của mình trong vùng, như là một hình thức biểu dương lực lượng mà tôi đã từng nhìn thấy trong những lần hành quân tuần tiểu ở vùng Trường Sa trước đây.
Về phía Trung Cộng thì cũng không có chỉ dấu gì chuẩn bị cho một trận chiến sắp xảy ra. Tôi chỉ thấy có 2 chiếc tàu chiến tương đối nhỏ (mới nhìn na ná giống như trợ chiến hạm 230, 231 của ta).
Đó là các tàu chiến TC có tên là Kronstad. Xa hơn, nghĩa là gần trong bờ của các đảo có 2 đến 3 chiếc tàu nữa, hình dáng như các tàu đánh cá lớn đúng hơn là tàu chiến. Sau trận đánh tôi mới biết đó là các tàu chiến chứ không phải là tàu đánh cá có tên là MSF, hai chiếc thực sự tham gia trận đánh mang số 389 và 396.

Đến chiều ngày 18/1 thì tình hình mỗi lúc một căng thẳng hơn. Các chiến hạm TC bắt đầu tỏ thái độ ngăn cản ta rõ rệt. Có những lúc chiến hạm của ta và tàu chiến TC chỉ cách nhau vài chục hoặc vài trăm mét. Có một lúc khoảng 6,7 giờ chiều, tàu TC có dùng mũi tàu húc vào hữu hạm HQ5, gần phía mũi, ý xua đuổi ta phải đi chỗ khác, có hai tên còn mở banh ngực áo ra chỉ vào đó thách ta bắn.
Tôi đứng trên sân thượng, ngay lối đi trước cửa phòng Truyền tin và phòng Hạm Trưởng nhìn xuống thấy rất rõ, chỉ tiếc là lo quan sát trên tàu địch và mấy tên lính TC nên không ghi nhận tàu này mang số mấy. Đ/tá Ngạc có báo cáo sự kiện này về BTL/HQ/V1DH và BTL/HQ để xin chỉ thị.
Cấp trên không cho lệnh bắn, câu trả lời là phải tránh đụng độ trừ trường hhợp bất khả kháng. Thời điểm này, HQ5 đã vào nhiệm sở tác chiến từ lâu, nếu cấp trên cho lệnh đánh thì chỉ cần một hai trái 127 ly, bồi thêm vài trái 40 ly nữa là tàu này nằm im dưới lòng biển. Nhưng đáng tiếc sự việc đã không được xảy ra.

Như trên tôi đã trình bày, kể từ lúc HQ5 rời cảng Đà Nẳng ra vùng hành quân, quan niệm hành quân từ cấp cao, chưa có chỉ thị rõ ràng, dứt khoát là ta phải đánh tàu TC và chiếm lại đảo bằng vũ lực. Cho đến giữa đêm 17 rạng 18, chiến hạm mới chính thức nhận được Công Điện phổ biến Lệnh Hành Quân. Trong trận Hoàng Sa, qua hệ thống truyền tin có hai lệnh quan trọng nhất. Thứ nhất là Lệnh Hành Quân, thứ hai là lệnh Tác Xạ vào tàu TC.
Do đó tôi xin trình bày thêm về CD Lệnh Hành Quân này. Cũng nhưĐ/Tá Ngạc, tôi đã không nhớ công điện này từ giới chức chỉ huy nào gửi. Trong bài của Đ/tá Ngạc có nói theo tài liệu của Thiếu Tá Trần Đỗ Cẩm thì CD đó do BTL/HQ/V1DH gửi. CD mang số 50.356, GDH: 180020H/01/74, Mật/Khẩn Chiến Dịch .
Có lẽ Thiếu Tá Cẩm đã tìm được số CD này qua sổ lưu chuyển hoặc nhận CD vì không thấy có nội dung mà chỉ có tiêu đề.
Tuy vậy cũng rất là khả tín. Lý do cuộc hành quân Hoàng Sa được đặt dưới quyền chỉ huy của TL/HQ/V1DH nên CD ra lệnh hành quân, giấy trắng mực đen, phải do nơi đây gửi. Thư hai làĐộ Mật: CD mang 2 số đầu là 50…là CD có độ mật từ Kín trở lên Mật và Tối Mật cần phải mã hóa. Bắt đầu từ 00 giờ ngày 01 tháng 01 của năm mới, số CD loại này sẽ là 50.001.
Hôm đó là 00giờ, 20 phút ngày 18/01 nghĩa là sau 17 ngày, V1DH đã có 356 CD có độ Mật từ Kín trở lên đã chuyển đi. Tuy có hơi nhiều đối với BTL/VDH nhưng không phải là không thể có
. Nếu CD này được viết từ BTL/HQ thì con số này phải lớn hơn nhiều. Đ/Tá Ngạc cũng có nói CD này nhận được lúc 11 giờ tối ngày 18; có thể ông viết nhầm hoặc nhớ nhầm. CD có nhóm ngày giờ là 00 giờ 20 phút ngày 18, có độ khẩn là Khẩn Chiến Dịch (O) được viết gấp lúc nửa đêm mà đến 23 tiếng đồng hồ sau HQ5 mới nhận được thì không hợp lý.
CD mã hoá thường phải chuyển trên hệ thống Điện Báo hoặc Viễn Ấn chứ không chuyển trên hệ thống Âm Thoại vì tránh ghi nhần nhầm do phát âm không rõ. Do đó không thể nói vì máy Giai Tần Đơn bịồn hoặc bị phá rối nên không chuyển được sớm. Như vậy chúng ta có thể biết và tin được CD đó do chính BTL/HQ/V1DH gửi.

Tôi đã đích thân mã dịch CD này và trình ngay cho Đai Tá Ngạc và Hạm Trưởng. Nội dung cũng ngắn gọn nhưđã nói trên, chỉ khác là Lệnh Hành Quân này nó "official" hơn thôi. Và cũng ngay từ giờ phút này, Đại Tá Ngạc chỉ định tôi làm Sĩ Quan Truyền Tin cho BCH Hành Quân.

Suốt đêm 17, ngày và đêm 18/1 tôi luôn luôn điều chỉnh sẳn tất cả các máy truyền tin có công suất mạnh để Đại Tá Ngạc liên lạc. Tôi còn nhớ suốt ngày và đêm 18/1, Đại tá Ngạc liên lạc với BTL/HQ/V1DH và BTL/HQ rất nhiều lần bằng âm thoại cũng nhưđiện báo. Nội dung ngoài việc báo cáo tình hình địch trong vùng, xin chỉ thị, và quan trọng hơn cả là ông muốn biết quan niệm cũng như hành động cụ thể ra sao đối với địch, đối với tình hình thực tế tại chiến trưòng. Kể từ tối 18/1 (tôi không nhớ rõ giờ) BTL/HQ yêu cầu dùng một máy truyền tin để trực 24/24 với BTTM, sẽ có chỉ thị có thể là trực tiếp cho Đ/tá Ngạc.
Có một lần liên lạc với Phòng Hành Quân/BTL/HQ, khoảng giữa đêm 18 rạng 19, Đại tá Ngạc đã yêu cầu cho gặp một vị Sĩ Quan nào đó tôi không nhớ tên, để nói chuyện với ông bằng tiếng Pháp; có lẽ ông muốn có thêm sự an toàn cho nội dung ông đang trao đổi.
Vốn liếng Pháp văn của tôi không đủ để hiểu hoàn toàn nội dung nhưng sau đóông thảo ngay một điện văn đưa cho tôi mã hóa và chuyển đi ngay. Tôi xin tóm tắt những ý chính tôi còn nhớ: Việc đánh các tàu TC thì phải đánh, nhưng rất có thể tàu chiến Komar có trang bị hỏa tiễn styk và phi cơ của họ sẽ phản công vì họở gần hơn. Ông không nghĩ là phi cơ của mình ra được, tàu mình thì không có gần trong vùng để tăng cường.
Xin cho biết có chỉ thị hay phương tiện nào khác để yểm trợ nếu địch tăng cường lực lượng để phản công. Khoảng 10 đến 15 phút sau khi bản văn đó được chuyển đi, thì có lệnh chỉ thị Đ/tá Ngạc cho các chiến hạm "cài răng lược" với các tàu địch. Thú thật ngày đó ba chữ "cài răng lược" tôi mới nghe lần đầu, thấy nó có nghĩa và hay hay nhưng cá nhân tôi nghĩ cũng không phải là cách.
Lý do trên vùng biển rộng mênh mông, chỉ có 7,8 chiếc tàu của ta và TC. Tàu TC lại nhỏ và di chuyển nhanh hơn thì cài làm sao được nếu phi cơ TC muốn oanh kích? Điều tôi muốn trình bày là cấp trên cũng đồng ý với sự dự lìệu của Đ/tá Ngạc là tàu chiến và phi cơ TC có thể tăng cường tấn công nếu cuộc chiến thực sự xảy ra mà họ bị thiệt hại nặng.
Cho dù ta có đánh thắng các tàu TC lúc này thì ta cũng khó mà giữ được các đảo. Lệnh này được chuyển đi từ TTHQ/ BTL/HQ và Đ/tá Ngạc lập tức chỉ thị lại cho các Hạm Trưởng HQ5, HQ16, HQ4 và HQ10 thi hành.
Lúc đó tôi có nhận ra dường như là tiếng nói của Đại Tá Phạm Mạnh Khuê nhưng cũng không dám hỏi Đ/Tá Ngạc vì thấy không cần thiết mà ông thì đang có nhiều suy nghĩ tính toán quan trọng. Tôi nhận ra được giọng nói Đ/Tá Khuê là vì năm 1970 khi ông làm TL/HQ/V2DH, tôi được biệt phái sang làm Sĩ Quan Liên Lạc cho Hải Đội I Hoa Kỳ, Phân Đội 14 Duyên Phòng ở CamRanh, sau đó được chuyển về làm ở phòng Phòng Hành Quân được 1 năm, rồi chuyển sang làm Phó Phòng 6/BTL/HQ/V2DH, phụ tá Đại Úy Lộc, đặc trách kỷ thuật 4 Radars TPS-62 của 4 Đài Kiểm Báo thuộc Vùng 2, nên tôi còn nhận ra được tiếng nói của ông.
Trong đêm 18 và sáng ngày 19, nghĩa là trước và trong khi đánh nhau, hệ thống truyền tin có một vai trò rất quan trọng trong việc chuyển và nhận lệnh. Sau trận chiến có tin đồn không biết phát xuất từ đâu là TC đã xâm nhập vào phá rối hệ thống Giai Tần Đơn của ta khiến cho các chiến hạm mất liên lạc nhau, chiến hạm này không biết vị trí, tình hình của chiến hạm kia, đã gây một vài ngộ nhận đáng tiếc. Tôi xin trình bày rõ thêm một chút trong lãnh vực chuyên môn này.

Máy Giai Tần Đơn (GTD) (gọi tắt là SSB=single side band, còn có tên ghi trên máy là KW-2, vì công suất chỉnh tối đa 200 Kilowatts ) có tần sốđược thiết trí sẳn trong một cục thạch anh (crystal) nên khá an toàn. Máy này có thể dùng âm thoại (voice mode) và điện báo (CW=Continious Waves, tức là dùng Morse để chuyển và nhận điện văn).
Trong bài Đại Tá Ngạc, ông thường nói ông dùng máy Siêu Tần Số SSB để liên lạc với các chiến hạm cũng như các đơn vị chỉ huy nhưng thực ra ông ít khi sử dụng máy này. Ông là SQ ngành chỉ huy tham mưu, không cần phải biết rõ máy nào, tần số nào, RF, VHF hay UHF làm chi, chỉ cần có máy thật tốt để ông liên lạc là được rối. Thực ra suốt cuộc hành quân ông chỉ một đôi lần dùng máy GTD, còn hầu hết là dùng máy CRT-3.

Lý do là cuộc hành quân Hoàng Sa không có kế hoạch hành quân nên không có Đặc Lệnh Truyền Tin, nghĩa là không có tần số riêng dành cho một cuộc hành quân. Máy GTD thì vì tốt, gọn nhẹ và tiện dụng nên hầu hết các đơn vị đều được trang bị. Riêng các BTL/HQ/VDH, các chiến hạm tuần dương đều dùng chung 1 tần số để liên lạc về TTHQ/BTL/HQ.
Do đó, các chiến hạm đang tuần tiểu xa như thuộc V2, V3 và V4DH, Vô Tuyến Viên vì không nắm vững tình hình hành quân Hoàng Sa biến chuyển quan trọng đột ngột nên đã không giữưu tiên trên tần số GDT này; vì vậy mà hệ thống có lúc ồn, liên lạc khó khăn tưởng như có người đang phá rối.

Nếu TC vào hệ thống GTD phá rối, tôi trách nhiệm hệ thống Truyền Tin cho BCH/Hành Quân, tôi và các trưởng phiên Vô Tuyến trực 24/24 trên các hệ thống máy VRC-46, GTD và CRT3, tất nhiên tôi phải biết. Tôi xác nhận không có chuyện TC vào phá rối hệ thống GTD trong trận Hoàng Sa và tần số của máy này vẫn còn sử dụng an toàncho đến tháng 4 năm 1975.

Trở lại diễn biến trong đêm 18/1, kể từ sau khi lệnh "cài răng lược" được ban hành vào lúc nửa đêm, từ đó về sáng tình hình chiến trường khá yên tỉnh mặc dù nhiệm sở tác chiến vẫn được duy trì. Tưy nhiên song song với sự yên tỉnh đó thì toán Hải Kích Người Nhái trên HQ5 đã âm thầm chuẩn bị để đổ bộ lên đảo Quang Hoà vào lúc gần sáng.
 Sau khi toán Hải Kích rời HQ5 khoảng hơn 1 giờ, Đ/Tá Ngạc hấp tấp vào phòng Vô Tuyến bảo tôi đưa máy cho ông liên lạc về BTL/HQ/V1DH. Qua liên lạc của ông với BTL Vùng, tôi biết được toán Hải Kích đổ bộ bất thành, một Sĩ Quan và một Hạ Sĩ bị tử trận. Gần đây đọc tài liệu của Đ/Tá Ngạc tôi mới nhớ ra vị Sĩ Quan đó tên Đơn và viên Hạ Sĩ tên Long.
Ông đang cho lệnh toán Hải Kích rút ra lại HQ5. Sở dĩ cho đến lúc này tôi mới biết được tin trên là vì toán Hải Kích liên lạc ra chiến hạm với Đ/Tá Ngạc bằng máy PRC-25 đặt trên đài Chỉ Huy, còn tôi thì túc trực trong phòng Vô Tuyến, không có trang bị máy này. Khi toán Hải Kích này trở ra HQ5, tôi có chạy ra sau lái xem. Lúc dó khoảng 8 đến 9 giờ sáng. Họ có khoảng hơn 1 tiểu đội. tất cả đều mệt mõi và ai cũng đói, móc vội lương khô ra ăn.

 Khi viên Sĩ quan trưởng toán (tôi nhớ là Tr/úy nhưng tài liệu Đ/Tá Ngạc viết là Đại Úy, có lẽ tôi nhớ nhầm) báo cáo với Đ/tá Ngạc, tôi không có mặt nhưng sau đó, một vài SQ chiến hạm, trong đó có tôi đến hỏi thăm.

Vị SQ này, miệng đang nhai miếng thịt 3 lát nguội, kể lại mà như còn đang bực tức: "Không biết tin tình báo lấy ởđâu mà cho chúng tôi biết chỉ có 1 tiểu đội. Chúng nó đông lắm, dàn hàng ngang trên bờ tay cầm dao găm đuổi bọn tôi đi không cho lên bờ chứ chưa muốn dùng súng. Thằng Long và Thiếu úy (Tr/Úy) Đơn bị tụi nó bắn chết vì rút súng ra bắn tụi nó trước.

Tôi ước lượng phải trên 1 đại đội, có nhiều công sự phòngthủ kiên cồ lắm. Tụi nó ép chúng tôi rút lui. Nhục đếch chịu được!" Những điều viên Sĩ Quan này nói, đúng hay sai bao nhiêu phần trăm, chúng ta không ai biết, nhưng ít ra cũng đáng tin cậy hơn những người không tham dự suy đoán là TC trên đảo Quang Hòa chỉ có 1 tiểu đội. Toán Hải Kích này ở lại HQ5 cho đến khi đánh nhau, có ít nhất là 2 người bị thương trong khi tải đạn 127 ly cho HQ5 từ dưới hầm lên.

Trong suốt đêm 18, tôi hầu như túc trực bên cạnh Đại Tá Ngạc. Tôi còn nhớ mỗi lần liên lạc xong Đ/tá Ngạc có vẽ đăm chiêu suy nghĩ và thường quay qua tôi hỏi xin một điếu thuốc nhẹ. Ông không phải là người hút thuốc thường nên mỗi lần như vậy ông chỉ hút vài ba hơi là dụi tắt.
 Suốt thời gian này, tôi có nhận xét ông rất suy tư nhưng cũng rất bình tỉnh; cái bình tĩnh cần có và thường thấy ở những sĩ quan đang có trách nhiệm phải đối phó với những vấn đề khó khăn, quan trọng.




Tổng chỉ huy cuộc hải chiến Hoàng Sa,
Đại tá HQ/VNCH Hà Văn Ngạc

Sau đây là một đoạn Đ/tá Ngạc nhận lệnh thượng cấp mà tôi còn nhớ để độc giã nhận định, và cũng là lý do khi vào bài tôi có nói Đ/Tá Ngạc vì lý do tế nhị nào đó đã không kể lại hết.

Vào khoảng 9-10 giờ sáng ngày 19/1/1974, sau khi Đ/Tá Ngạc báo cáo toán Hải Kích đổ bộ bất thành, đã rút hết về tàu chứng 15 phút, trên hệ thống âm thoại của máy CRT-3, Đai tá Ngạc đã nhận lệnh như sau:

- India Whisky, (Danh hiệu của Đại tá Ngạc trong cuộc hành quân này là XNIW) Có lệnh mới cho anh: TÁC XẠ THẲNG VÀO ĐẢO VÀ CÁC CHIẾN HẠM ĐỊCH. Lệnh không nói rõ là đảo nào nhưng ta phải hiểu là đảo Quang Hòa vì trước đây vài giờ Đại tá Ngạc có báo cáo cuộc đổ bộ bất thành, một Sĩ quan Hải Kích và một Hạ Sĩ bị tử trận. (Năm 1987 nhân dịp qua Dallas thăm gia dình một người bạn, tôi có gặp Đ/Tá Ngạc một lần, khi tôi nhắc lại danh hiệu này, sau vài giây suy nghĩ ông nhớ ra và vỗ vai tôi : chú mày có trí nhớ thật tốt).

Đại tá Ngạc:
- Nhận rõ. Ông quay sang tôi bảo liên lạc lên phòng CIC (phòng hành quân của chiến hạm) bằng điện thoại nội bộ, cho ông biết vị trí chính xác hiện tại của HQ16, HQ10 và HQ4 ngay, vì gần 1 giờ qua ông túc trực liên lạc với các giới chức cao cấp trong phòng Vô Tuyến. Tôi mới vừa nhắc điện thoại lên chưa kịp gọi, thì máy bên kia lên tiếng tiếp:
- IW, anh nghe tôi được bao nhiêu?

- 3/5 (chú thích: trong ngành truyền tin, nghe 3/5 là đủ tốt để liên lạc nhau)
- Tốt. Tôi lập lại, anh tác xạ thẳng vào đảo và các chiến hạm địch. Làm ngay đi.
Đại tá Ngạc ngập ngừng vài giây hình như lựa lời, đáp:

- Tôi được chỉ định là Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Nhiệm Hành Quân tại chiến trường. Đánh thì tôi nhận rõ và thi hành, nhưng đánh vào lúc nào thuận lợi nhất thì cho tôi bố trí và quyết định.

- Tôi lập lại lần cuối, đây là lệnh tối hậu và cuối cùng, tác xạ ngay vào đảo và chiến hạm địch. Bấm ống nói cho tôi nghe tiếng súng nổ của anh.
Tôi thấy Đ/tá Ngạc hơi một thoáng ngạc nhiên, bực tức, có thể nói là bất bình nhưng rồi ông cũng đáp nhanh:

- Tôi nhận rõ.
Ông quay sang tôi: chuyển một máy nào tốt nhất lên đài chỉ huy ngay cho tôi. Ông đi vội lên đài chỉ huy. Ông dùng cái hand set của máy CRT-3 mà tôi đã mắc vào hộp viễn khiển (remote) cho Hạm Trưởng dùng, ra lệnh cho các chiến hạm tác xạ vào đảo và các tàu TC. Khi Đ/Tá Ngạc ra lệnh khai hỏa, qua máy thu từ phòng Vô Tuyến, tôi nghe được ông đã chỉ thị cho tất cả các chiến hạm của ta cùng lúc khai hỏa.

Tuy nhiên tôi không thể nào biết được chiến hạm nào của ta đã khai hỏa trước vì nhiệm sở của tôi không đứng trên đài chỉ huy để có thể quan sát mà ghi nhận nhưng điều tôi chắc chắn là chiến hạm ta đã bắn trước rồi TC mới bắn trả lại sau. Điều này rất dễ hiểu và dễ nhớ là nếu tàu TC bắn ta trước rồi ta mới bắn lại vì tự vệ hay vì đề phản công thì đã không có phần đối thoại giữa Đ/Tá Ngạc và cấp chỉ huy như tôi vừa kể trên.

Lệnh chỉ thị cho Đ/tá Ngạc "khai hỏa" bắt đầu một cuộc hải chiến có tầm mức quan trọng trong lịch sử hải chiến của HQVN, nay tuy đã 30 năm nhưng tôi vẫn chắc chắn là nhớ đúng nội dung 100%. Có điều lệnh này từ BTL/HQ/V1DH, BTL/HQ hay BTTM thì tôi không thể nhớ chắc. Nhật ký truyền tin đương nhiên ghi rất rõ giới chức chuyển, nhận lệnh và nội dung nhưng thường thì hầu hết ghi bằng danh hiệu theo đặc lệnh truyền tin; do danh hiệu sử dụng ta có thể biết được giới chức đó là ai.

 Lúc Đ/Tá Ngạc nhận lệnh khai hỏa, tôi đứng bên cạnh cứ đinh ninh là ông đã biết ai đang ra lệnh cho ông nên tôi cũng không thắc mắc. Trong tài liệu Đ/Tá Ngạc, ông nói cho đến nay (lúc ông viết tài liệu cách đây hơn 5 năm) ông vẫn chưa biết là TL/HQVN hay TL/HQ/V1DH đã ra lệnh khai hỏa này.
Tuy vậy ông vẫn tin là của Tư Lệnh Hải Quân mà ông đã quen thuộc giọng nói. Trong tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa, bài của cựu Thiếu Tá Trần Đỗ Cẩm, trang 63 có nói gần đây trong một cuộc phỏng vấn Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, TL/HQ/V1DH, Phó Đề Đốc Thoại có tiết lộ là chính ông đã ra lệnh khai hỏa đúng theo chỉ thị của Tổng Thống Thiệu. Như vậy chúng ta đã có câu trả lời. Trong bài Đ/Tá Ngạc chỉ nói vắn tắc là lệnh "khai hỏa" thôi, không nói rõ là lệnh phải tác xạ vào ĐẢO và CHIẾN HẠM địch; ông cũng không nói lệnh bắt buộc ông phải bắn ngay, bấm ống nói cho giới chức ra lệnh nghe tiếng súng nổ mà không cần biết vị trí, khoảng cách của chiến hạm ta và địch ra sao! cũng không cho ông có thời gian bố trí để có được yếu tố thuân lợi nhất?
Trong khi hai điều này lại là mấu chốt của vấn đề đưa đến kết quả của trận đánh như chúng ta đã biết. Ngay sau trận chiến kết thúc, anh em SQ gặp nhau, không phải là trong buổi họp để nhận xét ưu, khuyết điểm mà chỉ là thăm hỏi để biết thêm những lãnh vực không phải trách nhiệm của mình, tôi được biết trong những phút đầu khai chiến, chiến hạm ta có tác xạ vào đảo Quang Hòa.
Nghĩ lại những giây phút đầu, súng HQ5 đồng loạt nổ đều nhưng thiệt hại của địch chẳng những không nhiều mà địch còn đủ sức tấn công lại mạnh mẽ. Có phải vì ta đã không tập trung hỏa lực vào một mục tiêu chính để khóa chặt hoặc ít ra cũng giảm bớt được khả năng hỏa lực chính của địch?
Thứ hai, nếu cấp trên quyết định đánh thì trong hai ngày qua có rất nhiều lúc thuận tiện để ta đánh chìm tàu địch như trên tôi đã trình bày hoặc cho quyền Đ/Tá Ngạc tùy tình hình tại chỗ mà quyết định đánh thì chắc chắn kết quả phải khác. Phòng Hành Quân V1DH tất nhiên có theo dõi, ghi nhận vị trí của các chiến hạm ta và địch nhưng không thể nào chính xác ở ngay thời điểm đó được.

Chiến hạm ta và địch đang di chuyển trên biển chứ không phải đứng yên một chỗ, điều này ai cũng biết, chỉ cần 5, 10 phút sau là vị trí và khoảng cách thay đổi khác xa, ít nhất là không còn thuận lợi nếu chúng ta muốn "tiên hạ thủ vi cường". 30 năm qua, những khi có dịp đề cập hoặc hồi tưởng lại trận chiến, tôi không khỏi tiếc và bực tức…chúng ta không có được kết quả khác hơn là do "tacticks" tấn công từ cấp trên chỉ thị chứ không phải do hỏa lực của ta lúc đó yếu hơn TC hoặc do các chiến sĩ tham dự trận đánh đã không chiến đấu hết mình.





Tổ Quốc ghi nhớ ngày khai trận Hoàng Sa cũng là ngày Giỗ Hạm trưởng Cố Trung Tá Ngụy Văn Thà , Phó hạm trưởng Cố Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cùng Thủy thủ đoàn Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, HQVNCH mãi mãi ở lại với Hoàng Sa.


Trở lại thời điểm khi bắt đầu "khai hỏa" cho đến khi kết thúc. Khi các chiến hạm của ta đồng loạt tác xạ vào tàu TC thì các tàu TC ngay lập tức bắn trả lại dữ dội. Sau khoảng hơn 15 phút hai bên đánh nhau, qua hệ thống liên lạc tôi biết được HQ10 bị trúng đạn nặng đang sắp bị chìm.
 Tình hình HQ10 chắc là rất nguy kịch nên không thấy báo cáo chi tiết thêm sau đó, HQ5 thì đang tác chiến nên cũng không có thời giờ theo dõi để biết được gì thêm .
 Kế đó lại nhận được tin HQ16 bị trúng đạn, nước vô nhiều, tình trạng gần như mất khả năng chiến đấu. Riêng HQ5 lãnh đạn TC đến độ tôi đã có cảm tưởng HQ5 là cái bia cho chúng bắn.
Một trái đạn 100 ly xuyên phá đi qua thành tàu vào phòng Vô Tuyến, ngay dưới chân tôi, phá nát bàn sắt làm việc mà tôi đang đứng tựa để tiện giữ một lúc hai ống liên hợp mà liên lạc. Một trái đạn khác chắc không phải loại đạn xuyên phá vào phòng Viễn Ấn phụ (đục băng) và chứa các máy tốt dự trữ sát cạnh phòng Mật mã.
 Nghe tiếng đạn chạm mạnh vào thành tàu (phía hữu hạm) và điện lóe sáng trong phòng, tôi hét lên: "nằm xuống". Tất cả nhân viên Vô Tuyến, Điện Tử và Mật Mã có nhiệm sở trong phòng đều nằm xuống sàn trong tư thế hít đất. Vài giây sau không thấy đạn nổ, tôi nhận ra viên đạn đã nổ khi chạm vào thành tàu, mãnh đạn bay vào phòng cắt các dây điện, ánh sáng loé mạnh lên.
Tôi ra lệnh đóng các cầu dao điện và dùng bình CO2 chữa ngay những chỗ đang bốc khói sắp cháy. Liền đó thì phòng Điện tử sau lái báo cáo Thượng Sĩ ĐT Nguyễn Phú Hảo, phụ tá ngành Điện Tử của tôi bị đạn chết ngay tại nhiệm sở; kế đến là kho Điện Tử dưới hầm, sát ngay kho đạn 127 ly cũng bị đạn đang bốc cháy, cần phải được chữa gấp để kho đạn không bị nóng và phát nổ. Tôi đang phân vân không biết nên chạy ra sau lái xem tình trạng của Th/sĩ Hảo hay chạy xuống kho Điện Tử để tham gia chữa cháy thì phát hiện các máy phát của tôi bỗng nhiên mất công suất.
Tôi xem xét thật nhanh, máy có điện đầy đủ nhưng chỉnh hoài công suất không lên nổi. Tôi quay sang Th/sĩ Tốt, phụ tá ngành Vô Tuyến của tôi, bảo: Anh chạy ra nhìn lên hộp Antenna coupler trên sân thượng xem có sao không? Anh vừa chạy ra khỏi phòng chừng vài bước là nhào vô lại liền:
- Đạn bắn dữ quá, Tr/sĩ Quang bị thương nặng hình như là chết rồi. Không chạy ra ngoài nhìn lên được.

- Còn ai ở đó tiếp tục bắn không?
- Có, nhưng đang kéo T/S Quang vô, sợ rớt xuống biển.
- Ra phụ với họ một tay.
Tôi và hai nhân viên Vô Tuyến chạy ra phụ kéo xác T/S Quang vào hành lang.
T/S Quang là trưởng khẩu 20 ly , súng đặt ngay gần cửa hành lang phòng Hạm Trưởng và phòng Vô Tuyến phía bên hữu hạm.
Trong lúc đang bối rối nhưng tôi lại nhận ra được là đạn địch bắn rát bên hữu hạm, phía tả hạm hình như không có. Bên tả hạm lại có cầu thang bước lên phòng CIC và đài chỉ huy.
 Tôi chạy ra lối này, đứng cạnh la bàn đo phương vị nhìn lên sân thượng sau lái, cột antenna to bằng bắp tay của máy GTD bị trúng đạn ngã nghiêng, hộp antenna coupler dùng cho dàn máy CRT-3 bị bê, tuy ở xa nhưng thấy rất rõ.
Không thể sửa chữa gì được lúc này, tôi chạy trở lại phòng Vô Tuyến sử dụng máy VRC-46 để liên lạc. Máy này tuy có tầm liên lạc ngắn hơn máy GTD nhưng cũng sử dụng rất tốt. Tôi ghi vào nhật ký truyền tin:
191040H/01/74 Máy phát KW-2 và CRT-3 mất công suất vì Antenna cả 2 máy bị trúng đạn gãy và bể. Đến nay tôi vẫn còn nhớ được lúc đó là 10 giờ 40 phút là vì khi chiến hạm về SaiGon, toán An Ninh Truyền Tin có xuống chiến hạm xem nhật ký và hỏi tôi cặn kẽ lý do mất liên lạc trong thời gian hơn 2 tiếng đồng hồ cũng như có nghe được TC vào phá rối hệ thống hay không?
Tôi đã giải thích và sau khi xem xét hộp và cột antenna, họ thỏa mãn. Toán An Ninh Truyền Tin (kiểm thính) nói HQ5 mất liên lạc hẳn nhưng thực ra HQ5 vẫn liên lạc được với các chiến hạm, BTL/HQ/V1DH và một Duyên Đoàn thuộc Vùng 1 nhờ chuyển tiếp bằng máy VRC 46 là vì toán Kiểm Thính ở SaiGon (trong Sở Hoàng Hà, trại Cửu Long, Thị Nghè) không nghe được nổi tín hiệu HQ5 trên máy VRC-46.

Ngay khi các máy truyền tin của tôi bị mất công suất, nhiều lúc tôi ngạc nhiên tại sao nghe tiếng đạn tàu của mình bắn ít đi, mà đạn TC cứ bắn trúng vào tàu mình ầm ầm càng lúc càng nhiều. Sốt ruột, tôi bốc điện thoại gọi lên đài chỉ huy hỏi thăm, một Sĩ quan trên đó trả lời (nếu tôi nhớ không lầm thì người này là Tr/úy Thục):
- Con gà lớn (127 ly) của mình bịđạn mất điện mẹ nó rồi, thằng Đồng chết trong pháo tháp đang mang xác nó ra. Đang quay bằng tay đây làm sao bắn nhanh được.
- Còn tụi nó có thằng nào bị không?
- Một thằng sắp chìm, khói bốc đen sau lái đang bò vào gần đảo kìa.

Tôi chạy nhanh ra hành lang nhìn vào, đúng như anh ta nói. Tàu TC bị đạn này chỉ cách chúng tôi không đến 2 hải lý bởi vì bằng mắt thường tôi thấy rất rõ tuy rằng không nhìn thấy được số tàu và thành thật mà nói, lúc đó tôi cũng không biết có phải do HQ5 bắn hay không?
Tàu nào bắn trúng cũng được miễn tụi nó có một thằng chìm là mừng rồi. Sau đó vài phút tôi nghe đạn hai bên bắn nhau đã giảm đi nhiều. Khi quay lại để trở vào phòng nhiệm sở, có thời giờ quan sát kỹ tôi mới thấy hành lang xuống phòng ăn SQ tối om.
Tôi chạy nhanh xuống cầu thang nhìn qua các phòng khác, tất cả đều tối. Không phải là lệnh "làm tối chiến hạm" cho địch khỏi nhìn thấy vì là ban ngày mà. Tôi biết là bị mất điện. Tiện chân tôi chạy xuống phòng ngủ đề lấy bao thuốc lá vì đã hết sạch từ sáng. Phòng ngủ ngập nước và tối quá không thấy đường đi, tôi đành quay trở lên.
 Khi vào lại phòng Vô Tuyến, điện trong phòng không bị mất, tôi có bụng mừng là máy VRC-46 vẫn còn liên lạc được nhưng cũng không kịp thắc mắc.

Thời gian hai bên đánh nhau khoảng 45 phút. Khoảng 15 đến 20 phút sau cùng, khả năng tác chiến của 3 chiến hạm còn lại của ta yếu hẳn. Các chiến hạm TC cũng không thấy bám theo bắn ta nhiều như lúc khởi đầu. Tôi đang tham gia trận chiến nhưng không phải là SQ chỉ huy trận chiến, cũng không phải là xạ thủ.
 Nhiệm sở của tôi trong phòng Vô Tuyến như một chuyên viên, chỉ có duy nhất khẩu colt 45 bên hông để chỉ huy nhóm nhân viên trực thuộc phòng khi có tên nào nổi loạn hay sợ quá, bựa ra không nghe lệnh, nên khi hai bên đánh nhau, đặc biệt là lúc gần cuối trận chiến, tôi có cái cảm giác và cảm tưởng rất lạ khó quên.

Cảm giác là sợ và mong cho cuộc chiến sớm chấm dứt, hoàn toàn không giống như bản tính của tôi và cũng không giống như trước kia khi tôi ở Duyên Đoàn 21, hành quân án ngữ vùng An Vũ, Song Võ, Bình Định và cũng như lúc ở Duyên Đoàn 26 đưa trung đội đi hành quân phối hợp với Bộ Binh đụng trận ở mật khu Vĩnh Hy.
Trận đánh chấm dứt tôi hiểu ngay lý do là vì đánh nhau, địch bắn ầm ầm mà tôi không có súng để bắn lại cũng không được đứng chỉ huy, chỉ ngồi trong phòng giữ mấy cái máy liên lạc, không có hành động gì chống trả cho nóng người nên thấy thiếu an toàn, mất tự tin. Nghĩ mà phục cho mấy ông, bà phóng viên chiến trường. Và, khi hai bên thôi không bắn nhau, tôi có cảm tưởng như cả ta và địch vì đều bị thương nặng, đã đuối sức, không bên nào muốn tiếp tục đánh nhau nữa, cả hai đều tự động rút lui dần ra khỏi vòng chiến.

Liên quan đến việc các chiến hạm rút ra khỏi vòng chiến, trong bài của Đai Tá Ngạc có hai điều quan trọng tôi thấy không ổn.






Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4


Thứ nhất: Khi đánh nhau, khẩu 76 ly của HQ4 bị trở ngại tác xạ bao nhiêu lần, thời gian tổng cộng bao nhiêu lâu tôi thực sự không biết rõ vì có thể HQ4 liên lạc với Đ/Tá Ngạc bằng máy PRC-25 trên đài chỉ huy.
Nhưng nếu nói trong khi lâm chiến mà HQ4 cứ vài phút xin bắn thử, mà lại gọi xin bắn thử đến ba lần thì nghe không ổn. Đang đánh nhau, súng bi trở ngại thì sửa, có thể báo cáo ngay cho cấp chỉ huy biết, sữa xong thì nhắm vào tàu địch mà bắn tiếp may ra được viên nào đở viên đó chứ sao lại cứ xin bắn thử? Bắn thử nghĩa là bắn không nhắm mục tiêu, mà lại xin bắn thử đến ba lần.

Thứ hai: Đaị Tá Ngạc thấy HQ4 bị trở ngại tác xạ và bị thiệt hại nhiều nên ông đã ra lệnh cho HQ4 rút ra khỏi vòng chiến ngay? Thời gian hai bên bắn nhau dữ dội nhất là từ phút khởi đầu cho đến nửa giờ sau. HQ4 có bị thiệt hại nặng thì bị trong khoảng thời gian này, đây cũng là thời gian mà máy PRC-25 của HQ5 trên đài chỉ huy bị trúng đạn bể.
Nếu Đ/Tá Ngạc ra lệnh cho HQ4 rút lui ra khỏi vòng chiến thì phải xuống phòng CIC dùng máy VRC-46 để chỉ thị, và như vậy tôi phải nghe được vì 15-20 phút sau cùng tôi chỉ còn có máy này để liên lạc và luôn luôn trực 24/24. Nếu thực sự Đ/Tá Ngạc chỉ thị cho HQ4 rút lui, thì HQ4 cũng chẳng có tội tình gì vì chỉ thi hành lệnh của Đ/Tá Ngạc, tôi không có nhu cầu gì phải giải thích giùm nhưng thực sự tôi không nghe lệnh quan trọng này.


KTH Trần-Khánh-Dư HQ-4 đang một mình tả-xung hữu-kích giữa Hạm-Đội Trung-Cộng: 271/274/396 “tập-trung cận-xạ”.

Bài viết trích đăng Hồi-ký của Tổng Chỉ-Huy TC Nguỵ-Minh-Sâm được Quân-Ủy Trung-Cộng cho phép lên mạng




Ngay sau khi trận chiến chấm dứt, bất cứ một Sĩ Quan dù thuộc ngành chuyên môn nào, cũng muốn biết lúc đánh nhau, vị trí của ta ở đâu, địch đã bố trí như thế nào và có bao nhiêu thiệt hại ?
 Tôi và một vài Sĩ Quan không có nhiệm sở trên đài chỉ huy hoặc không ở những vị trí thuận tiện quan sát chiến trường cũng rất muốn biết. Đến nay tôi chỉ còn nhớ được một số yếu tố quan trọng.
Lúc đánh nhau, HQ4 và HQ5 ở về phía Nam đảo Quang Hoà. HQ16 và HQ10 ở về phìa Bắc. HQ 4 và HQ5 trách nhiệm hai tàu Kronstad 271 và 274 của địch vì hai tàu này đang có mặt án ngữ cạnh đảo phía Nam. HQ16 và HQ10 trách nhiệm tàu 396 và 389 phía Bắc.
Khi tàu về đến Đà Nẳng biết tin HQ16 bị trúng một trái đạn 127 ly, chúng tôi cũng đã ngờ rằng trái đạn này của HQ5 bắn nhầm, lý do rất dễ hiểu là vì chỉ có HQ5 và HQ16 có súng 127 ly. Liên hệ đến vị trí chiến hạm lúc đánh nhau, tôi thấy nếu HQ5 có bắn nhầm HQ16 cũng là điều dễ hiểu.
 Viên đạn này có sác xuất rất cao xảy ra khi khẩu 127 ly của HQ5 bị hỏng hệ thống điện, phải quay bằng tay. Tàu địch thì nhỏ và di chuyển nhanh, sóng biển lúc đó chỉ là cấp 1, cấp 2 thôi nhưng cũng đủảnh hưởng đến độ cao thấp của tầm đạn vì vậy mà viên đạn có thể đã trượt khỏi tàu TC mà trúng vào HQ16.

Liên quan đến Công Điện báo cáo sơ kết về BTL/HQ/V1DH và BTL/HQ, một các tổng quát tôi có thể tóm tắt: Về nhân sự có HQ Tr/úy Nguyễn Văn Đồng trưởng khẩu 127 ly tử trận (Tr/Úy Đồng khoá 24 VBDL chuyển sang Hải Quân. Thỉnh thoảng anh có viết cho tập san Đa Hiệu và báo ngoài một vài truyện ngắn và thơ, bút hiệu là Trầm Kha. Tài liệu hầu hết đều ghi là Th/Úy.
Lý do anh mới được thăng cấp Tr/Úy 2 hôm trước khi tàu ra vùng hành quân, chưa được gắn lon. Anh và Tr/Úy Lê Viết Phú cùng khóa, cùng thuyên chuyển xuống HQ5, thăng cấp cùng ngày. Cả hai đều ở chung phòng ngủ với tôi nên tôi nhớ rõ). Th/tá Toàn bị thương nhẹ (tôi có thấy ông đi cà nhắc khi rời chiến hạm. Thực ra từ khi ông xuống chiến hạm, biết là ông theo Đ/tá Ngạc như là một phụ tá hành quân nhưng trước và trong trận chiến, tôi không gần ông nên không biết rõ nhiệm vụ cụ thể của ông là gì).
Th/sĩ ĐT Nguyễn Phú Hảo, Tr/sỉ TP Quang (tôi quên họ) tử trận. Khẩu 127 ly bị hỏng hệ thống điện phải quay bằng tay. Khẩu 40 ly sau lái bị bị bể hộp cơ bẩm. Kho điện tử cháy, thiệt hại 50% phải xả nước vào làm nguội để tránh kho đạn 127 ly bên cạnh bi phát nổ. Những nơi tàu bị trúng đạn, tôi không nhớ rõ con số chính xác nhưng chắc chắc phải từ 50 đến 100 chỗ bị trứng đạn lớn nhỏ. Riêng đài chỉ huy không thôi cũng đã có 4,5 lổ đạn lớn và trên 10 lổ đạn nhỏ phá thủng .
 Tôi đã rất ngạc nhiên là không ai ở nhiệm sở này bị thương, đúng là "đạn tránh người". Về số người bị thương không dưới ba người. Máy điện bị hỏng, trưa đó không cóđiện để nấu ăn, phải ăn lương khô. Đại Úy Lê Khắc Nguyền, Cơ Khí Trưởng (nếu tôi nhớ không lầm thì ông từ Hàng Hải Thương Thuyền chuyển qua) khi sửa xong hệ thống điện và máy tàu, ông bước vào phòng ăn SQ, ông vốn mập và to con, từ đầu đến chân đầy cả dầu mỡ, chúng tôi nói đùa: Hôm nay mới biết tại sao người ta gọi mấy ông Cơ Khí là con heo dầu. Đại Úy Nguyền đã được gắn lon Th/tá ngay khi tàu về cặp cầu A SaiGon, bên cạnh HQ16, cặp ở cầu B.

Với sự thiệt hại và khả năng chiến đấu như trên, Đ/Tá Ngạc đã xin lệnh rời vùng hành quân. CD này chuyển về một Duyên Đoàn thuộc Vùng I DH (tôi không nhớ Duyên Đoàn nào) yêu cầu chuyển tiếp về BTL/HQ/V1DH, nôi đây sẽ chuyển tiếp về BTL/HQ. CD có độ khẩn là Thượng Khẩn (Y), chuyển đi lúc khoảng 12 giờ trưa nhưng chờ mãi đến sau 3 giờ chiều không thấy trả lời. Lúc đó, các antenna của HQ5 đã được tạm thời sửa chữa, máy hoạt động lại.
 Tôi đích thân lên máy gửi CD này lại một lần nữa, sau đó khoảng nửa giờ, có CD cho lệnh HQ5 rút ra khỏi vùng hành quân. Công tác mới là tìm kiếm dấu vết và thủy thủ đoàn HQ 10. Sau hơn 1 ngày đêm tìm không thấy có dấu vết gì, chiến hạm được lệnh về Đà Nẳng để tiếp tế và sửa chữa.

Chiến hạm về đến Đà Nẳng tối 30 sáng mùng 1 Tết. Ngay sáng đó, tôi có thấy TL/V1CT, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng xuống thăm. Tất cả Sĩ Quan, HSQ, Đoàn Viên chiến hạm cấp tốc sửa chữa hư hỏng, nhận tiếp tế và đặc biệt là di chuyển tất cả đạn 127 ly trên sàn tàu xuống lại nơi an toàn vì nghe đâu sẽ có lệnh trở ra lại vùng hành quân. Số đạn được mang từ dưới hầm tàu lên quá nhiều chưa bắn hết vì súng bị hỏng, có thể bị trúng đạn địch phát nổ. Đã có 2 nhân viên vừa mệt, vừa đói ngất xĩu trên boong tàu vào sáng ngày mùng một Tết này.

Sau khi tạm sửa chữa những nơi hư hỏng nặng, nhận tiếp tế xong, HQ5 được lệnh trực chỉ Trường Sa để tham dự hành quân Trần Hưng Đạo 48, dười quyền chỉ huy của Đại Tá May cho đến sau Tết hơn 1 tháng, chiến hạm mới được về Sai Gon để tiếp tục sửa chữa gần 2 tháng nữa.

Tại SaiGon, HQ5 đậu ở cầu A, HQ16 đậu ở cầu B cách nhau không quá 200 mét. Chúng tôi được biết HQ16 được tổ chức tiếp đón trọng thể lúc mới về đến, thương tích còn đầy mình. Chúng tôi thấy hãnh diện lây vì mình cũng là thành viên tham dự trận đánh.
Riêng HQ5 về trễ hơn 1 tháng nhưng cũng đãđược BTL chiếu cố, tuy hơi muộn màng. Nhiều người được đề nghị thăng cấp và huy chương do công trận Hoàng Sa, nhưng không hiểu tại sao đã không được cứu xét nhanh chóng (ngoại trừ Đại Úy Nguyền) mà mãi đến cuối năm mới có lệnh được thăng cấp như là thăng cấp thường niên. Nhiều phái đoàn dân sự xuống thăm viếng, ủy lạo, kết thân.
 Nhiều tiền ủy lạo nhất hình như là hãng Vishipcoline, nhiều nhóm kết thân nhất là trường Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm. Bên cạnh một chút hãnh diện, một chút niềm vui, an ủi nho nhỏ đó, chúng tôi nhiều lúc cũng không khỏi suy tư, ray rứt về trách nhiệm của mình là đã không giữ được nổi quần đảo Hoàng Sa, vùng đất tuy xa xôi nhưng từ thời cha ông đã có được chủ quyền, nằm trong vùng lãnh hải của đất nước Việt Nam thân yêu.

Kỷ niệm húy nhật Đức Trần Hưng Đạo, năm 2004
Hồ Hải



( Tân Sơn Hòa chuyển )


Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link