Những
góc nhìn trái chiều về Đại tướng
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-10-12
VHNT10122013.mp3
Người dân xếp hàng bên ngoài nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp hôm 9
tháng 10 năm 2013.
AFP
Cái chết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tuần lễ vừa qua đang khuấy
động xã hội miền Bắc một cách tích cực hơn bao giờ hết. Từ Quảng Bình ra tới Hà
Nội, người dân xôn xao với những cảm nghĩ vừa giống lại vừa khác nhau, nhưng
nhìn chung là sự tiếc thương thành thật một danh tướng Việt Nam vừa vĩnh viễn
ra đi, mặc dù ông đã sống vượt sự tưởng tượng của rất nhiều người: 103 tuổi.
Một
danh tướng cô đơn
Ông mất vào buổi chiều ngày 4 tháng 10 nên suốt đêm đầu tiên không
có một biểu hiện gì đáng kể. Thế mà sáng hôm sau, bắt đầu từ chiếc cổng màu
vàng quen thuộc của căn nhà số 30 đường Hoàng Diệu Hà Nội, người dân bắt đầu
tập trung ngày một đông dần. Ban
đầu là len lén nhìn, sau đó là áp sát vào chiếc cổng cũ kỹ mà chừng như gần một
thế kỷ trôi qua không được trùng tu. Cái cổng nhà ấy làm người biết ông càng
chạnh lòng hơn khi so sánh nó với ông khác nào những hoang phế lịch sử. Chiếc cổng còn đó tiếp tục làm vật chứng khi
chủ của nó đã ra đi mang những mẩu chuyện riêng tư của ông trở về cát bụi.
Những câu chuyện tư riêng buồn bã ấy đã theo ông hơn 50 năm. Ngắt
nửa đời còn lại của ngôi sao Điện Biên Phủ và nhấn chìm nó vào sự lãng quên. Thế lực chính trị từ thời đại Lê Duẩn trở đi
đã vùi dập một con người mà hàng trăm nhân chứng
còn sống tới nay sẵn lòng lên tiếng khi được hỏi.
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp nằm xuống cũng là dịp cho báo chí lấy công chuộc lại những
sai lầm của họ từ nhiều chục năm qua. Sự im lặng do bị cấm đoán từ Ban Tuyên
giáo của nhiều đời Tổng bí thư đã khiến báo chí trở thành giấy bản và trên ấy
người ta không thể tìm ra ba chữ Võ Nguyên Giáp ngay cả những dịp kỷ niệm chiến
thắng Điện Biên Phủ quan trọng. Có lẽ do im lặng quá lâu nên khi được nói những điều cần nói, báo
chí vận dụng hết tất cả ngôn ngữ hay ho, có cánh nhất để viết về một vị danh tướng
cô đơn, đã làm nên lịch sử và cũng bị chính lịch sử ấy cùng với đồng lõa của nó
bỏ quên.
Chúng ta khóc cho việc sau này chẳng còn ai đủ lớn để dân còn có
thể thương chung, khóc cùng. Cúi đầu trước ông, cũng đồng nghĩa bày tỏ thái độ
với những ông quan còn đang sống.
-Nhà Văn Nguyễn Ngọc Tư
Điều làm người đọc báo ngạc nhiên trong mấy ngày qua khi hai từ
đúng nhất dành cho ông là “danh tướng” lại không thấy báo chí sử dụng vào những
cái tít, mà thay vào đó là những câu chữ hết sức lạc điệu nếu không muốn nói là
quá đáng. Những cụm từ nâng cao ông lên nhưng không chứng minh hay thuyết phục
được người đọc có nhãn quan trung tính khiến câu chữ mất hết tác dụng. Chỉ là
một nhà giáo hiền lành sống cuộc đời đạm bạc sau khi bị cô lập, nay người ta
nâng ông lên thành “nhà văn hóa” khiến nhiều người ngạc nhiên tự hỏi liệu sự
vượt cấp này sẽ làm một người chứng ngộ như ông cảm thấy ra sao?
Như chưa đủ thỏa mãn, một tờ báo lớn phong thánh cho ông qua cái
tựa “Nhân dân sẽ tôn thờ ông như một vị thánh” Giáo sư sử học Lê Văn Lan thì cho
rằng “từ nhân tướng, ông sẽ trở thành thánh tướng sau này”.
Cũng phong thánh nhưng nhà thơ Ngô Minh phong trong một ý nghĩa
khác, thánh đối trọng với quỷ, những con quỷ đã hãm hại người hiền:
“Mở mắt ra mà nhìn hỡi kẻ tị hiềm
Ngững ngày này cho đến muôn sau
Tướng Giáp đã thành Thánh
Thánh trên TRỜI
Thánh giữa LÒNG DÂN
Hãy nhìn những dòng người trẻ già trai gái Hà Nội, Mường Phăng,
Nước mắt mặn nối nhau về 30-Hoàng Diệu
Dòng người chợ Tréo, Đông Hà, Đồng Hới, Huế, Trường Sơn,
Nước mắt mặn dắt nhau về bờ Kiến Giang An Xá
Nấc nở khóc vị tướng của lòng mình
Khóc một MẶT TRỜI vừa tắt !
Hãy mở mắt to ra mà nhìn hõi kẻ tỵ hiềm
Các vị còn sống đấy chứ? Nếu chết rồi thì con cháu hãy ghi
Một thời tim khô mắt
tròn mắt dẹt
Dở thói côn đồ vu vạ anh hùng
Bôi đen lịch sử, đổi tráo tuổi tên…
Toan đánh hạ tướng uy danh lừng lẫy”
Báo chí với những nhận định ưu ái nhưng khó tránh tranh cãi ấy
ngày một nhiều hơn trên các trang mạng xã hội hay trang blog nổi tiếng. Ban đầu
còn ít, càng gần ngày quốc táng sự tranh cãi gay gắt càng nhiều hơn nhất là
hiện tượng được gọi là “nhẫn” nơi vị tướng lừng danh này.
Giữ
gìn sự đoàn kết cho đại cuộc
Báo chí Việt Nam đăng tải hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ảnh
chụp ngày 05 tháng 10 năm 2013 tại Hà Nội. AFP PHOTO.
Câu
chuyện Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị cô lập và hãm hại qua hai vụ án được nhiều
người biết đến rất mù mờ trước đây được nhà báo Huy Đức hé bức màn “Vụ án xét
lại chống đảng” và “Năm Châu – Sáu Sứ” chi tiết hơn khiến nhiều người nổi giận. Vừa thương vừa trách.
Người ta không thể hiểu được tại
sao ông im lặng chịu đựng những năm tháng lao lý và cả những cái chết oan khuất
của các đồng chí dưới quyền nhưng vẫn không lên tiếng minh oan cho họ.
Trong vai trò Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế
hoạch, người ta không tin vào chữ “nhẫn” mà đại tướng từng xác định. Sự im lặng
kéo dài được hiểu là “cam chịu”, một trạng thái rất gần với “hạ mình”, nhịn
nhục. Vài người còn lớn tiếng gom vào một tính từ “nhục”.
Những hạt sạn ấy làm rất nhiều người cảm thấy bất an. Cả hai bên, viên
sạn “vụ án xét lại chống đảng” và chức vụ “nhục là chính” làm người ta thương
và trách ông. Lý tính và cảm tính không thể đồng hành, cả hai vẫn mạnh ai nấy
giữ tình cảm ẩn chút xót xa đối với vị tướng đã một thời oanh liệt.
Một trong những comment rất kiềm chế xuất hiện trước tiên sau khi
đại tướng mất là của nhà báo Đoan Trang. Trên trang blog cá nhân của mình cô
viết:
“Ông đã chọn cách im lặng, không phải vì ông hèn, mà vì ông là trí
thức, và vì ông thấy cần phải giữ gìn sự đoàn kết cho đại cuộc” – một người
thân của ông có lần nói với tôi như thế.
-Nhà báo Đoan Trang
“Nhiều người thắc mắc về thời kỳ Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch
Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch. Người ta tự hỏi, vì sao một vị
tướng lẫy lừng của Quân đội Nhân dân Việt Nam lại chấp nhận một cương vị công
tác có vẻ “thấp” đến thế so với tài năng và danh tiếng của ông? Có lẽ đây sẽ là
một vấn đề để mai sau này lịch sử xem xét lại, nhưng nếu nhìn ở một khía cạnh
khác, cũng đã có những ý kiến cho rằng một người trí thức cộng sản là phải như
thế: Luôn luôn vì cái chung, vì đại cục. Bởi, sẽ ra sao nếu vào những ngày
tháng khó khăn sau chiến tranh đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sử dụng ảnh hưởng
của mình trong quân đội để đối đầu với những đồng chí của ông, nhằm giữ cho ông
một cương vị, chức vụ cao hơn?
“Ông đã chọn cách im lặng, không phải vì ông hèn, mà vì ông là trí
thức, và vì ông thấy cần phải giữ gìn sự đoàn kết cho đại cuộc” – một người thân
của ông có lần nói với tôi như thế.
Tôi không có ý kiến. Vì tôi không ủng hộ lối tư duy “nhẫn nhịn, im
lặng trước cái xấu, vì đại cuộc”. Nhưng tôi lại cũng nghĩ,nếu Võ Nguyên Giáp
lên tiếng mạnh mẽ từ những năm ấy, ông chắc sẽ không tránh khỏi số phận của
Trung tướng Trần Độ sau này.”
Không nhẹ nhàng như Đoan Trang, nhà báo Phạm Thành cũng là một
chiến binh Điện Biên Phủ, có những giòng chữ cay đắng hơn, tuy nhiên trong cái cay
đắng ấy người ta nghe được mùi mặn của máu và nước mắt:
“Đại tướng ra đi, người lính năm xưa của Đại
tướng thấy mừng hơn là buồn. Cứ tưởng tượng đến các tướng lĩnh dưới trướng Đại
tướng, mấy triệu binh sĩ trong đội quân của Đại tướng, ở dưới âm phủ đợi Đại
tướng đã lâu,
nay quân, tướng được gặp mặt nhau, “tay bắt mặt mừng”, nói nói cười cười, tâm
tâm tư tư… thì Đại tướng như trở về Đại gia đình binh sĩ, chỉ có vui chứ làm gì
có buồn?
Người dân Hà Nội xếp hàng viếng tướng Giáp hôm 09/10/2013. AFP
photo
Vui, nhưng Đại tướng đừng quên, có lúc Đại tướng làm Trưởng ban
Dân số, lo sinh, lo đẻ đúng kế hoạch cho dân nước mình nữa đấy.
Chúc cho Đại tướng, dù ở đâu cũng là nhà quân sự tài ba, đánh nhau
giỏi; nhà kiến trúc lỗi lạc, chăm lo cho dân nước mình sinh đẻ đúng kế hoạch.
Âm phủ như thế là vẹn cả đôi đường. Có tướng tài, có người làm lính
cho Đại tướng cầm quân đi đánh nhau, lo gì cách mạng xã nghĩa của nước mình
không tiến lên đến thế giới đại đồng, lo gì nhân dân không ngưỡng mộ, lo gì thế
giới không ngợi khen?
Người lính năm xưa của Đại tướng chỉ lưu ý với Đại tướng một điều,
Đại tưởng chớ đem chữ
“Nhẫn” ra dạy cho sĩ quan và binh lính để hưởng sự yên ổn, thái bình. Đại tướng
mà dạy như thế chẳng ai chịu đi lính, chẳng ai chịu hy sinh cho Đại tướng nữa
đâu. Như thế Đại tướng lấy
đâu quân lính, lấy đâu ra “nhất tướng công thành vạn cốt khô” để Đại tướng làm
Đại tướng, làm Tổng Tư lệnh? Như thế sự nghiệp chấn hưng Chủ nghĩa xã hội dưới
âm phủ của Đại tướng sẽ không thành.”
Cả
triệu người chung một niềm mất mát
Trong khi Hà Nội tràn ngập những nhánh hoa thương tiếc, Quảng Bình
cố giấu những tiếng nấc vào trong tim thì Sài Gòn tỏ ra không mấy sinh động
trước biến cố này. Người Sài Gòn vẫn gạo chợ nước sông, trôi theo vòng quay
miếng cơm manh áo. Hình như cái chết của danh tướng Võ Nguyên Giáp không đủ sức
lay động trái tim của người Sài Gòn vì cái tên của ông không làm cho số lớn
người dân miền Nam hãnh diện. Nhiều người biết đến Điện Biên Phủ như một chiến
thắng chung của cả nước và Võ Nguyên Giáp nằm trong lòng họ chỉ là cái tên của
một vị tướng tài không hơn không kém. Một phần do chính quyền miền Nam không
khuếch tán chiến thắng của miền Bắc, một phần khác người dân chưa quen với cung
cách tôn sùng lãnh tụ mà Hà Nội vẫn dùng ngay cả sau khi Sài Gòn giải phóng.
Chỗ này chỗ kia, tiếng khóc chưa bao giờ tạnh của những người trót
sinh ra trên đời này, nhưng không mấy khi cả triệu người cùng chung một niềm
mất mát.
-Nhà Văn Nguyễn Ngọc Tư
Giòng chảy lịch sử bị chặn lại từ vĩ tuyến 17 khiến Sài Gòn hững
hờ với Điện Biên, hay nói đúng hơn hờ hững với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông
không chiếm lĩnh quả tim dân chúng miền Nam trọn vẹn cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng với bản tính cởi mở, người miền Nam có thể rơi nước mắt khi hay tin một
người như ông vừa chết tại Hà Nội. Hai chữ đồng bào hình như gắn bó với phương
Nam hơn hai vùng còn lại.
Nguyễn Ngọc Tư có cái nhìn theo góc của ngữ nghĩa này. Tác giả
“Cánh đồng bất tận” quan sát những diễn biến của người Sài Gòn và trải lên giấy
những hình ảnh xao động cảm xúc của người dân vốn ngoại cuộc với chính trị
nhưng luôn mở lòng ra với những điều đơn sơ xảy ra chung quanh như chúng vẫn
thế:
“Mà ông tướng đó cũng không phải ruột thịt, hay họ hàng xa, hay láng
giềng ở cạnh nhà. Ông giỏi thì khỏi nói, cái đó cả thế giới chịu rồi, “nhưng
tụi mình đâu phải thương chỉ mỗi chuyện đó”, bạn quệt cùi tay chùi nước mắt,
nói “nghĩ tới ông như là nghĩ tới ông nội mình, không hề có cảm giác xa xôi vĩ
đại”. Bàn bên mấy anh đòi nợ mướn cũng thôi chửi thề một con nợ khó nhằn, một
anh buột miệng “nhìn ổng hiền như con cọp ăn chay”. Màn hình đông chừng mười
lăm giây nụ cười hồn hậu của ông tướng. Tự biết trong lòng người dân, hình ảnh
ấy còn đọng lại rất lâu.
Bạn tôi tin hồi tại thế ông sống như mình có, không cố ý sống sao cho
dân phải khóc khi lìa cõi tục. Tự nhiên từ khí chất. Thấy ông tưới phong lan,
cũng lui cui như ông già kế bên nhà. Thấy nụ cười, biết rằng những oan khuất
nhục vinh đã bị ông phẩy tay bỏ lại. Chỉ dân là ông không quên, khi thỉnh
thoảng gửi báo những bài viết tâm huyết đóng góp cho chính sách dân sinh.
Mấy hôm trước cà phê sáng với nhau bạn còn kêu xã hội nhìn đâu cũng
rẽ chia xáo xác. Sẵn sàng cãi nhau vì một cuốn sách, ông xài điện thoại Mỹ tôi
dùng điện thoại Hàn, vì em mê nhạc sến anh thích sang. Cảm giác loạn lạc từ
chính trường cho tới từng mái ấm, từng cái tổ của mỗi người. Đi bên bờ vực ai
không chịu được nấy rơi, tưởng không có gì ngăn lại được dòng người chèn lấn.
Bỗng tất thảy họ dừng lại chỉ vì một hơi thở vừa dứt vô phương nối lại. Bạn
rươm rướm nói, ông tặng cái chết của mình cho người dân như một cơn mưa phúc lành.
Họ, cũng như bọn tôi, ẩn nỗi tiếc thương ông già rực rỡ đó, thấy tâm hồn mình
bỗng dưng liền sẹo, bâng khuâng vì ý nghĩ mình cũng còn khả năng khóc cho một
người dưng.
Cách khóc mỗi người mỗi khác, có người tận nhà ông già cúi đầu đặt
bó hoa, người ở xa ngồi trước tivi lén kéo chéo áo lau đuôi mắt, người nuốt
trộng vào lòng, người lại thở hắt ngậm ngùi “rồi ai cũng về, người ở đến gần
một trăm lẻ ba năm chớ đâu ít ỏi gì, mà sao ai cũng tiếc, lại có người ở mới
sáu mươi mà dân ngán ngẩm thôi rồi”. Chỗ này chỗ kia, tiếng khóc chưa bao giờ
tạnh của những người trót sinh ra trên đời này, nhưng không mấy khi cả triệu
người cùng chung một niềm mất mát.
Bạn nói có bốn trong mười phần nước mắt đã chảy ra, chúng ta khóc cho
việc sau này chẳng còn ai đủ lớn để dân còn có thể thương chung, khóc cùng. Cúi
đầu trước ông, cũng đồng nghĩa bày tỏ thái độ với những ông quan còn đang
sống.”
Đúng như Nguyễn Ngọc Tư nhận xét, một sự ra đi gây thương tiếc cho
nhiều người như thế không dễ gì được lập lại trong vài mươi năm tới. Hiền tài không có, nước
mắt người dân lại phải cứ đổ ra cho gia đình, con cháu và bản thân mình ngày
một nhiều thì còn đâu dành dụm được cho các lãnh tụ về sau, kể cả khi minh quân
xuất hiện?