Saturday, June 21, 2014

Hình Ảnh Đêm Thắp Nến Cầu Nguyện Cho Quê Hương Việt Nam - 20 tháng 6


On Saturday, 21 June 2014 5:53 PM, "Cao Minh Hung  wrote:


 
Kính gửi quý vị và các anh chị một số hình ảnh "Đêm Thắp Nến Cầu Nguyện Cho Quê Hương Việt Nam" trong link bên dưới:




Thân kính,
Cao Minh Hưng
-------------------------------------
Trích một số hình ảnh từ album này:

 Hình Ảnh Đêm Thắp Nến Cầu Nguyện Cho Quê Hương Việt Nam - 20 tháng 6



Linh mục Mai Khải Hoàn

Đại diện các tôn giáo thắp nến


Ban Hợp Ca CLB Tình Nghệ Sĩ trong Đêm Thắp Nến.  
Hàng trước, từ trái: Tân Hương, Ý Thu, Hoàng Nga, Thuý Quỳnh, Ngọc Bích, Mỹ Dung, Thanh Thanh, Thanh Vân, Thùy Châu, Đinh Hạnh, Thùy Liêm, Mến Bùi, Ninh Thuận, Mỹ Liên.
Hàng sau, từ trái: Cao Minh Hưng, Phạm Hoàng, Phạm Ngọc Lân, Hạnh Cư, Bình Trương, Huỳnh Anh.     



Các hội đoàn và đồng hương tham dự rất đông


Ban Tù Ca Xuân Điềm



Tập hát lần cuối trước khi trình diễn...



2014-06-19 12:57 GMT-07:00 Cao Minh Hung 
Kính gửi quý vị và các anh chị,

Xin kính chuyển lời mời tham dự Đêm Thắp Nến của Linh mục Mai Khải Hoàn.

Ban Hợp Ca của CLB TNS cũng sẽ tham dự  cùng với các hội đoàn khác với những bản nhạc hùng ca như "Cả Nước Đấu Tranh", "Vì Sao", "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ", "Việt Nam Việt Nam".  

Kính mời quý vị và các anh chị đến tham dự để cùng thắp lên những ngọn nến cầu nguyện cho quê hương Việt Nam.

Thân kính,
Cao Minh Hưng


Hà Nội: Biểu tình chống Hoa Lục chưa nổ ra, an ninh đã đàn áp


Hà Nội: Biểu tình chống Hoa Lục chưa nổ ra, an ninh đã đàn áp
Đăng ngày: 19.06.2014 , Mục: - Tin nổi bậtTin Việt Nam

Vận động nhân quyền cho Việt Nam


VRNs (19.06.2014) - Sài gòn – Phóng viên VRNs có mặt tại Hà Nội cho biết: ” Vào lúc 16 giờ, tại công viên Lênin, một số anh chị em No – U có mặt, để biểu tình phản đối Hoa Lục đưa giàn khoan thứ 2 ra Biển Đông. Cuộc biểu tình vừa nổ ra được 5 phút thì an ninh mặc thường phục đã vây kín và bắt giữ một số anh chị em đứng đầu đoàn biểu tình”.
“Những người bị giữ bao gồm: ông Anh Chí (tức Nguyễn Chí Tuyến), ông Lê Thiện Nhân, ông Trương Văn Dũng hiện bị giữ tại công an phường Tràng Tiền. Facebook Liberty (Hạnh Tây Hồ), ông Nguyễn Văn Lịch, ông Lã Việt Dũng bị đưa về công an phường Lý Thái Tổ”. Phóng viên VRNs cho biết thêm.
Ads by PassShowAd Options
Blogger Anh Chí bị bắt
An ninh đưa mọi người về đồn công an
Vào hôm qua ngày 19.06, trong một lời kêu gọi ngắn gọn trên fanpage No – U Hà Nội đưa ra lời kêu gọi mọi người biểu tình phản đối việc Hoa Lục đưa giàn khoan thứ hai ra Biển Đông.
No – U Hà Nội khẳng định, “phản đối việc nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục leo thang xâm lược và yêu cầu chính quyền Việt Nam có hành động dứt khoát trước sự việc này!”.
“Đề nghị chính quyền Hà Nội có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự để mọi công dân yêu nước có thể thực thi quyền biểu tình chính đáng của mình” No – U Hà Nội yêu cầu.
Những người yêu nước biểu tình phản đối Hoa Lục đưa dàn khoan vào Việt Nam, ngày 19.06 tại tượng đài Lý Thái Tổ Hà Nội
Báo Người Lao Động dẫn thông báo từ trang web của Cục Hải sự Trung Quốc ngày 17-6 cho biết, từ ngày 18 đến 20-6, tàu kéo Đức Gia (De Jia) kéo giàn khoan Nam Hải số 9 (Nan Hai Jiu Hao) vào biển Đông. Chiều dài dây kéo là 600 m, tốc độ giàn khoan khoảng 4 hải lý/ giờ.
Bài báo trích dẫn tiếp từ báo Phượng Hoàng (Hồng Kông), giàn khoan Nam Hải số 9 cũng thuộc Tập đoàn Dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC).
Theo đồ họa của báo này, tọa độ hạ giàn khoan Nam Hải số 9 nằm trong khu vực cửa Nam vịnh Bắc Bộ và còn gần bờ biển Việt Nam hơn cả Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981).
Trong khi đó, báo Tuổi Trẻ cho rằng, điểm đến của dàn khoan thứ hai này là khu vực cửa Vịnh Bắc Bộ. Đây là khu vực mà VN và Trung Quốc vẫn đang tiến hành các bước để đàm phán phân định lãnh hải giữa hai bên.
Tờ báo Người Lao Động nhận định, “như vậy là trong khi Hải Dương 981 chưa rút khỏi vùng biển Việt Nam, Trung Quốc lại ngang ngược kéo tiếp giàn khoan thứ hai vào biển Đông. Không chỉ vậy, Trung Quốc còn đang hoàn thiện 3 giàn khoan hiện đại khác, cho thấy tham vọng của Bắc Kinh đối với biển Đông là vô đáy!
Pv.VRNs



Đọc mà thấy đau sót cho dân tộc Việt Nam

Bạn ta,

Ghana là một quốc gia ở tây Phi châu nằm cạnh Côte D’Ivoire , Togo và Burkina Faso. Đọc một hai tài liệu về xứ này thì tôi nghĩ là nếu chọn một nơi để du lịch, chắc chắn tôi không bao giờ chọn đi Ghana. Có chăng là ... kiếp sau vậy. Kiếp này thì đành đi chỗ khác chơi.
Đi chơi thì đã như vậy. Đi làm thì tại sao lại chọn lối đoạn trường mà đi. Thế nên đi làm cũng không chọn Ghana. Có bị coi là kỳ thị thì đành nhận vậy. Đi chơi hay đi làm thì cũng chọn nơi nào khá hơn chứ dại gì mà vác xác đến Ghana.
Mà tại sao hôm nay tôi lại nhắc đến Ghana? Tại vì tôi đã tìm ra được một nơi tồi tệ khủng khiếp hơn là những cái cũi ở Mumbai (tên mới của Bombay) trên đường Falkland. Những cái cũi nhốt người, những nhà điếm mà nhiếp ảnh gia Mary Ellen Mark  đã ghi lại trong cuốn sách ảnh của bà. Bạn có thể vào inernet, tìm cage girls of bombay thì sẽ thấy những hình ảnh và bài viết về khu địa ngục này.

cover

Vậy mà Falkland Road còn khá hơn là một khu nhà thổ tại Ghana rất nhiều. Ở thành phố Takoradi thuộc phía tây Ghana, nhà chức trách, nhờ một phóng sự của Anas Aremeyaw Anas, đã giải thoát được 6 phụ nữ Việt Nam khỏi một ổ điếm. Các phụ nữ này đã bị hai người Hoa dụ dỗ hứa cho công ăn việc làm rồi bị buộc phải bán dâm, mang tiền về cho hai người này. Báo chí Ghana cho biết tất cả đều trong hạng tuổi 30, đã sống là làm việc ở Ghana từ hơn một năm nay. Sứ quán Trung quốc tại Ghana đã không bình luận gì về tin này nhưng người ta biết rằng các Hoa kiều tại Ghana đã dính líu vào rất nhiều hành động bất hợp pháp và trong năm qua, chính phủ Ghana đã trục xuất hơn 120 người Hoa ra khỏi Ghana vì tội nhập cảnh lậu và các hoạt động phạm pháp khác, từ khai khẩn mỏ không có giấy phép tới buôn bán ma túy giả và nhiều việc khác.

Gái VN bị Tầu bán cho các ổ điếm tại Ghana

Những phụ nữ Việt Nam, với những cái tên đẹp như Hoa, Thi, Mai, Anh... chắc chắn cũng từng có những năm thơ ấu rất đẹp, những mơ ước cho đời sống tử tế hơn. Tất cả đều bị bọn Tầu bất lương sang tận Việt Nam dụ dỗ đem sang Ghana bắt làm điếm kiếm tiền cho chúng. Các phụ nữ này cho biết giấy tờ tùy thân của họ đã bị bọn ma cô giữ hết, ngôn ngữ xa lạ, không cách nào liên lạc được với gia đình hay người quen để nhờ giúp đỡ.
Tôi có một tấm poster in hình của James Dean đang co ro trong chiếc áo lạnh bước trên một con đường ướt sũng nước mưa với nhan đề mà tôi rất thích. Nghe thật lãng mạn và thơ mộng: Boulevard Of Broken Dreams. Con đường của những giấc mơ tan nát.


Lời của bài hát thì buồn thảm, không liên quan gì đến câu chuyện khổ đau của sáu người phụ nữ Việt bị buộc phải làm điếm ở Ghana để đem tiền về cho mấy thằng Tầu khốn nạn. Những người phụ nữ ấy cũng là người Việt đấy chứ. Cũng có gia đình, cha, mẹ, anh em, có thể cả chồng con nữa. Ra đi họ có kịp ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng không? Có sót người tựa cửa hôm mai không? Có bao giờ nhìn những đám mây Ghana mà nhớ quê cũ không? Cảnh bước chân đi của họ có giống như của Kiều trên xe với Mã Giám Sinh không?
Những giấc mơ của họ cũng đều đã tan nát từ cái chuyến đi theo mấy thằng Tầu khốn kiếp đó.
Chao ôi đi làm điếm ở đâu cũng đã là địa ngục. Làm điếm ở cái xứ Phi châu Ghana ấy thì còn gì tang thương hơn!
Thế nhưng bọn Tầu khốn nạn vẫn được cho tự do ra vào đất nước Việt Nam, vẫn làm đủ mọi chuyện khốn nạn trên quê hương của chúng ta, trên thân xác của phụ nữ Việt. Chúng vẫn đang tiếp tục làm những chuyện đó. Đầu độc người dân bằng những hàng hóa đầy chất độc, hãm hại nông dân bằng đủ mọi trò. Rồi vẫn ra vào thong thả. Chúng không còn chỉ mua phụ nữ Việt đem sang Tầu bán cho các ổ điếm nữa, mà còn đưa cả những phụ nữ xấu số sang tận Phi châu để mang thân xác ra nuôi chúng nó.
Đất nước Việt Nam sao lại khổ đến như thế!

Bùi Bảo Trúc.


Thông điệp loài Đà điểu


Năm XL (Danlambao) - Điểm lại những động thái giữa hai bên môi hở răng rụng VC - TC và lề đảng sáu tuần qua, người viết dẫu chống ác đảng csVN nhưng cũng cảm thấy tủi hổ lây khi đất nước VN lại sản sinh những tên quái thai hèn với giặc nhưng ác với dân như đảng csVN này. Nhục khi TC ngang ngược vi phạm chủ quyền đất nước rồi cho tên Dương Khiết Trì qua dạy dỗ VC mà báo chí TC nói là "đứa con hoang... đàng" (1). Trong khi đó VC làm gì?

Ngư dân

Khi thấy Trung cộng (TC) có những hành động đi ra ngoài "tầm nhìn đến năm..." (cách nói về chính sách của đảng, tuy không có tầm nhưng thích nhìn xa do đó trật lất) và có thể manh động thay đổi vị thế lãnh đạo hiện nay mà đảng đã cố công quỳ lạy bao lâu nay, để đối phó với tình hình, đảng csVN đưa ra tối kiến là trang bị vũ khí nhẹ cho ngư dân bám biển (không bám làm sao sống). Đảng "yêu" dân nên sẽ trang bị vũ khí nhẹ và đẩy ngư dân ra đối chọi với đại liên hạng nặng của TC, kiểu thần thoại du kích với AK hạ máy bay địch trong tuyên truyền ngày xưa. Hải quân (HQ) anh hùng đâu, đang lo ôm em chân dài góc nào nay thấy bóng tàu địch là lủi (trốn) biệt tăm? Thực sự các anh cũng là con người, vì bị ép buộc nên đâu muốn làm bia đỡ đạn như các đồng đội trong trận Gạc ma, hơn nữa đây là chỉ thị của đảng.

Trương Tấn Sang thấy không ổn nên trấn an, xúi ngư dân bám biển nhưng khi "tàu lạ" nó hãm hiếp cướp bóc ngư dân VN thì nhà nước vì bận... lớn chuyện nên không thể quan tâm, thôi coi như là hy sinh cho sự nghiệp vĩ đại của đảng, nhận bằng khen treo đầu giường mà bao tử rỗng. Mới đây nhất đảng lại chủ trương trang bị tàu vỏ thép cho ngư dân để chống lại "tàu lạ" (2).

Xin lỗi chịu không nổi. Tàu Cảnh sát biển, Kiểm ngư và thậm chí là HQ (hải quân) trang bị tận răng, rồi Kilo ghê gớm hiện đại đâu, sao đẩy ngư dân lao đầu vào cõi chết, nhẹ hơn thì TC khép vào tội hải tặc? Vỏ thép rồi sao, tàu TC mới mở bạt pháo đe dọa thì chính quy đã lỏng đầu gối (3) ngư dân từ chết đến lết.

Lãnh đạo

Bạn nghĩ gì khi nhà đang cháy nhưng lãnh đạo vẫn rung đùi hát Karaoke? Đảng rêu rao gián hoặc trực tiếp là Hoa Kỳ không cho TC múa dùi biển Đông? Dạ nó không múa mà cắm rồi.

Tự hào chống Mỹ và đánh Mỹ là đánh cho Liên xô và Trung quốc. Bây giờ nó như mớ bùi nhùi, lý thuyết cộng sản phá sản tận gốc rễ nên phải đẻ ra "tư tưởng HCM" nhằm chứng minh thế "tất yếu lịch sử" cho sự lãnh đạo "bắt buộc" phải có của đảng? Đòi được độc quyền lãnh đạo để bóc lột, thu vét nhưng đụng chuyện thì đưa đẩy cho nhau. Mỗi ngày phải cho lề đảng đưa tin Mỹ và thế giới tự do làm lá chắn cho đảng, thí dụ như Hoa Kỳ nên bỏ lệnh bán vũ khí sát thương cho VC (4).

Nguyễn Tấn Dũng sau thời gian ôm mấy cháu trốn trên giường trong tàu Kilo, tỉnh men rượu leo lên bờ và uống mật gấu nên qua Phi Luật Tân nổ chút xíu cho bàn dân thiên hạ biết còn tui đây. Lãnh đạo (gà) mờ, ít ra cũng phải khò khè vài ba câu kiểu "miệng nhà quan có gang có thép, miệng nhà khó vừa lọ vừa thâm". Pháo nổ banh xác nhưng đây là pháo miệng nên chỉ văng nước miếng, hổng sao. Ba ếch nói dân biểu tình theo pháp luật nhưng luật pháp không có luật biểu tình, do đó biểu tình dạng nào cũng không nằm trong pháp luật, côn an cứ việc bắt nhốt. Thông cảm đi vì trình độ láu cá miệt vườn chuyên chích heo, gà nên biết gì đâu ngoài gà móng đỏ với heo mọi. Ba ếch chưa học chích ngừa chó dại nên cháu nó cắn Ba ếch sủa ăng ẳng, thường dân nói là bệnh chó dại.

Biện pháp

Chuyện đất nước nhưng đảng csVN như loài đà điểu lủi đầu xuống cát: Không nghe, chưa thấy và không dám nói lớn. Lề đảng luôn đưa ra những "ủng hộ" của tư bản giãy chết để trấn an cho chính lãnh đạo đảng an tâm nhưng khi người dân lên tiếng chống ngoại xâm TC thì đảng đàn áp thẳng tay.

Trò hề của đảng khi cho lề đảng thông tin "Tàu kiểm ngư tiến vào sát giàn khoan 981" (5). Giặc vào nhà nhưng có lẽ vì lo bảo toàn tính mạng chủ nhà nên tìm cách nhẹ nhàng nhích từng bước tới gần giặc để quỳ gối xin cho được tiếp tục làm chủ nhà trên danh nghĩa.

Đảng tính kiện TC từ lâu rồi nhưng đắn đo suy tư nên chưa kiện đấy thôi. Bà con đừng nghĩ là đảng không biết, khó ở chỗ là đã bán rồi làm sao kiện, chưa kiện thì nó đã kiện rồi  (6).

Kết

Bạn thấy và cảm nhận gì với những người lãnh đạo của đảng csVN hiện nay? Bạn tạm gạt bỏ chính kiến qua một bên thì những vị lãnh đạo và đảng cs hiện nay có xứng đáng? Riêng cá nhân người viết thấy là hèn nhát hơn những tên trộm cắp vặt.

Chúng ta chẳng cần đòi bỏ điều 4 trong Hiếp pháp của họ mà hãy đồng lòng chung tay góp sức dẹp bỏ chế độ cs phi nhân này! Đảng csVN đang lủi đầu trong cát như loài đà điểu, những người yêu đất nước sẽ làm gì đây?

Phương Bắc (TC) luôn là mối hiểm họa từ ngàn xưa. Nhờ dân tộc Việt kiên cường bất khuất mới giữ được đất nước cha ông truyền lại, nay bị đảng csVN dâng hiến cho giặc thì người dân VN chúng ta biết phải làm gì.

Hãy làm những gì thực tế nhất cho Tổ quốc, điển hình như Phong trào Không Bán Nước.

Quý bạn đừng nghĩ tiếng nói mình chỉ là hạt cát trong sa mạc, vì nhiều hạt cát mới tạo thành sa mạc. Đà điểu đang chúi đầu cuống cát thì cát sẽ ngắt đầu đà điểu. Hãy tự tin và hiên ngang tiến tới dẹp bỏ chế độ phi nhân này. Tổ quốc cần mỗi tiếng nói và hành động của quý bạn!


Năm XL
danlambaovn.blogspot.com


http://danlambaovn.blogspot.com/2014/05/hang-van-cong-nhan-binh-duong-inh-

__._,_._



__._,_.___

Posted by: hung vu



Trần Đức Thảo – Những lời trăng trối

       Trần Đức Thảo – Những lời trăng trối



Ðã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí Minh (HCM) riêng cuốn Trần Đức Thảo " Những Lời Trăng Trối " là cuốn rất ðặc biệt vì sách ðã “phân tích sư thật về những hành ðộng khủng khiếp” của họ Hồ bởi một triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế giới”. Nãm 1951 ông bỏ Paris về bưng, qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng chiến chống Pháp; ðã từng “trải nghiệm gian khổ trong chiến tranh, trong cách mạng” suốt 40 nãm. Nhà triết học họ Trần trước khi mất ðã khẳng ðịnh, Marx ðã gây ra mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói, chính “cuồng vọng lãnh tụ” ðã khiến “ông cụ” là một con người “cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của ðạo lý”. Theo ông, ðây là “một Tào Tháo muôn mặt của muôn ðời” và “là một con khủng long ba dầu, chin duôi”.

Lời trối trãng của nhà triết học Trần Ðức Thảo cho biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám ðưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra ðược tình trạng bế tắc chính trị ðộc hại như hiện nay ở nước ta”. Theo ông, quá khứ cách mạng của Viêt Nam ðã tích tụ quá nặng ðầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427 trang là những lời tâm sự sống ðộng của một nhà tư tưởng giúp ðộc giả hiểu rõ nguồn gốc của thảm kịch ðang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên ðất nước ta. Ông cảnh báo xã hội Việt Nam “ðang bị ung thối bởi cãn bệnh xảo trá, cãn bệnh thủ ðoạn của ðảng”. Ông bị tống ði ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé ði một chiều, bị ðuổi khỏi Saigon, buộc phải ði Pháp, không ðược trở về Hà nôi.

Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Ðức Thảo (1917-1993) ðã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử với ðất nước và dân tộc, ðã ðể lại di sản vô cùng trầm trọng: “chọn chủ nghĩa xã hội của Marx ðể xây dưng chế ðộ, chọn chiến tranh xoá hiệp ðịnh hòa bình ðể bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất ðất nước, chọn Mao và ðảng Cộng sản Trung Quốc làm ðồng minh, ðồng chí”. Sách có 16 chương, một chương chỉ ðể giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng ðược ðề cập tới. Ông xác nhận, hễ nói tới thảm kịch VN thì “không thể không nhãc tới ông cụ”. Cố giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao ðã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và “Trung Quốc muốn nhuộm ðỏ Việt Nam theo ðúng màu ðỏ ðậm của Trung Quốc”.

Đãi ngộ hay bạc đãi
Triết gia Trần Ðức Thảo (TÐT), nổi tiếng về hiện tượng luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre ðược ðảng Cọng Sản Pháp vận ðộng ðể ðược cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cưú sâu rộng cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của Karl Marx”. Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng”; bị nghi là “siêu gián ðiệp trí thức”. Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Nãm 1991 ông “bị ðẩy trở lại Paris”. Thế nhưng, sau khi qua ðời ngày 24/4/1993, nhà cầm quyền Hà nội lại truy tặng ông huy chưong Ðộc Lập; ca tụng ông là nhà triết học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tưởng HCM” ðã có ảnh hưởng với nhà triết học số một Việt Nam và lúc sinh thời ðảng, nhả nước rất mực trọng ðãi ông.

Có thật thế không? Trong chương Ðãi ngộ hay bạc ðãi, ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che dấu một ðối xử nghiệt ngã và tồi tệ”. Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn ðứng giữa ruộng dưa”. Sự thật “họ chỉ ðể cho sống; cho tôi khỏi chết ðói; chỉ toàn là bạc ðãi”. Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập nhân dân nghĩa là phải cúi ðầu tuyệt ðối vâng, nghe lời ðảng”. Ông tiết lộ, tuy có chức phó giám ðốc trường Ðại Học Vãn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề ðược tham dự bàn bạc gì vào việc tổ chức, ðiều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy cũng không hề có”. Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay ði theo các phái ðoàn thanh tra là chỉ ðể “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng”.

Những ðiều nói ðó phù hợp với bài báo của nhà thơ Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Ðức Thảo ðãng trên báo Tiền phong ngày 11/5/1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều người trong nước ðược biết rằng ðất nước chúng ta ðã từng sinh ra một triết gia tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì lôi thôi nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su ðứt quai, ðầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe ðạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà ðồng nát cũng chê. Thật ðúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, ðạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người”.

Mưu thần chước quỷ
Nhiều người tự hỏi bị ðối xử cay ðắng như vậy sao “bác Thảo lại hay có lúc bật cười như ðiên”; và bị chung quanh chê bai, chế giễu “bác là người khùng”? TÐT cho hay, ông bắt ðầu “hết cười rồi lại khóc” sau khi tham gia ðợt thì hành cải cách ruộng ðất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên Quang nãm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh ðạo “chọn con ðường hành ðộng nặng tính cuồng tín, dã man”. Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng ðểu, thằng ác, thằng lưu manh”. Về giai thoại TÐT ði chãn bò, theo ông, ðó là một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của một chính quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu “trí thức không bằng cục phân” của Mao.

Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất sùng bái Trung Quốc, ‘cứ như là con ðẻ của ðảng Cộng sản Trung Quốc”. Là một nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, ðánh giá lại, ông thấy “nước ta trồng cây tư tưởng của Marx, cho tới nay cây ðó chỉ cho toàn quả ðắng”. Chính “cái thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự ðau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ” khiến ông muốn “ðặt lại vấn ðề từ học thuyết”. Triết gia TÐT nói, nhiều lãnh tụ “từ lầu ðài tư tưởng Marx bước ra ðã trở thành những ác quỉ”. Theo ông, “quỉ ấy là ý thức ðấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rut” tư tưởng ðộc hại vô cùng; nó phá hoại xã hội, nó thúc ðẩy con người ðam mê tìm thắng lợi, bằng ðủ thứ quỉ kế, ðể mưu ðồ củng cố cho chế ðộ ðộc tài, ðộc ðảng.

Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ” là một nhà ảo thuật chính trị ðại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì biến không thành có”. Ðúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành ðộng muôn hướng, muôn mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!” Bác Hồ ðánh lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói ðầu bản tuyên bố ðộc lập của Mỹ; ðánh lừa các ðảng trong nước khi thành lập chính phủ ðại ðoàn kết và mời cựu hoàng Bảo Ðại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản ðộng; ðẩy Bảo Ðại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn ðược triết gia TÐT gọi là một nhà chính trị “thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao ðể ðược ðưa về xứ làm lãnh ðạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.

Cố Giáo sư TÐT kể lại rằng, biết mình bị Ðệ Tam Quốc Tế tức Liên Sô loại ðuổi khéo về Viễn Ðông và biết Mao là thủ lãnh các phong trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ gia nhập ðảng Cộng sản Trung Quốc; ðược Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng bước loại bỏ tất cả ðối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn vãn Cừ… ðể rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước nãm 1945. Dù sự tấn phong “ông cụ” ở các ðại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các khu uỷ, xử uỷ và của “Ðê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên ðã qua mặt những sự phản ðối này vì họ là những kẻ ðã từng nhận ðược sự nâng ðỡ của cộng sản Trung Quốc. Triết gia họ Trần nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt cơ hội”.

Huyền thoại “bác Hồ”
Vẫn theo nhà tư tưởng TÐT, các nhà nghiên cứu nước ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của bộ máy tuyên truyền; họ xử dụng sản phẩm chính thống của ðảng thì làm sao họ hiểu hết ðược mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất chính gốc, bộc lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Ðó là những tên giả chính “cụ Hồ” ðã tự ðặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẻ, phải phân tách những chuyện biến tư tưởng qua từng giai ðoạn ðổi tên, ðổi họ; từ những cái tên “Tất Thành”, rồi “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”. Ðấy là những biểu hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành lãnh tụ cách mạng sau khi không ðược cho vào học Trường Thuộc Ðịa ðể ra là quan.

Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách ðề cao mình, như cuốn “Những mẩu chuyện về cuộc ðời hoạt ðộng của Hồ chủ tịch” và “Vừa ði ðường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân ðược. “Ông cụ” ðã tạo ra một thời chính trị ðiên ðảo. Ngoài ra, ðám quần thần chung quanh “ông cụ”, không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “Người”. Họ tôn vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói “ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”. TÐT cho biết, nãm 1946 gặp “ông cụ” trong một buổi chiêu ðãi ở Paris, ông ðã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa cần tới chú ðâu” của HCM; khi ông tự ý nắm tay “ông cụ” ngỏ lời: “Tôi muốn về nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt ðẹp tại quê hương”.

Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông ðược vể nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà nội và Saigon ðang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp thống trị mới ðang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TÐT càng thấy huyền thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hoá trang cao ðộ”. Cái gì có giá trị là của bác, của ðảng. Họ công kênh “ông cụ” lên làm bậc thần, bậc thánh. Theo TÐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục tùng lãnh tụ mới có thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn sùng HCM. Ông nhấn mạnh, “bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành ðạt về chính trị; “không thể nào là mẫu mực về mặt ðạo ðức”; vì cách sống muôn mặt của bác ðâu phải là gương sáng.
Nhà triết học bị kết tội “cầm ðầu âm mưu chống ðảng” vì hai bài viết trên Nhân Vãn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em vãn nghệ trẻ chủ xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp ðứng ðầu là Sartre “tận tình quan tâm, chãm sóc” ðến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác nãm 1946 ðòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch; muốn ðấu lý với cố vấn Trung Quốc lúc làm ðội viên cải cách ruông ðất và vụ NVGP, ông có thể “dễ chết`như chơi”. Nãm 1952 triết gia ðược dẫn ði chào “Bác”. Ban lễ tân dặn ông bốn ðiều cần nhớ: phải ðứng xa “Người” ba mét, chỉ lại gần khi “Người” ra lệnh; không ðược nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không ðược chào trước; không ðược nói tôi phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng “bác.

Chư hầu ngoan ngoãn
Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TÐT thì HCM chưa ðọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy sổi nên chưa tiêu hóa ðược”; nhưng lại “ðọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machiavel”, cuốn chỉ bày tận dụng mọi thứ ðể người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài nặng lý trí ðến vô cảm; không thiết tha với gia ðình; không có bạn hữu thân tình. “Ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học ðược ”ông cụ” ðào tạo ðể phục tùng; rồi sau ðề bạt lên làm lớn. “Ông cụ” làm thơ là “do cuồng vọng chính trị”, là ðể “ca ngợi mình” và “hô hào quyết chiến”. Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma quái nó ðè. Ðó là “ bóng ma ðế quốc bành trướng vô cùng ðộc ðoán, lấn át của Mao.”

Vẫn theo TÐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên ðẹp “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một ðế quốc ðỏ; nó kềm kẹp các dân tộc nhược tiểu quanh nó. Ðó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”; muốn biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn”. “Ông cụ” vì tham vọng quyền lực từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không ðược nên ðã lấy học thuyết “giai cấp ðấu tranh” làm kim chỉ nam ðể tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà triết học nói, ðể nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông thần”, từ bỏ cả vợ con, mất ði tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài. Lại thêm, Mao ðã cài chung quanh “ông cụ” một ðám cực kỳ cuồng tín.

Trong chương “Hai chuyến di chuyển ðổi ðời” của cuốn sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông ðược rời cảnh “sống như bị giam lỏng ở Hà nội” ðể vào Saigon ở là nhờ sự vận ðộng của một số ðồng chí trí thức Nam Bộ. “Saigon ðã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện ðại; ðâu có ðói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam ðã có một mức ðộ dân chủ rõ rệt. Miền bắc bị tư tưởng Mac-Lenine làm nẩy sinh những chính sách ðầy sai lầm. Sĩ quan của “bộ ðội cụ Hồ” ðã có “thái ðộ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục mạ, gọi Dương vãn Minh là mày, và bắt cả nhóm phải ðứng cúi ðầu.” Ðấy là những lời thố lộ của TDT mà nhà vãn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ðã viết lại qua các cuốn bãng thu những ðiều ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối ðời ông ở Paris.

Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công Sơn là hai người ðã thúc ðẩy ông phải thoát khỏi thái ðộ hèn nhát ðã ngự trị trong ðầu óc trí thức và vãn nghệ sĩ Hà nội; giới này ðã ứng xử ðồng lõa với tội ác của cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho NVGP. Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở Saigon sau 1975, nếu ðọc chương “Vẫn chưa ðược giải phóng” ðều nhận thấy những mô tả của triết gia về Hà nội nãm 1954 rất giống Saigon sau 30/4/75: “cả con người và xã hội ở ðây ðã không hề ðược giải phóng” và thật là “vô lý và nhục nhã” khi so sánh với chế ðộ cũ. Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù, tích lũy mà có ðược; tư hữu kiểu mới do chiếm ðoạt bằng chữ ký và quyền lực.

Cao vọng hơn “bác Hồ”
Ðược gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10 ngày TÐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”. Ðây là vãn bản phản bác giáo ðiều, ðược ðón nhận như một bông hoa lạ. Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí thức khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học ðể nghe những “lời tiên tri” là “cách mạng ðã biến chất ðể tư bản man rợ tràn ngập”. Trung Ương thấy số người “phức tạp” ðến gặp “bác Thảo” càng ngày càng ðông, nên Ðảng ðã quyết ðịnh “anh phải ra ði”. Nhà triết học than “thôi thì ðành mang thân xác ra xứ người”. Qua Pháp, tuy ðã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn “lâm cảnh sống nay lo mai”, và còn bị Toà ðại sứ theo dõi kiểm soát chặt chẽ.

Trong cài xui có cái may. Nhà vãn Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ ðể kiếm sống qua các buổi thuyết trình ở kinh ðô ánh sáng mà ðã làm quen thân với ông, ðược nghe ông tâm sự. Quyển sách ghi lại nỗi hối hận ðã thiêu ðốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc ðời. Nhà vãn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn bãng cho những ai muốn nghiên cứu về TÐT”. Trong sách nhà triết học có lần ðã khẳng ðịnh: “tôi có tham vọng cao hơn của “bác Hồ” nhiều lắm”. Ðấy là xây dựng “một lâu ðài tư tưởng trong ðó toàn thể nhân loại ðều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình”. Nhưng mộng ðó không thành, triết gia lừng danh một thời trời Âu bị ðột tử. Chúng ta mất ði “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng”.
Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là ðể phục hồi danh dự một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc ðời TÐT xem như cuộc ðời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào nãm 1951 nên mọi sự trở nên vỡ lở. Cuộc ðời ðó có thể xem như một bài học –“an object lesson”- với những ai ðể cho tình cảm, lý tưởng che mờ ði lý trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có ðời sống gia ðình, không có tự do trong bóng tối làm những việc ông muốn làm cho quê hương ðất nước của ông. Sự nghiệp triết học của ông là một sự nghiệp dang dở.” Sách ðược xuất bản lần ðầu với số lượng ít; tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ ðể thãm dò ý kiến thân hữu.

Những ai yêu “bác Hồ”, những ai coi HCM là tên tội ðồ hay các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và những ai còn nghĩ ðến nước Việt nên ðọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác giả nào trên thế giới – ngoại trừ triết gia TÐT- nêu ra ðược, thật sáng tỏ, những ðiều vô cùng bi thảm trong thời cách mạng; vì ông ðã trải nghiệm 40 nãm trong cuộc. Ngoài ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm về HCM, kẻ ðã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt Nam TÐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự ðại nhưng “không gian trá ðến mức tinh quái” ðể có những “hành ðộng muôn hướng, muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”.

Phan Thanh Tâm
Saint Paul, 6/2014




__._,_._

__._,_.___

Posted by: hung vu 

Việt Nam: Cơ hội cuối cùng hay những bước đột phá cần thiết

Việt Nam: Cơ hội cuối cùng hay những bước đột phá cần thiết

Lê Xuân Khoa

Ngay sau khi Trung Quốc gây ra sự cố giàn khoan Hải Dương Thạch Du (HD-981) tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam, giới phân tích chính trị quốc tế đã cho thấy đây không nhất thiết là một hành động chiếm đoạt về kinh tế mà chủ yếu là một nước cờ chính trị của Bắc Kinh nhằm tạo tiền lệ cho những bước lấn chiếm khác trong kế hoạch kiểm soát toàn thể Biển Đông Nam Á. 

Đây vừa là một bước thăm dò vừa là một ngón đòn phủ đầu trước khi Hoa Kỳ có thể thật sự xoay trục sang Châu Á và tái khẳng định vai trò cường quốc Thái Bình Dương. Bước chiến thuật này đã đem lại cho Trung Quốc một thắng lợi ban đầu nhưng qua những phản ứng của Việt Nam và những nước liên quan thì hành động này là một tính toán khá mạo hiểm trong chiến lược “Giấc mơ Trung Quốc ”, một mục tiêu quốc gia được Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức tuyên bố trước Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc ngày 17.3. 2013 và định nghiã là “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.” Mạo hiểm hay không, lãnh đạo mới của Trung Quốc cũng quyết tâm hành động vì cho rằng thời cơ đã đến.

Đã có nhiều tác giả Việt Nam và ngoại quốc viết về những mục tiêu trước mắt và lâu dài của Trung Quốc qua vụ giàn khoan HD-981, phản bác những luận điệu của lãnh đạo Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền trên 80 % Biển Đông Nam Á theo bản đồ đường chín đoạn do họ tự vẽ ra, bất chấp luật lệ quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Vì vậy, bài này sẽ không tham gia vào những đóng góp quan trọng của các học giả về cơ sở lịch sử và pháp lý của Việt Nam mà chỉ chú trọng vào một số biện pháp cụ thể cần làm ngay để triệt tiêu mưu đồ của Trung Quốc đang từng bước thực hiện mục tiêu sử dụng Việt Nam làm bàn đạp tiến xuống các quốc gia khác trong khu vực.

Tên khổng lồ tỉnh giấc
Lịch sử chính trị thường nhắc đến câu chuyện Hoàng đế Napoléon Bonaparte sau khi đọc bản dịch cuốnTôn Tử Binh pháp do một linh mục Pháp sống ở bên Tàu đời nhà Thanh thực hiện, đã phát biểu một nhận xét thú vị: “Hãy để cho tên khổng lồ này ngủ yên, vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Thật ra thì từ thời xa xưa cho đến hết thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc chỉ tự rung chuyển mình bằng những cuộc nội chiến (như thời Đông Chu liệt quốc) hay bị rung chuyển khi ngoại nhân (như Mông Cổ hay Mãn Thanh) chiếm đóng và cai trị, bị tám nước Tây phương (Bát quốc liên quân) trừng phạt đầu thế kỷ 20 và gần đây nhất là bị quân đội Nhật hoàng xâm lăng và hành hạ trong thời Đệ nhị Thế chiến. Công bằng mà nói thì Trung Quốc cũng có làm rung chuyển một số quốc gia láng giềng nhỏ bé như Cao Ly (Triều Tiên) và Việt Nam qua những cuộc chiến tranh xâm lược nhưng rốt cuộc đều bị đánh bại và phải chạy về nước. (Đáng chú ý là vị anh hùng Cao Ly đại thắng quân Nguyên lại là một “thuyền nhân” người Việt: Lý Long Tường, thái tử nhà Lý, chạy sang Cao Ly tị nạn sau khi Trần Thủ Độ diệt nhà Lý để xây dựng nhà Trần. Lý Long Tường đánh thắng quân Nguyên hai lần, được vua Cao Ly phong làm Hoa Sơn Tướng quân.)

Chỉ đến khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền năm 1978 Trung Quốc mới thực sự bắt đầu một thời kỳ cải cách và phát triển theo hướng “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”. Đặng thi hành chủ nghĩa thực dụng về kinh tế, mở cửa làm ăn với các nước Tây phương với câu nói nổi tiếng: “Mèo đen hay mèo trắng không thành vấn đề miễn là nó bắt được chuột.” Nhưng quan trọng nhất trong mưu lược đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là âm thầm xây dựng một nước Trung Hoa hùng mạnh bằng chính sách “thao quang dưỡng hối” (giấu cái sáng, nuôi cái tối) tức là giấu giếm nội lực, giả vờ yếu kém để chờ ngày vùng dậy làm bá chủ thiên hạ.

Chính sách ẩn mình chờ thời của Đặng Tiểu Bình nay đã đến hồi kết thúc. Chỉ trong ba thập kỷ, Trung Quốc từ một nước nghèo đói đã vươn lên thành một siêu cường kinh tế, vượt Nhật Bản để chiếm địa vị thứ nhì sau nước Mỹ, và cũng đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ với số tiền cho mượn trên 1300 tỉ đô-la. Thời Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư, Trung Quốc đã giàu nhất thế giới vì nhờ lao động rẻ nên đã trở thành công xưởng của tư bản quốc tế sản xuất hầu hết hàng tiêu thụ khắp các nước. Không giấu được sức mạnh tiền bạc nhưng Hồ Cẩm Đào vẫn tiếp tục lừa thế giới với khẩu hiệu khiêm tốn là “trỗi dậy hoà bình”. Từ 2012, khi Tập Cận Bình kế vị Hồ Cẩm Đào thì “Trỗi dậy hoà bình” được đổi thành “Giấc mơ Trung Quốc”, thể hiện rõ hơn chủ nghĩa dân tộc của một lãnh đạo nhiều quyền lực nhất, cùng một lúc nắm ba chức vụ Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Lời tiên đoán của Napoleon nay được nghiệm đúng: tên “khổng lồ” đã tỉnh giấc và sẽ thật sự làm rung chuyển thế giới. Nhưng rung chuyển đến mức nào và sẽ bị rung chuyển ngược ra sao lại là chuyện khác.

Đặc điểm chung của các lãnh đạo cộng sản độc tài là “nói một đàng làm một nẻo” và kiên quyết phủ nhận những sự thật hiển nhiên. Tập Cận Bình còn hơn cả những người tiền nhiệm ở chỗ không giấu diếm thái độ tự tôn và ngang ngược về mặt đối ngoại dù vẫn luôn luôn dối trá. Đối với Tập, thế kỷ 21 phải là thế kỷ của Trung Quốc vĩ đại, và thời điểm 2014 rất thuận lợi để cho Tập khẳng định quyết tâm thực hiện “Giấc mơ Trung Quốc” khởi sự từ Việt Nam, đối tượng quan trọng nhất nhưng lại dễ dàng nhất. Tập Cận Bình không thể bỏ lỡ cơ hội này dù mới đây Tập đã trơ tráo quả quyết rằng “Trung quốc không có cái gien xâm lược.”

Tại sao Việt Nam?
Một người Việt Nam bình thường nào (và tất cả những học sinh miền Nam trước 1975) cũng biết rõ là từ các triều đại phong kiến hơn hai nghìn năm trước đến thời đại cộng sản ngày nay, các lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn tìm cách xâm chiếm đất nước và đồng hóa dân tộc Việt. Tất cả những quan hệ hòa bình, hữu nghị giữa hai nước đều chỉ là giả tạm và có lợi hơn cho Trung Quốc, tất cả mọi sự viện trợ to lớn của cộng sản Tàu cho cộng sản Việt trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đều là những điều kiện thuận lợi cho việc đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc Trung Quốc sau chiến tranh. Ngoài ra, vì Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất, cộng sản Tàu còn có lợi ích đặc biệt là “đánh Mỹ cho đến người Việt cuối cùng”.

Trở lại với câu hỏi “Tại sao cộng sản Trung Quốc (CSTQ) lại chọn cộng sản Việt Nam (CSVN) là nạn nhân đầu tiên trong mưu toan làm chủ Biển Đông Nam Á, kiểm soát các nước ASEAN và đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương?”, tôi thấy có chín lý do dưới góc nhìn của Bắc Kinh:
1. Việt Nam có vị trí chiến lược then chốt, gần nhất và thuận tiện nhất để Trung Quốc có thể sử dụng vào mục tiêu khẳng định quyền làm chủ Biển Đông Nam Á, khai thác tài nguyên biển và kiểm soát toàn thể các nước trong khu vực.
2. Từ sau bản mật ước Thành Đô năm 1990, Việt Nam đã gần như lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị. Việt Nam lại đang bị suy thoái về kinh tế và không có một đồng minh nào về chính trị và quân sự.
3. Cộng sản Việt Nam không thể rời bỏ chỗ dựa an toàn là Trung Quốc vì cần phải duy trì sự tồn tại của Đảng và chế độ với những đặc quyền đặc lợi quá lớn đã nắm giữ từ lâu trong khi phạm những tội ác quá nặng đối với nhân dân và đất nước.

4. Việt Nam khó khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa vì mắc kẹt với bức công hàm của TT Phạm Văn Đồng gửi TT Chu Ân Lai ngày 14/09/1958. Trên 50 năm qua, nhà nước Việt Nam né tránh vấn đề này nên có rất ít công trình nghiên cứu về pháp lý và lịch sử làm cơ sở tranh cãi so với số lượng nhiều gấp hàng chục lần của Trung Quốc.
5. Các nước ASEAN không đoàn kết và mỗi nước đều có nhiều lợi ích kinh tế riêng qua những quan hệ hợp tác song phương với Trung Quốc.
6. Hoa Kỳ đang phải đối phó với nhiều khó khăn ở trong nước và nhiều nơi trên thế giới nên chưa thể thật sự xoay trục sang Châu Á như mong muốn. Trung Quốc cần nắm lấy cơ hội trước khi Hoa Kỳ có thể cùng với Nhật xây dựng liên minh chiến lược với ASEAN.
7. Trung Quốc cũng có nhiều khó khăn nội bộ nhưng qua hành động thị oai với Việt Nam và xác định quyền khai thác tài nguyên trên biển Đông Nam Á, lãnh đạo Bắc Kinh có thể khích động chủ nghĩa dân tộc và giảm bớt sự bất mãn và chống đối của nhân dân.

8. Hoa Kỳ và Nhật Bản đang có những nỗ lực lôi cuốn Việt Nam ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc giữa lúc tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ của nhân dân Việt Nam đang lên cao, khuyến khích khuynh hướng thoát Trung trong các đảng viên CSVN và hậu thuẫn mạnh mẽ cho khuynh hướng cải cách trong nội bộ lãnh đạo.
9. Nguy hiểm nhất là triển vọng thắng thế của khối yêu nước và cải cách chính trị ở Việt Nam, trong và ngoài Đảng. Nếu Việt Nam thoát Trung và trở thành một nước dân chủ, chế độ độc tài cộng sản ở Trung Quốc sẽ lung lay và chắc chắn phải sụp đổ trong một tương lai không xa.
Chín lý do trên đây khiến lãnh đạo Bắc Kinh phải ra tay sớm, bất chấp luật lệ quốc tế, Công ước LHQ về Luật Biển, và bộ Quy tắc về Ứng xử giữa các bên ở Biển Đông Nam Á (gọi tắt là COC) mà Trung Quốc đã hứa sẽ ký kết với các nước ASEAN tiếp theo bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC) đã được các bên ký từ năm 2002.

Riêng đối với Việt Nam, Trung Quốc đã thẳng tay xé bỏ hai bản thỏa thuận do lãnh đạo hai bên ký kết năm 2011 và 2013, cam kết giải quyết hòa bình các vấn đề khó khăn giữa hai nước. Tệ hơn nữa, Bắc Kinh đã ba lần bác bỏ lời yêu cầu khẩn cấp của Hà Nội về một cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh để giải quyết hòa bình vụ giàn khoan HD-981. Châm ngôn “16 chữ” và “4 tốt” thể hiện tình đồng chí bền chặt giữa hai đảng anh em được ca tụng hơn 20 năm bỗng nhiên bị quăng vào thùng rác. Hành động trở mặt tàn nhẫn và bất ngờ của Trung Quốc đối với Việt Nam chỉ có thể giải thích được bằng nguy cơ được nêu lên ở hai điểm số 8 và 9 trên đây.

Phản ứng phức tạp của Việt Nam
Nếu lãnh đạo Việt Nam đã phải bàng hoàng vì sự trở mặt trắng trợn của Bắc Kinh thì lãnh đạo Trung Quốc cũng bị bất ngờ trước khí thế yêu nước bùng dậy mãnh liệt từ phiá nhân dân Việt Nam, một dân tộc tưởng như đã bị chế độ cộng sản thuần hóa thành những con người khiếp nhược chỉ biết tuân lệnh vì đã được dạy dỗ rằng “chuyện gì cũng đã có Đảng và Nhà nước lo.”

Thật đáng tiếc là thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc cậy mình quá giàu và quá mạnh nên không chịu tìm hiểu lịch sử và văn hóa Việt Nam để biết rằng truyền thống chống Trung Quốc xâm lược vốn nằm sẵn trong từng mạch máu, từng thớ thịt của dòng giống Việt từ ngày lập quốc. Bởi vậy, ngay trong hàng ngũ đảng viên CSVN, trừ một số đã nhiễm độc nặng vì địa vị và quyền lợi, những đảng viên yêu nước vẫn kiên quyết đấu tranh cho độc lập và chủ quyển của quê cha đất tổ. Họ cũng sáng suốt nhận ra những sai lầm tai hại của chủ nghĩa cộng sản nên đã dấn thân vào tiến trình chuyển hoá chế độ từ độc tài độc đảng sang dân chủ đa nguyên đa đảng. Nhưng dưới sự cai trị khắc nghiệt của chế độ toàn trị, trí thức và nhân dân không thể bày tỏ lòng yêu nước hay thái độ bất mãn đối với những hành động sai trái của chính quyền. Mọi hoạt động phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền hay đối xử tàn nhẫn với ngư dân Việt Nam đều bị nhà nước ngăn cấm và những người dám lên tiếng đều bị trù dập, bắt giữ và kết án nặng nề.

Nhưng sự chiụ đựng nào cũng có giới hạn và nhà cầm quyền cũng không thể che giấu mãi tội ác của Trung Quốc và thái độ hèn kém của mình. Rốt cuộc ngày phải đến đã đến. Ngày 1 tháng 5, 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan khổng lồ HD-981 cùng hơn 80 tàu vũ trang và máy bay hộ tống vào khu vực Hoàng Sa, hạ đặt giàn khoan này ngay trên Thềm lục địa và trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Các tàu hộ tống giàn khoan đã tấn công các tàu công vụ và dân sự của Việt Nam gây hư hại nhiều tàu và một số người bị thương vong.

Hành động phi pháp và thái độ hống hách của cường quyền Bắc Kinh không chỉ làm bùng dậy lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà còn làm cho đám lãnh đạo thân Bắc Kinh phải lo sợ và đành lòng để cho nhân dân biểu tình chống Trung Quốc. Mặc dù cuộc biểu tình đầu tiên được phép ngày 11.5 đã diễn ra tốt đẹp vì nhân dân chỉ biểu dương lòng yêu nước chống quân xâm lược chứ không chống chính quyền, phe thân Trung Quốc đã tìm cách ngăn chặn cuộc biểu tình trong tuần kế tiếp mà họ biết chắc là số người xuống đường tham gia sẽ tăng lên gấp bội. Nhiều nguồn tin cho hay họ đã mướn côn đồ sách động công nhân biểu tình bạo động ở một số cơ xưởng do người ngoại quốc đầu tư, gây thiệt hại vật chất và thương tích cho một số người bị coi là dân Trung Quốc. Mượn cớ có bạo động, chính quyền đã có lý do chính đáng để ra lệnh cấm biểu tình dù ban tổ chức đã thông báo chủ trương bất bạo động. Điều này cho thấy nội bộ lãnh đạo Việt Nam vẫn còn chia rẽ nhưng phe cấp tiến đã bắt đầu tạo được hậu thuẫn của nhân dân yêu nước và khao khát dân chủ.

Tuy nhiên, tình hình mấy tuần qua đã trở nên phức tạp qua những phát biểu và cách hành xử lúng túng và mâu thuẫn của một số nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam trước hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc và những động thái phòng ngừa từ phía Mỹ và Nhật. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì không nói năng gì, chỉ một mực muốn sang Bắc Kinh cầu cứu Tập Cận Bình nhưng đã bị từ chối. Đại tướng Phùng Quang Thanh thì tại Hội nghị Shangri-La ngày 1 tháng Sáu đã có những lời phát biểu quá nhũn nhặn so với lời lẽ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mạnh mẽ kết án Trung Quốc tại hội nghị cao cấp ASEAN ngày 12 tháng 5, và trong cuộc gặp Tổng thống Philippines tại Manila một tuần sau đó. Gần đây nhất là quyết định (của Bộ Chính trị ?) trì hoãn chuyến đi Washington của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh do lời mời của Ngoại trưởng John Kerry.
Chuyến đi thăm dò lãnh đạo Hà Nội của Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì ngày 18/6 lại cho thấy có ba sự kiện đáng chú ý:
1. Dù chưa có thông báo chính thức của Bộ Ngoại giao, các nguồn tin trong nước và ngoại quốc đều cho hay là cuộc đối thoại Dương Khiết Trì-Phạm Bình Minh bị bế tắc vì lập trường hai bên không thay đổi. Các thông tín viên của Reuters nhận xét không có treo cờ hai quốc gia bên ngoài tòa nhà họp như thông lệ mỗi khi có khách quan trọng đến thăm và cũng không có tấm hình nào cho thấy hai bên với vẻ mặt tươi cười. Trang tin mang tên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn đăng một tấm hình cho thấy khi bắt tay nhau, Phạm Bình Minh nhìn thẳng vào mặt người đối diện trong khi Dương Khiết Trì thì nhìn xuống. Người viết blog nhận xét ông Minh có ánh mắt “rực lửa”.

2. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố hành động của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi phạm những thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC); đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực; gây bất bình và làm tổn thương tình cảm của nhân dân Việt Nam, tác động tiêu cực đến quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước; yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam; cùng đàm phán giải quyết các tranh chấp bất đồng giữa hai nước bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế và nhận thức chung giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước… Việt Nam kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế.
3. Một sự kiện khác rất bất ngờ là quan điểm yêu nước vững chắc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuộc tiếp kiến Dương Khiết Trì. Bản tin VNTTX ngày 18/6 dẫn lời của ông Trọng: “Tổng Bí thư nhấn mạnh tính nghiêm trọng và tác động rất tiêu cực của việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) tại vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng Năm đến nay đối với nhân dân Việt Nam, cục diện quan hệ Việt-Trung và tình hình khu vực. Tổng Bí thư khẳng định lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên Biển Đông là không thay đổi và không thể thay đổi; đề nghị khẩn trương trao đổi để có các giải pháp sớm ổn định tình hình… trên cơ sở các thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước và luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.”
Dù sao, thái độ lúng túng và mâu thuẫn của lãnh đạo Việt Nam vẫn tồn tại, cho thấy phe bảo thủ thân Trung Quốc, dù đã bị Bắc Kinh không thèm đếm xỉa tới nữa, vẫn không dám nghĩ đến việc thoát Trung vì ngoài Trung Quốc ra, họ không có một chỗ dựa nào khác. Có lẽ họ không còn chiếm đa số trong Bộ Chính trị nhưng họ đang tranh thủ lôi cuốn những người “do dự” mà phe yêu nước cấp tiến cũng đang cố gắng thuyết phục. Dù khinh miệt đám tay chân ở Hà Nội, lãnh đạo Bắc Kinh không bỏ qua cơ hội làm suy yếu phe cấp tiến đang gia tăng hợp tác với Mỹ. Chắc chắn đàng sau những cuộc vận động thành phần còn do dự đều có bóng dáng của Đại sứ Trung Quốc Hồng Tiểu Dũng và các thuộc viên. Mặc dù mục tiêu cuối cùng của các phe đang chống đối nhau trong Đảng CSVN là chiếm được ưu thế trong Đại hội 12 sẽ diễn ra năm 2016, Đảng và Nhà nước vẫn phải có những quyết định liên quan đến chính sách đối nội và đối ngoại từ nay cho đến ngày Đại hội. Liệu có thay đổi gì không? Chúng ta có thể ngờ rằng tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” và “nói một đàng, làm một nẻo” sẽ tiếp tục được duy trì như một đồng thuận không chính thức trong nội bộ lãnh đạo. Trong khi đó, bọn bá quyền Bắc Kinh vẫn tiếp tục vừa đánh lừa dư luận vừa lấn tới, từng bước một, nhưng mau hơn trước.
Liệu sự thống nhất bất ngờ giữa hai ông Tổng Bí thư và Thủ tướng về lập trường đối với Trung Quốc qua vụ giàn khoan HD-981 có làm cho những lãnh đạo thân Tàu trong Bộ Chính trị cũng sẽ bớt cản đường trên con đường thoát Trung?

Tổng lực dân tộc và những hành động đột phá
Những nhận định ở phần đầu bài này đã cho thấy năm 2014 là thời điểm thuận lợi nhất cho Trung Quốc tiến hành kế hoạch thống lĩnh Biển Đông Nam Á và trục xuất Hoa Kỳ khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trong hai mươi năm qua, CSVN đã bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội thoát Trung và cải cách chính trị để đất nước có thể phát triển không thua kém Đại Hàn, Đài Loan hay Singapore. Trước sự trở mặt thình lình của Bắc Kinh, Đảng và Nhà nước Việt Nam không kịp chuẩn bị cho việc bảo vệ chủ quyền trên biển để từ đó sẽ mất luôn khả năng bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của đất nước. Trước tình thế gần như tuyệt vọng đó, Việt Nam chỉ có hi vọng được cứu thoát nếu có một tổng lực dân tộc do sự kết hợp của cả ba thành phần: chính quyền, nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Nhưng tổng lực dân tộc này chỉ có thể thành tựu nếu mỗi thành phần đều có những hành động đột phá hướng về hai mục tiêu chung: bảo vệ tổ quốc và thực thi dân chủ.

1. Chính quyền
Đây là thành phần chủ yếu vì đang nắm quyền quyết định vận mệnh dân tộc về mặt đối ngoại, nhưng cũng là thành phần suy nhược, nội bộ chia rẽ và không được nhân dân tin cậy. Ai cũng đã thấy rõ là lãnh đạo Đảng và Nhà nước đang chia làm hai: một phe do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu hoàn toàn dựa vào Trung Quốc (thân Tàu) để bảo vệ chế độ độc tài và quyền lợi nhóm, và một phe do Nguyễn Tấn Dũng lãnh đạo chủ trương phải thoát Trung và chuyển hóa thể chế từ độc tài sang dân chủ (thân Mỹ). Trước nguy cơ mất nước, dù có nghi ngờ cả hai phe “vì họ đều là cộng sản”, nhân dân trong nước và cộng đồng hải ngoại vẫn không có lựa chọn nào khác hơn là chống phe thân Tàu và ủng hộ phe thân Mỹ. Nhưng để có thể được toàn dân hậu thuẫn và tạo thành tổng lực dân tộc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lần này phải thật sự chứng tỏ lời nói đi đôi với việc làm. Những lời chỉ trích Trung Quốc cũa ông Dũng từ hơn một năm nay đã trở nên mạnh mẽ đến mức độ dứt khoát và những phát biểu của ông trong thông điệp đầu năm 2014 gửi nhân dân trong nước đã bộc lộ rõ rệt ý muốn “đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân”, nhưng có thể ông đã không thi hành được ý muốn vì lực cản của đám bảo thủ thân Tàu còn quá mạnh. Tuy nhiên, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chọn thái độ dứt khoát và ở trong một tình thế không thể lùi được nữa thì ông phải có ngay một số hành động đột phá, chẳng hạn:

a. Thành lập ngay một Hội đồng Tư vấn về quan hệ Việt-Trung gồm các trí thức và chuyên gia độc lập trong và ngoài nước. Hội đồng này sẽ làm việc với những Ban Đặc nhiệm (Task Force) về lịch sử, pháp lý, và quan hệ quốc tế của chính phủ để đề xuất những chính sách và biện pháp đối phó với những luận điệu xuyên tạc, thủ đoạn hãm hại và hành động uy hiếp của Trung Quốc. Các thành viên trong hội đồng tư vấn và ban đặc nhiệm sẽ thường xuyên tham khảo với các học giả và chiến lược gia quốc tế có thiện cảm với Việt Nam và chống chính sách bành trướng của Trung Quốc (như Carl Thayer, Jonathan London, Ernest Bower, David Brown). Một hồ sơ tội ác và thủ đoạn nham hiểm của Trung Quốc đối với Việt Nam cần được thiết lập để sẵn sàng có bằng chứng tố cáo trước dư luận quốc tế.

b. Gửi một văn thư kêu gọi lãnh đạo các cấp trung ương và địa phương thức tỉnh trước thái độ tráo trở ngạo mạn của Bắc Kinh, xé bỏ các hiệp ước hòa bình hữu nghị giữa hai nước và quyết tâm biến Việt Nam thành một nước chư hầu. Văn thư cũng kêu gọi toàn thể các đảng viên đang hoạt động hay đã hồi hưu, đặc biệt trong quân đội và công an, hãy thực thi truyền thống oai hùng bảo vệ tổ quốc và nhân dân chống quân xâm lược, và sau hết kêu gọi toàn dân đoàn kết để hợp thành sức mạnh dân tộc cứu nguy đất nước. Thế giới văn minh ở thế kỷ 21 sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam vì không một quốc gia nào chịu sự lãnh đạo của một nước cộng sản độc tài như Trung Quốc. Đây có thể là một bản “hịch” lịch sử.

c. Thực hiện tiến trình dân chủ hóa bằng việc ban hành các quyền tự do cơ bản của con người như tự do báo chí, tự do lập hội, tự do tôn giáo…, thả hết những tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm bị bắt giữ vì bất đồng chính kiến, đền bù công bằng cho những dân oan bị cưỡng chế đất đai, những công nhân bị bóc lột và đối xử tàn tệ. Về mặt thể chế thì bãi bỏ ngay điều 4 Hiến pháp và thành lập hội đồng lập hiến để soạn thảo một bản Hiến pháp mới trên cơ sở tam quyền phân lập, một quốc hội thực sự do dân bầu và một cơ chế chính trị đa nguyên đa đảng.
Những bước đột phá này nếu được thi hành chắc chắn sẽ được toàn dân nhiệt liệt hoan nghênh, mọi thế lực phản động bán nước và quan thày Bắc Kinh sẽ phải chùn bước, và thế giới dân chủ, văn minh sẽ mở rộng vòng tay đón nhận và giúp đỡ Việt Nam phát triển. Chỉ trong một vài thập kỷ, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia giàu mạnh trong khu vực.
2. Nhân dân trong nước 
Thành phần này tuy không có thực quyền và đã bị áp chế lâu ngày đã bỗng nhiên bừng tỉnh vì hành động ức hiếp quá đáng của Trung Quốc, đồng thời cũng vì sức chịu đựng chế độ độc tài tham nhũng đã lên đến mức căng thẳng nhất. Trong thời gian chưa đầy một năm, sau những kiến nghị và thư ngỏ đầy thiện chí của nhân sĩ trí thức bị chính quyền vứt bỏ, các nhóm công dân đã liên tiếp theo nhau ra đời không cần xin phép – nay đã lên tới gần ba chục tổ chức – tất cả đều tranh đấu bất bạo động cho nhân quyền và dân chủ. Một xã hội dân sự đã thật sự thành hình mặc dù vẫn thường xuyên bị hạn chế, đe doạ và một số đã bị bắt giữ. Bất chấp lực lượng an ninh, những hoạt động của xã hội dân sự vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức: diễn đàn điện tử, báo mạng, tọa đàm và hội thảo có chủ đề, thư yêu cầu chính phủ kiện Trung Quốc, thư kêu gọi toàn thể các đảng viên đứng chung với nhân dân, trực tiếp vận động và hội họp với các tổ chức quốc tế và các cơ quan đại diện chính phủ nước ngoài ở Việt Nam, thậm chí đã có thể trực tiếp vận động với Quốc hội và Bộ Ngoại giao ở Hoa Kỳ, Lỉên minh Châu Âu và Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, kể cả đích thân tham gia những cuộc hội thảo của người Việt ở nước ngoài hoặc trao đổi qua màn hình trực tuyến, v.v.
Dù sao, những tổ chức công dân tự phát ở Việt Nam còn quá mới và quá nhỏ. Thực tế là không có một sự thay đổi chính quyền hay thể chế nào có thể diễn ra mà không do sự tranh đấu của một tổ chức quần chúng lớn mạnh như Công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) ở Ba Lan hay một đảng chính trị đối lập có uy tín như Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) ở Myanmar. Việt Nam vì bị cộng sản kìm kẹp quá lâu đã không có được những tổ chức công dân hay đảng phái đối lập và những lãnh tụ nổi bật như Lech Walesa hay Aun Sang Suu Kyi. Vì vậy cần phải có sự xuất hiện của ít nhất một tổ chức đủ lớn và đủ khả năng lãnh đạo quần chúng tranh đấu cho lợi ích của quốc gia. Ba tháng trước đây, tác giả Nguyễn Vũ Bình có một bài viết rất đáng chú ý về sự lớn mạnh của Phong trào Dân chủ trong mấy năm qua nhưng vẫn chỉ là “dấu hiệu cho một sự chuyển đổi cơ bản và toàn diện.”
Trong khi chờ đợi và trước nhu cầu cấp bách của tình thế, các tổ chức công dân riêng rẽ hiện nay cần phải kết hợp với nhau thành một liên minh bình đẳng để phối trí các hoạt động có mục tiêu chung và hỗ trợ lẫn nhau. Như tôi đã đề nghị sơ khởi trong bài “Khúc ngoặt lịch sử” (boxitvn, ngày 14/5/2014): “Các nhóm trong Liên minh này đều độc lập và bình đẳng, hợp tác với nhau trên cơ sở mẫu số chung, đại đồng tiểu dị. Đại diện các nhóm sẽ bầu ra một Hội đồng Điều hành của Liên minh theo lề lối dân chủ, căn cứ trên những điều kiện thích hợp, như hiểu biết, kinh nghiệm, khả năng tổ chức, giao thiệp, v.v. Cũng cần có một bản nội quy ấn định rõ sứ mệnh và cấu trúc của Liên minh, vai trò và trách nhiệm của các nhóm thành viên, nhất là thể thức làm việc cho có hiệu quả và ngăn ngừa được sự lạm dụng quyền lực của một cá nhân hay phe nhóm nào… Như vậy dân tộc mới có đủ sức mạnh bảo vệ độc lập và chủ quyền đất nước đồng thời hậu thuẫn cho sự chuyển đổi thể chế từ độc tài toàn trị sang dân chủ đa nguyên đa đảng một cách trật tự, ôn hoà.” Đây chỉ là sự gợi ý để cho các nhà lãnh đạo xã hội dân sự ở trong nước xem xét và tìm cách thực hiện thích hợp.

Ngày 5 tháng 6 vừa qua, đã có 16 tổ chức xã hội dân sự và tôn giáo lần đầu tiên ngồi lại với nhau tại chùa Liên Trì ở Sài Gòn để thảo luận về sự phát triển XHDS, đòi hỏi chính quyền thực thi những quyền tự do căn bản, và nhấn mạnh vào quyền thành lập công đoàn độc lập. Bốn ngày sau, Liên đoàn Lao động Việt Tự do, gọi tắt là Lao Động Việt (LĐV) ra tuyên cáo xác nhận tham gia cộng đồng xã hội dân sự ở Việt Nam để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người lao động. Đó là những bước đầu tích cực tiến đến sự ra đời của một loại hình chính thức liên kết các tổ chức dân sự, có lãnh đạo và sinh hoạt dân chủ. Điều đáng lo ngại là giữa các tổ chức vẫn có thể có những trở ngại cho sự phối trí và hợp tác, và điều đó, nếu tồn tại, sẽ là một đại bất hạnh cho dân tộc. Mong rằng các nhà lãnh đạo xã hội dân sự ở trong nước có đủ sự sáng suốt, tinh thần trách nhiệm và ý chí vượt qua mọi trở lực để tạo được sức mạnh toàn dân, điều kiện cần thiết để gìn giữ đất nước, thực hiện tiến trình dân chủ và phát triển.
Vai trò của trí thức đặc biệt quan trọng trong việc đối thoại với chính quyền, vận động các đại sứ quán và cơ quan quốc tế (gồm cả giới truyền thông) có đại diện ở Việt Nam, giúp thành lập Liên minh các tổ chức XHDS và giúp thảo kế hoạch và chương trình hoạt động của liên minh nhằm đẩy mạnh những cải cách về chính trị, kinh tế, giáo dục và xã hội. Trí thức cấp tiến trong hay ngoài Đảng cũng sẽ rất đắc lực trong việc cung cấp thông tin, vận động trí thức và nhân dân Trung Quốc nhận ra chính sách sai lầm và tham vọng lỗi thời của các lãnh đạo Đảng CS đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực, nhất là phá hoại tình thân thiết tự lâu đời giữa hai dân tộc.

Nỗ lực đoàn kết, hợp tác trong tinh thần dân chủ để phục vụ lợi ích chung, bảo đảm lâu dài nền độc lập, toàn vẹn chủ quyền và phát triển bền vững cho đất nước, đó là bước đột phá cần thiết của trí thức và nhân dân trong nước, tự giải thoát ra khỏi mọi áp bức của chế độ cộng sản độc tài, mọi thành kiến nghi kỵ, và giành lại đầy đủ quyền công dân của một nước văn minh, dân chủ.

3. Cộng đồng người Việt hải ngoại 
Kiều dân hay công dân ngoại quốc gốc Việt đều được kể là thành phần của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nói gọn là người Việt hải ngoại. Dù ở xa quê hương hay sinh trưởng ở nước ngoài, hầu hết đều vẫn gắn bó tình cảm với nguồn gốc của mình ở những mức độ khác nhau. Tổng số người Việt hải ngoại tính đến nay khoảng trên 4 triệu người, riêng ở Hoa Kỳ có khoảng 2 triệu. Bài này không đi vào chi tiết về lịch sử và đời sống của người Việt hải ngoại mà chỉ tập trung vào vai trò cần thiết và thích hợp của cộng đồng này, đặc biệt là ở Mỹ, đối với tình hình chính trị ở Việt Nam và các quan hệ Việt-Mỹ-Trung.
Nói chung, quan điểm chính trị của Việt kiều ở Nga và các nước Đông Âu trước đây đối với Việt Nam khác xa nếu không muốn nói là đối nghịch với khối người Việt tị nạn ở những nước không cộng sản từ 1975 cho đến khi chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu theo nhau sụp đổ trong năm 1989. Kể từ đó, quan điểm của những Việt kiều ở những nước cựu cộng sản đã bắt đầu thay đổi và cùng với các cơ hội giao lưu gia tăng từ đó đến nay, những suy nghĩ về tình hình đất nước và nhu cầu dân chủ hóa chế độ đã gần như đồng nhất trong đại khối người Việt hải ngoại.
Từ năm 2010, tôi đã nêu vấn đề hiểm họa Trung Quốc và đề cập vai trò của người Việt hải ngoại trong hai bài viết, “Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm họa Trung Quốc” (talawas, 01/03/2010) và “Trước hiểm họa Trung Quốc: Kế hoạch hành động của người Việt hải ngoại” (talawas, 02/07/2010). Như vậy đây là lần thứ ba tôi trở lại vấn đề này nhưng có những nhận định phù hợp với những biến chuyển mới của tình hình, đặc biệt khai triển thêm hai phần về vai trò và những bước đột phá cần thiết của chính quyền cũng như của xã hội dân sự. Vì kế hoạch hành động của người Việt ở nước ngoài đã được trình bày khá đầy đủ trong bài viết ngày 02/07/2010 nên ở đây tôi chỉ nhấn mạnh những điểm chính, nhất là vai trò hỗ trợ của cộng đồng hải ngoại, một quan điểm đã được nhắc đến trong bài viết ngày 01/03/2010 nêu trên và xác nhận rõ hơn trong bài “Thư gửi bạn bè trong nước…” (boxitvn, 05/03/2013) rằng “việc thay đổi tình hình chính trị ở Việt Nam là việc làm của người trong nước, còn người ở bên ngoài chỉ có thể đóng vai trò hỗ trợ.”
Những điểm chính được tóm tắt (với đôi chút cập nhật) là:
* Trước hiểm họa Trung Quốc và tình thế cấp bách hiện thời, cần ủng hộ những lãnh đạo thật lòng bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Nếu ngày nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không những chỉ khẳng định quyết tâm ấy mà còn chủ trương dân chủ hóa chế độ thì người Việt hải ngoại càng cần phải hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự trong nước hậu thuẫn cho ông Dũng đánh bại phe thân Tàu độc tài toàn trị. Một khi đã thoát Trung và thể chế dân chủ đã có cơ sở thì những tội lỗi và sai lầm của chế độ cộng sản sẽ được xử lý một cách công bằng, nhân đạo.
* Trí thức và chuyên gia hải ngoại sẽ cùng với các trí thức chuyên gia yêu nước và cấp tiến ở trong nước đóng góp vào việc giúp chính quyền giải quyết các vấn đề khó khăn về đối nội và đối ngoại, thiết lập các dự án cải cách để có thể ổn định được tình hình chính trị, kinh tế và xã hội, giúp đất nước mau chóng trở thành một quốc gia dân chủ và phát triển. Trong nhiều năm qua, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo, sinh viên và các giới trong và ngoài nước đã có nhiều cơ hội giao lưu, hợp tác, tạo thành một nguồn nhân lực và tài nguyên quan trọng với tiềm năng rất phong phú, sẵn sàng được huy động và sử dụng khi có cơ hội và điều kiện thuận lợi. Các tổ chức phi chính phủ từ bên ngoài với những chương trình y tế, giáo dục và nhân đạo cũng đã tạo được nhiều hạt giống cho sự nảy sinh và phát triển xã hội dân sự.
* Cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều điều kiện hơn người trong nước trong việc tiếp cận các cơ quan chính quyền, quốc hội, các đại sứ quán và tổ chức quốc tế để vận động cho các chính sách có lợi cho Việt Nam trong việc đối phó với Trung Quốc và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xã hội theo chiều hướng dân chủ. Các học giả người Việt ở nước ngoài cũng có nhiều dịp tham gia hội họp và hợp tác với các viện nghiên cứu về Việt Nam, các tổ chức tranh đấu cho quyền con người, các hiệp hội công dân gốc Châu Á-Thái Bình Dương để cùng vận động cho các chương trình, các giải pháp đem lại hòa bình, hợp tác, và phát triển cho các nước trong khu vực.
Việc phân định vai trò của chính phủ, nhân dân và cộng đồng hải ngoại như trên không nhất thiết chỉ thuộc về mỗi thành phần vì trên thực tế có nhiều việc nếu làm chung thì sẽ có hiệu quả hơn. Vấn đề chính là chính phủ – ở đây là chính phủ Nguyễn Tấn Dũng – có đủ quyết tâm thoát ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc và thực thi dân chủ hay không. Tôi biết có nhiều nhân sĩ, trí thức ở trong nước trước đây chống ông nay sẵn sàng giúp ông thay đổi tình thế vì sự tồn vong của đất nước. Đây là một nhiệm vụ lịch sử với muôn vàn khó khăn trước mắt. Trong bài “Việt Nam sẽ ra sao sau bài diễn văn Shangri-La” (boxitvn, 19/06/2013), tôi kết luận bằng một lời cầu nguyện: “Cầu Trời khấn Phật cho ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev Việt Nam”. Nhưng như ngạn ngữ Tây phương đã nói “Hãy tự giúp mình trước thì Trời sẽ giúp ta”, nếu ông Dũng tự giúp ông làm nhiệm vụ lịch sử thì ngoài sự phù hộ của Trời, ông còn có hậu thuẫn của hơn 90 triệu người Việt Nam ở trong và ngoài nước, cộng với sự hỗ trợ tận tình của bạn bè quốc tế. Nếu chẳng may vì lý do nào đó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thất bại, hay quay lưng lại với nhân dân, thì tình huống đó sẽ được Trời và nhân dân xử lý.
Carpe diem! Hãy nắm lấy thời cơ đang có trong tầm tay. Vì đó cũng là cơ hội cuối cùng.
California, 19 tháng Sáu 2014
L.X.K.
Nguồn: procontra.asia
——–
Tác giả Lê Xuân Khoa nguyên là Chủ tịch Trung tâm Tác vụ Đông Nam Á (SEARAC) và Giáo sư thỉnh giảng Đại học Johns Hopkins, USA.

On Thursday, June 19, 2014 12:06 PM, Tam Nguyen <


Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link