TỔNG
HỢP Ý KIẾN XÃ HỘI VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VIỆT NAM
Trước hết, chúng ta cần rõ ràng về mục tiêu
dân chủ. Hoạt động cho dân chủ, xã hội công bằng hiển nhiên là mục
tiêu lâu dài của cả xã hội – không thể xem đó là hành vi phạm
pháp hay hoạt động chống lại nhân dân, phản bội Tổ quốc.
Thứ hai,
chúng ta cần nhận diện và phân định xác đáng những vấn đề lâu nay trong xã hội,
vì xã hội Việt Nam vốn bị đánh lạc hướng bởi tuyên truyền một chiều nên không
phải lúc nào các vấn đề cần giải quyết cũng được nhận diện một cách đúng đắn. Vấn
đề du nhập ý thức hệ cộng sản “kiêu căng và cố chấp” đã tạo ra hệ thống chính
trị bất trị.
Cũng vì bị tiêm nhiễm quá nặng ý thức hệ sai lầm và cố chấp đó mà
Đảng Cộng sản Việt Nam đã bất chấp cả pháp lý lẫn đạo lý xã hội.
Việt Nam đã
qua thời chiến tranh ý thức hệ đẫm máu sai lầm. Vấn đề hiện nay không còn là
cộng sản hay chống cộng nói chung. Vấn đề hiện nay là tham nhũng hay chống tham
nhũng, dân chủ hay phi dân chủ, pháp trị hay đảng trị.
Khẩu hiệu “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong
chế độ một đảng thực tế là: Đảng Cộng sản tự biến Đảng thành nhà nước, biến tài
sản nhà nước thành tài sản của Đảng.
Chỉ có chế độ “Đảng là Nhà nước” mới có
thể biến báo chí và các phương tiện truyền thông của xã hội thành các cơ quan
tuyên truyền một chiều cho Đảng, biến trường học thành bộ máy giáo dục sản xuất
rập khuôn một ý thức hệ phục tùng cho lợi ích của thiểu số cầm quyền, biến toà
án thành các cơ quan thi hành chỉ thị của Đảng, biến cả Quốc hội – cơ quan
quyền lực cao nhất nước – thành diễn đàn phục vụ cho Đảng.
Đó là những đặc điểm
của chế độ một đảng mà chúng ta cần nhận diện nhằm thúc đẩy các thay đổi cho
phù hợp với mục tiêu xã hội dân chủ, công bằng.
Vấn đề độc đảng, gây bất công,
kềm hãm xã hội lâu nay là nhằm phục vụ cho lợi ích riêng và tham vọng độc quyền
chính trị của thiểu số cầm quyền.
Thế nhưng những hậu quả – suy đồi chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục – lại là trách nhiệm mà toàn xã hội phải gánh chịu.
Để khắc phục những hậu quả đó và tránh nguy cơ người dân nổi dậy, điều tiên
quyết là Đảng Cộng sản Việt Nam cần trả lại quyền làm chủ cho người dân thông
qua một bản hiến pháp dân
chủ chuẩn mực. Sự
tệ hại của Đảng Cộng sản đã quá độ mà còn cơ hội hô hào chỉnh đốn đảng như hiện
nay là điều may mắn. Tuy nhiên, hô hào chỉnh đốn đảng mà không sửa lỗi hệ thống
và bắt đầu bằng một hiến pháp dân chủ thì vẫn chỉ là chiêu bài cũ, không thể
cứu vãn được tình thế.
Thực chất về hô hào tranh đấu vì mục tiêu dân
chủ
1. Trong Hiến pháp của Đảng Cộng sản quy định
Nhà nước đảm bảo thực hiện xã hội công bằng, dân chủ, nhưng giới cầm quyền lại
tuyên bố không chấp nhận đa đảng tại Việt Nam. Ý kiến của Đảng Dân chủ về vấn
đề này như thế nào?
Đảng Cộng sản quy định trong hiến pháp nhà
nước bảo đảm thực hiện xã hội công bằng, dân chủ mà lại tuyên bố ‘Việt Nam
không chấp nhận đa đảng’ hiển nhiên là trái ngược với pháp lý, lương tâm và lẽ
phải. Những tuyên bố như trên là chủ quan, mang tính độc đoán.
Trong thể chế
cộng hoà, quyết định có đa đảng hay không là lựa chọn của người dân thông qua
lá phiếu chứ không phải do một cá nhân hay tổ chức nào tự quyết định. Tại Việt
Nam, tuy mang tiếng là chủ nhân đất nước, nhưng nhân dân chưa bao giờ được
trưng cầu ý kiến về việc này.
Tiêu chuẩn của chế độ đa đảng là nhà nước pháp quyền,
bầu cử tự do, công bằng. Người dân có quyền chọn lựa người đại
diện của họ thông qua lá phiếu, và có quyền (pháp luật quy định) bãi nhiệm
chính phủ bất tín chứ không phải chỉ nói suông. Điều rõ ràng trong chế độ dân
chủ là quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân được hiến định và được nhà nước bảo
vệ.
Ngược lại, chế độ độc đảng hiển nhiên là chế độ chuyên quyền, bầu cử
chỉ mang tính hình thức, hiến pháp và luật pháp bị một đảng áp đặt lên toàn xã
hội. Nhưng điều tráo trở nguy hại là quyền làm chủ của nhân dân luôn được nhà
nước hô hào nhưng lại luôn bị xâm phạm và không được bảo vệ.
Do đó, vấn đề đơn phương tuyên bố ‘không chấp
nhận đa đảng’ không chỉ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân mà còn rõ ràng đi
ngược lại các nguyên tắc hiến định về dân chủ mà đảng cầm quyền đã hô hào từ
nhiều năm nay. Điều đáng chú ý ở đây là chế độ nói một đằng làm một nẻo.
Khi nói đến dân chủ thì không thể không thực hiện bầu cử đa thành phần với bản
hiến pháp của toàn dân.
Cho nên, chuyện một đảng chuyên quyền mà hô hào tranh
đấu vì mục tiêu dân chủ cho xã hội rõ ràng là nghịch lý, hoang đường, và mị
dân.
Sự thật về tranh đấu vì mục tiêu xã hội công
bằng
2. Tranh đấu vì mục tiêu xã hội công bằng là
nghĩa vụ đúng đắn, cần thiết, lâu bền và thực tế cho mọi xã hội. Tại Việt Nam,
các chính đảng cùng với toàn dân đã giành lại độc lập, thông qua bản Hiến pháp
dân chủ năm 1946 và thành lập được một chính phủ đa đảng đầu tiên.
Thế nhưng, sau
hơn nửa thế kỷ cầm quyền, dù liên tục hô hào xây dựng xã hội công bằng nhưng
Đảng Cộng sản Việt Nam (trước đây là Đảng Lao động) đã từng bước biến chính phủ
đa đảng năm 1946 thành chính phủ một đảng như hiện nay. Đảng Dân chủ nghĩ
thế nào về vấn đề này?
Hô hào xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội
công bằng, dân chủ mà vẫn chưa có hiến pháp dân chủ thì chỉ là nói suông,
mọi giải thích đều là ngụy biện. Việt Nam đã có lịch sử lập hiến hơn
nửa thế kỷ mà đến nay đất nước vẫn chưa có được một bản hiến pháp dân chủ
đúng nghĩa và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước vẫn cai trị nhân
dân bằng các chỉ thị và mệnh lệnh của đảng cầm quyền, và tình trạng
pháp luật tùy tiện này không khác nhiều so với thời còn chế độ thực dân,
phong kiến.
Xã hội công bằng cơ
bản được hiểu là mọi người trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật và có cơ
hội như nhau trong tất cả các lãnh vực – từ chính trị, kinh tế, xã hội, y
tế đến giáo dục, v.v… Đảng Cộng sản luôn hô hào xây dựng xã hội công bằng
nhưng lại chủ trương chế độ một đảng, áp đặt hiến pháp và pháp luật của một
đảng lên toàn xã hội. Dù vấn đề này đã bị Đảng Cộng sản biến thành chuyện
thường ngày, không để người dân quan tâm nhưng đây chính là vấn đề lớn
nhất cần phải làm sáng tỏ.
Độc đảng đồng nghĩa với quyền lực không có đối
trọng và không có kiểm soát. Đây chính là nguồn gốc của quốc nạn tham nhũng,
cường quyền, là nguyên nhân cốt lõi gây ra bất công dai dẳng trong xã hội.
Đảng Dân chủ Việt Nam cho rằng, xã hội công
bằng chỉ có thể bắt đầu bằng lãnh đạo với tư duy dân chủ và
trên nền tảng hiến pháp của
toàn dân và cơ chế nhà nước minh bạch. Một xã hội thiếu dân
chủ thì không thể tạo lập xã hội công bằng.
Về vấn đề đàn áp, trả thù
3. Lâu nay công luận cho rằng Đảng Cộng sản
độc quyền chiếm dụng báo chí và các cơ quan truyền thông cho mục đích tuyên
truyền một chiều. Các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hoạt động dân chủ
cho Việt Nam vẫn luôn bị Đảng Cộng sản quy chụp là những phần tử háo danh, tổ
chức phản động lưu vong, thế lực thù địch, phạm tội chống lại nhân dân
Việt Nam, chống lại dân tộc, phản bội tổ quốc… Đảng Cộng sản cũng luôn
tuyên truyền rằng cuộc chiến bảo vệ xã hội chủ nghĩa của họ là một mất một còn
và xã hội có đa đảng thì sẽ gây ra bất ổn, rối ren, thậm chí xảy ra chiến tranh
và Đảng Cộng sản sẽ bị trả thù. Quan điểm của Đảng Dân chủ về các vấn đề đó như
thế nào?
Mục tiêu xã hội công bằng, dân chủ đòi hỏi
thông tin đa chiều, trung thực, kịp thời và đầy đủ thay vì phân biệt báo chí lề
phải, lề trái, hay gây chia rẽ, kích động hận thù. Cần phân biệt rõ giữa đảng
chính trị, nhà nước, dân tộc và tổ quốc để không bị tuyên truyền nhầm lẫn.
Lịch
sử cho thấy chỉ có dân tộc mới vĩnh cửu, chỉ có tổ quốc mới trường tồn, còn
đảng chính trị và nhà nước chỉ là phương tiện tổ chức và điều hành xã hội, cho
nên không thể đánh đồng Đảng Cộng sản Việt Nam là dân tộc hay nhà nước là tổ
quốc.
Hận thù giữa người Việt trong cuộc chiến huynh
đệ tương tàn ở thế kỷ trước là sai lầm. Chiến tranh đã kết thúc và Việt Nam đã
bang giao với các nước cựu thù thì không có lý do gì hận thù lại tiếp tục tồn
tại giữa người Việt với nhau. Từ khi thống nhất đất nước năm 1975 đến nay, xã
hội đã bước sang giai đoạn mới – giai đoạn đấu tranh xây dựng xã hội công bằng.
Công cuộc tranh đấu hiện nay cần phân định giữa tham nhũng và chống tham nhũng,
giữa dân chủ và phi dân chủ, giữa pháp trị và đảng trị chứ không phải
tranh cãi về chủ nghĩa hay tư tưởng… Bắt nguồn từ tư duy độc tôn, Đảng Cộng sản
đã đánh đồng Đảng là nhà nước, là tổ quốc, là dân tộc, cho nên khi đề cập đến
các vấn đề của Đảng thì bị quy chụp là phản động, chống lại nhân dân, thế lực
thù địch… Chính các hành động này mới là vấn đề gây chia rẽ, kích
động hận thù, vi phạm pháp luật, cản trở sự tiến bộ của xã hội, và trái ngược
với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền. Rõ ràng đây là chiêu bài lừa gạt cho
mục tiêu độc quyền chính trị của thiểu số cầm quyền.
Trong thời điểm hiện nay khi chủ quyền đất
nước và toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa, việc đoàn kết dân tộc và điều
hành xã hội theo nguyên tắc dân chủ là cấp thiết. Trước quốc nạn tham
nhũng, thực trạng bất công và đạo đức xã hội suy đồi, việc tiếp tục không
đổi mới chính trị mới là nguyên nhân gây thêm bất ổn trầm trọng cho xã hội… Đa
đảng tự bản thân nó không dẫn đến hỗn loạn, mà ngược lại tạo cơ hội cho tất cả
công dân có quyền tham gia vào công việc chung của nhà nước, tránh tình trạng
lạm quyền, cũng như tạo và góp phần ổn định xã hội.
Nhìn vào những biến cố
tại các nền dân chủ mới, hỗn loạn và mất ổn định không phải từ phía người dân
đòi dân chủ, mà do bạo lực và những hành động phi pháp từ phía nhà cầm
quyền. Trong xã hội dân chủ pháp trị thì vấn đề trả thù, cầm tù trái phép
cũng khó diễn ra.
Đảng Dân chủ tin rằng đã đến lúc Việt Nam
cần khép quá khứ lại và cùng nhau hướng về tương lai, dù đã trễ. Đảng Dân
chủ Việt Nam hướng đến phối hợp với mọi thành phần xã hội, tất cả người dân
Việt Nam trong và ngoài nước không phân biệt quá khứ chính trị.
Chúng ta không
nên lặp lại các sai lầm trong quá khứ gây chia rẽ giữa người Việt với người
Việt. Việc các đảng viên Đảng Cộng sản yêu nước sát cánh với các thành phần dân
chủ từng bước chuyển đổi cho phù hợp với những đòi hỏi thiết thực của xã hội là
đúng đắn và cần thiết. Giới cầm quyền cần có trách nhiệm vì tương lai của
các thế hệ hôm nay và mai sau thay vì độc tôn và độc quyền chiếm giữ quyền lợi
cho cá nhân mình.
Xem thêm:
Không khó bắt gặp những bài báo của Đảng Cộng
sản bôi xấu các cá nhân hoặc tổ chức hoạt động dân chủ với giọng điệu kích động thù
hận, gây chia rẽ, và phi dân chủ. Hãy xem một đoạn trích trên báo Công an tháng
3 năm 2012, để thấy rõ hơn về những hành động cổ hủ, nặng tính độc tôn và thiếu
tư duy dân chủ của các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam:
“Mới đây, tại Hội nghị cán bộ toàn quốc triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 – khóa XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
chỉ rõ, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản
động. Chúng áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến
dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt, kích động
vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là bốn đòn đột phá khẩu, bốn mũi
xung kích để chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị của ta.”
Về phương diện hợp thức
4. Đảng Dân chủ có hợp thức tại Việt Nam
không?
Đảng Dân chủ chính thức được thành lập tại
Việt Nam năm 1944, hoạt động đến năm 1988 và phục hoạt lại
vào năm 2006. Đảng Dân chủ Việt Nam đã từng tham chính, trực tiếp tham gia soạn
thảo bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước vào năm 1946. Vì dân chủ là nhu cầu xã
hội, đồng thời cũng là mục tiêu hoạt động của các chính đảng lâu nay nên việc
Đảng Dân chủ Việt Nam có hợp thức hay không, không phải là điều cần bàn thảo.
Nhưng vấn đề cần hóa giải hiện nay là sự hợp thức và tính cầm quyền chính danh
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành lập từ năm
1930 nhưng đến nay Việt Nam vẫn chưa có luật lập hội, lập đảng để Đảng Cộng sản
hợp thức hóa bằng pháp luật. Tương tự, về tính cầm quyền chính danh, kể từ Hiến
pháp 1959 đến nay, Việt Nam chưa có bản hiến pháp nào ban hành có giá trị pháp
lý đối với nhân dân, bởi các hiến pháp đó chưa bao giờ được nhân dân phúc quyết
thông qua như trong quy định của Hiến pháp gốc năm 1946.
Hơn nữa, toàn thể đại
biểu quốc hội và các chức vụ lãnh đạo trong nhà nước từ trung ương xuống địa
phương đều do Đảng Cộng sản quyết thông qua hình thức bầu cử áp đặt và chiếu
lệ, thay vì do nhân dân chọn lựa thông qua thủ tục bầu cử dân chủ một cách tự
do và công bằng. Cho nên hiện nay tại Việt Nam, về phương diện pháp lý, Đảng
Cộng sản không hợp thức
và cầm quyền cũng không chính danh.
Như đã trình bày, kể từ Hiến pháp 1959 đến
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tự soạn thảo, tự thông qua, tự ban hành, tự cầm
quyền chứ không được nhân dân chính thức thỏa thuận trao quyền. Về vấn đề này,
Đảng Cộng sản Việt Nam không thể không tự nỗ lực điều chỉnh để các hoạt động
chính trị được hợp thức và cầm quyền được chính danh.
Vì Việt Nam chưa có luật lập hội, luật thành
lập đảng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã thao túng chính trường, đàn áp các tiếng
nói tiến bộ cho mục đích duy trì độc quyền chính trị. Riêng về Đảng Dân chủ tại
Việt Nam, các đảng viên hoạt động công khai đã bị hãm hại tù đày, các văn phòng
đại diện của Đảng bị quấy nhiễu và khủng bố. Cho nên để hóa giải vấn đề, các
lực lượng dân chủ trong và ngoài Đảng Cộng sản cần liên kết có hệ thống. Cá
nhân không thể thay thế hệ thống, chỉ có hệ thống mới khắc phục hệ thống.
Đảng Dân chủ Việt Nam là một tổ chức chính
trị ôn hòa của người Việt, sinh hoạt chính trị lành mạnh
theo hệ thống và
cácnguyên tắc dân
chủ chuẩn mực. Đảng Dân chủ là môi trường phát huy dân chủ,
là nơi rèn luyện đảng viên, đặc biệt về tư tưởng dân chủ và tư cách lãnh đạo.
Đảng Dân chủ Việt Nam được xây dựng bằng tư duy tiến bộ và hệ thống dân chủ, sẽ
là một hệ thống chính trị nhân bản cân bằng các thế lực chính trị khác, giúp xã
hội phát triển toàn diện và bền vững.
Về vấn đề nhân danh pháp luật đàn áp nhân dân
5. Trong năm 2009 và 2010, Đảng Cộng sản Việt
Nam thông qua các tòa án đã tuyên án giam cầm các lãnh đạo và cộng sự của Đảng
Dân chủ đối với Tổng Thư ký Lê Công Định, Phó Tổng Thư ký Trần Anh Kim và
Nguyễn Tiến Trung, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, các doanh nhân Trần Huỳnh
Duy Thức, Lê Thăng Long, và Phùng Lâm, với các tội danh “tham gia tổ chức nhằm
lật đổ chính quyền nhân dân” và “tuyên truyền chống phá nhà nước”. Nhiều quốc
gia và các tổ chức nhân quyền quốc tế cũng đã chỉ trích và lên án nhà cầm quyền
Việt Nam nặng nề, riêng quan điểm của Đảng Dân chủ về vấn đề này như thế nào?
Đảng Dân chủ nhắc lại rằng, Đảng Cộng sản cầm
quyền nhưng không được nhân dân chính thức trao quyền (Hiến pháp 1992 là Hiến
pháp áp đặt do không được nhân dân phúc quyết). Do đó, Đảng Cộng sản không có
quyền chính danh và pháp luật của Đảng Cộng sản không phải là pháp luật của
toàn dân. Các phiên tòa đối với đảng viên Đảng Dân chủ, cũng như tất cả các
phiên tòa chính trị khác, chỉ là tuồng diễn pháp lý của một đảng tiếm quyền đàn
áp các tiếng nói bất đồng.
Thực tế là, tất cả các chí hữu của Đảng Dân
chủ không có tội,
không vi phạm pháp luật quốc gia hay quốc tế. Những hoạt động dân chủ mà anh em
tham gia thúc đẩy là những hành động yêu nước và chính đáng. Câu hỏi mà công
luận đặt ra là, nếu như luật pháp phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
được ban hành một cách chính danh, công bằng và minh bạch thì lâu nay Việt Nam
đã không có tù nhân chính trị. Cho nên, đây không phải là vụ án hình sự hay vụ
án đơn lẻ của những cá nhân, mà là kế hoạch đàn áp chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với các hoạt động dân chủ.
Không nên nhầm lẫn hoạt động cho dân chủ, cho
xã hội công bằng là hành vi phạm pháp hay chống lại Việt Nam. Cần thấy rõ rằng
vấn đề quy chụp và chủ trương tạo sự nhầm lẫn là để phục vụ cho mục
tiêu bất chính của đảng cầm quyền.
Kể từ khi phục hoạt, Đảng Dân chủ không ngừng
phát triển đảng viên trong cũng như ngoài nước, vì thế đảng cầm quyền luôn tìm
cách trấn áp, bất chấp đạo lý và lẽ phải. Đảng Dân chủ nhắc lại, tòa án không
phải nơi giải quyết những bất đồng chính trị, mà nghị trường mới là nơi phù
hợp. Đảng Cộng sản Việt Nam nên vì mục tiêu xã hội công bằng, dân chủ như
đã hô hào mà sớm trả tự do cho các tù nhân chính trị và điều chỉnh cách hành xử
cho hợp với pháp lý chuẩn mực và lẽ công bằng.
Về phương diện mục tiêu hoạt động
6. Mục tiêu hoạt động của Đảng Dân chủ khác
với mục tiêu của Đảng Cộng sản như thế nào?
Hoạt động vì mục tiêu dân chủ, xã hội công
bằng là thực tế và luôn cần thiết. Đó là những điều tốt đẹp và có thể nói cũng
là mục tiêu lâu dài của xã hội. Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm hiện nay là
cách hoạt động của Đảng Cộng sản, cũng như cách nhà nước điều hành xã hội như
thế nào để đạt tới mục tiêu mà không áp đặt, hại dân, trái với pháp lý, ngược
với lẽ công bằng.
Mục tiêu của Đảng Dân chủ là xây dựng và bảo
vệ đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân chủ, nhân bản
và thịnh vượng. Trong đó, toàn thể nhân dân Việt Nam đều có các quyền
tự do, đồng đều cơ hội mưu cầu hạnh phúc và tiến thân trong một xã hội văn
minh, công bằng. Đảng viên Đảng Dân chủ sinh hoạt ở trong hay ngoài nước, tất
cả đều chỉ phục vụ cho Tổ quốc Việt Nam.
Nếu “chủ nghĩa xã hội” mà Đảng Cộng sản Việt
Nam ca ngợi cuối cùng cũng là xã hội dân chủ, công bằng, tiến bộ, văn minh… thì
việc tranh cãi về chủ thuyết này là không cần thiết, mà cơ chế nhà nước minh
bạch và cách điều hành xã hội theo pháp luật mới chính là nút thắt vấn đề. Một
nhà nước pháp quyền, điều hành xã hội đòi hỏi cả hệ thống và nguyên tắc dân
chủ. Lâu nay Đảng Cộng sản không chỉ né tránh vấn đề, mà còn chủ trương đánh
lạc hướng công luận bằng các ngụy biện và thủ đoạn. Việc điều hành xã hội bằng
pháp luật được nhân dân chuẩn thuận là một đòi hỏi cấp thiết của xã hội dân chủ
thì Đảng Cộng sản lại không đáp ứng; còn chống tham nhũng mà cũng độc quyền thì
làm sao có thể đánh bại quốc nạn tham nhũng.
Các nước phương Tây với chế độ dân chủ đa đảng
không hô hào chủ thuyết như ở các nước xã hội chủ nghĩa nhưng lại đang phát
triển tốt. Người dân của họ có đời sống cao hơn nhiều so với các nước có chế độ
cộng sản kém phát triển, đầy rẫy bất công và các tệ nạn xã hội. Rõ ràng, kinh
tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự là ba trụ cột của xã hội dân
chủ phát triển lành mạnh mà các quốc gia phát triển đang thực hiện tốt.
Trong
khi tại Việt Nam, nhà nước vẫn tiếp tục ngụy biện đánh lạc hướng về các vấn đề
xã hội thay vì tiến hành tạo nền tảng pháp lý và chính trị cần thiết của xã hội
công bằng: thực hiện bầu cử dân chủ để
có quốc hội chính danh và phúc quyết thông qua một bản hiến pháp của
toàn dân.
Cần hiểu rằng, mục tiêu và phương tiện chính
trị để đạt được mục tiêu đều quan trọng như nhau. Mục tiêu vì xã hội dân chủ,
công bằng thì phương tiện cũng không thể khác. Đảng cầm quyền không thể hành
động bất công, phi dân chủ mà đạt tới mục tiêu công bằng, dân chủ.
Vấn đề lâu
nay tại Việt Nam là lãnh đạo cộng sản hô hào “phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ
của nhân dân” trong khi quyền làm chủ của nhân dân chưa bao giờ có trong hiến
pháp cũng như trên thực tế; Đảng Cộng sản hô hào tranh đấu vì mục tiêu xã hội
công bằng nhưng lại chiếm giữ độc quyền chính trị trong khi Đảng Cộng sản chỉ
chiếm khoảng 5% trong xã hội; hô hào bầu cử công bằng nhưng lại tổ chức bầu cử
bất công; hô hào xây dựng nhà nước pháp quyền nhưng lại áp đặt hiến pháp và
pháp luật lên toàn xã hội; hô hào phát huy dân chủ nhưng lại độc tôn, trù dập,
bỏ tù các tiếng nói yêu nước có quan điểm chính trị tiến bộ.
Một đảng chính trị, đặc biệt là đảng cầm
quyền, mà bất nhất giữa mục tiêu và phương cách hành động, thì dù có ngụy biện
thế nào cũng không thể được nhân dân tin cậy. Hậu quả là bất ổn chính trị tiếp
tục kéo dài và việc chế độ bị sụp đổ là điều khó tránh khỏi. Đó là lý do tại
sao chế độ xã hội chủ nghĩa đã phải sụp đổ và chủ nghĩa cộng sản cũng đã cáo
chung ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Trường hợp ở Việt Nam có khác – ngụy biện
lâu hơn – nhưng không phải ngoại lệ.
Về vấn đề “lật đổ” hệ thống tiếm quyền tham
nhũng
7. Trong cuộc Đối thoại Phòng, Chống Tham
nhũng tại Hà Nội ngày 29 tháng 11 năm 2011, tiến sĩ Antony Stokes thuộc Đại sứ
Vương Quốc Anh, đã phát biểu rằng
nạn tham nhũng mang tính hệ thống ở Việt Nam đã trầm trọng hơn trong nửa thế kỷ
qua bất chấp các nỗ lực của pháp luật. Trước tình trạng tham nhũng đe dọa tính
ổn định và uy tín của Việt Nam, nhiều nhân sĩ và các tổ chức đòi lật đổ xóa sổ
hệ thống cộng sản tham nhũng, Đảng Dân chủ có ủng hộ vấn đề đó không?
Độc đảng và độc quyền tất dẫn đến tập quyền và
tham nhũng. Xã hội có cường quyền, tham nhũng thì có đấu tranh – đó là quy luật
tự nhiên. Thực tế từ năm 1960 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (trước năm 1976
ẩn danh là Đảng Lao động) cầm quyền không còn tính chính danh. Vấn đề Đảng Cộng
sản loại bỏ Hiến pháp gốc 1946, tước bỏ quyền làm chủ của nhân dân, tự soạn
thảo và thông qua các Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2001 (sửa đổi) đồng nghĩa với
việc Đảng Cộng sản cầm quyền nhưng không hợp thức. Đây chính là nguồn gốc gây
ra các bất công và quốc nạn tham nhũng dai dẳng. Một nhà nước tiếm quyền của
dân, không thông qua bầu cử công bằng, không tôn trọng và không có trách nhiệm
với nhân dân nên có nhiều người trong xã hội nảy sinh ý muốn xóa bỏ hệ thống
nhà nước tham nhũng, hại dân là điều không khó hiểu.
Chính vì vậy mà đã có ý
kiến từ giới lãnh đạo Đảng Cộng sản rằng nếu không đổi mới chính trị thì không
thể đánh bại được tham nhũng.
Tuy vậy, quan điểm của Đảng Dân chủ Việt Nam
về vấn đề này rất rõ ràng: Đảng Dân chủ không phải là thế lực thù địch của bất
cứ ai. Mục tiêu của Đảng Dân chủ không phải lật đổ bất kỳ chính quyền nào, mà
là hoạt động ôn hòa nhằm thúc đẩy cho Việt Nam sớm có một hiến pháp dân chủ để
xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập, và nhân bản trong một nền kinh tế sinh
động.
Đảng Dân chủ Việt Nam luôn mong muốn các chính
đảng hoạt động công khai, bình đẳng và tuân thủ pháp luật. Đảng Dân chủ không
ủng hộ những hoạt động bất chính của bất cứ cá nhân hay thành phần nào trong xã
hội. Dù Đảng Cộng sản trên thực tế chỉ là thành phần thiểu số trong xã hội,
chưa đến 5% dân số Việt Nam, nhưng chuyện “xóa sổ” một đảng chính trị nào đó là
do người dân quyết định thông qua lá phiếu, chứ không do ý muốn chủ quan của
bất kỳ cá nhân hay lực lượng chính trị nào.
Về phương diện tâm lý xã hội
8. Nhu cầu thực tế của xã hội là dân chủ và
lâu nay Đảng Cộng sản cũng hô hào xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, nhưng tại
sao đến nay công cuộc dân chủ hóa vẫn chưa có sự tham gia tích cực của các
thành phần xã hội? Sự sai lầm bắt nguồn từ tư duy độc tôn cũng đã có nhiều
tiếng nói tâm huyết nêu thẳng vấn đề – từ người trong đến người ngoài Đảng Cộng
sản, từ người trong nước đến người ngoài nước, từ đảng viên cấp thấp đến lãnh đạo
cấp cao, kể cả Thủ tướng, các Bộ trưởng, Chủ tịch Quốc hội đến Phó Chủ tịch
nước. Vậy mà vấn đề dân chủ đa nguyên cũng vẫn chưa được nhà nước đáp ứng hay
điều chỉnh, ý kiến của Đảng Dân chủ về việc này như thế nào?
Nếu các cựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã phải
lên tiếng thì rõ ràng các vấn đề trong xã hội không chỉ là cục bộ, rời rạc, mà
mang tính hệ thống. Một hệ thống chính trị đã không biết nghe những tiếng nói
tâm huyết từ những người một thời đã xây dựng ra nó hiển nhiên là bất trị, cần
phải được thay đổi.
Lỗi hệ thống này thể hiện ngay trong hiến pháp
và pháp luật, bên cạnh các vấn đề lương tâm và tầm nhìn. Lý do mà các lãnh đạo
cộng sản không đáp ứng các tiếng nói tâm huyết hay nguyện vọng của người dân
chính vì quyền làm chủ của nhân dân đã bị giới lãnh đạo thao túng ngay trong
hiến pháp. Nếu nhân dân thực sự có quyền làm chủ đất nước (quyền bầu cử ứng cử
tự do, quyền phúc quyết hiến pháp…) thì giới lãnh đạo cộng sản đã không dám xem
thường nhân dân. Nếu quyền làm chủ đất đai được hiến định và nhà nước bảo vệ
thì tình trạng dân oan và những vụ như trường hợp ở Tiên Lãng hay Văn Giang
không thể xảy ra.
Lâu nay, từ người dân bình thường đến các cấp
lãnh đạo đều nói nhiều về dân chủ và mong muốn đất nước có dân chủ nhưng số
người tham gia trực tiếp vào các hoạt động dân chủ thì lại chưa có nhiều. Vấn
đề chính là sự vận hành của hệ thống chính trị một đảng. Để duy trì hệ thống
độc đảng, đảng cầm quyền luôn tìm cách ngăn chặn những người hoạt động vì dân
chủ và sách nhiễu họ dưới nhiều hình thức, từ tuyên truyền bóp méo sự thật, bẻ
cong lịch sử đến quy chụp tội hình sự.
Một hệ thống chuyên quyền, tham nhũng, trù dập
nhân tài, bỏ tù những người yêu nước có cần phải tiếp tục duy trì hay không?
Quyền của công dân không có trọng lượng lớn
nếu không được kết hợp vào một hệ thống. Cá nhân không đủ khả năng giám sát
quyền lực, và cũng không có đủ sức mạnh để tác động lên lỗi hệ thống. Chỉ có hệ
thống mới thay thế hệ thống, cũng như chỉ có quyền lực mới giám sát quyền lực.
Cho nên việc cùng nhau xây dựng một hệ thống và sinh hoạt trong tinh thần chung
sức hợp lực là đúng đắn và cần thiết.
Có hệ thống tốt thì sẽ có lãnh đạo giỏi. Hệ
thống chính trị ổn định và bầu cử công bằng sẽ giúp chọn ra nhân tài lãnh đạo
đất nước. Xã hội có hệ thống tốt sẽ giúp người tốt trở nên tốt hơn và người kém
có cơ hội khá lên. Còn xã hội có hệ thống tồi thì người tốt cũng khó làm được
việc tốt trong khi người xấu càng trở nên xấu hơn.
Là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam có
cơ hội tiên phong dẫn đường trong việc đoàn kết dân tộc, bảo vệ tổ quốc và phát
triển đất nước, thay vì cố duy trì quyền lực chính trị của phe nhóm mà né tránh
những ý kiến, quan điểm hay những đòi hỏi chính đáng của nhân dân từ lâu nay.
Lãnh đạo mà không theo kịp tiến trình của xã hội thì không còn là lãnh đạo mà
là vật cản đường trong tiến trình phát triển đất nước. Lãnh đạo Việt Nam không
nên chờ đến lúc kinh tế kiệt quệ, dân “xé rào” mới có chính sách Đổi mới như hồi năm
1986; hay để quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực từ năm 1974
mà đến cuối năm 2011 mới chịu lên tiếng. Nếu đợi đến lúc cách mạng bùng lên
trên khắp đường phố và thôn làng mới chịu thay đổi thì đã quá muộn. Hoạt động
chính trị chính đáng phục vụ cho Tổ quốc không nên đi ngược lại nguyện vọng của
nhân dân hay cố ý lừa mị xã hội.
Ngoài bản hiến pháp của toàn dân và trách
nhiệm thượng tôn pháp luật, sự phát triển của đất nước tùy thuộc vào ba yếu tố
quan trọng của giới lãnh đạo: lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và tư duy dân
chủ. Lòng yêu nước là truyền thống, đặc điểm của dân tộc Việt Nam. Nhưng yêu
nước mà thiếu tinh thần dân tộc thì khó tạo sự đoàn kết trong xã hội, vì tinh
thần dân tộc sẽ giúp lãnh đạo hòa hợp dân tộc thay vì gây chia rẽ và kích động
hận thù. Còn lãnh đạo mà phong kiến, độc đoán là thiếu tư duy dân chủ. Các
thiết chế dân chủ chỉ là điều kiện cần, tư duy dân chủ mới là điều kiện đủ để
thực thi các thiết chế đó. Cho nên, thiếu tư duy dân chủ thì rất khó để xây
dựng xã hội công bằng hay kiến tạo xã hội hài hòa nhằm phát triển toàn diện đất
nước.
Vấn đề lên tiếng đơn lẻ, thiếu đồng thanh tập
thể
9. Những bất công xã hội tại Việt Nam rõ ràng
bắt nguồn từ vấn đề quyền làm chủ của người dân bị lấy mất. Vấn đề nguy hại này
ngay cả giới lãnh đạo cộng sản cũng đã lên tiếng và chỉ rõ ra sự việc, nhưng
tại sao cho đến nay những bất công đó vẫn còn tồn tại dai dẳng và chưa được hóa
giải?
Công tâm mà nói, lâu nay có nhiều tiếng nói
tâm huyết trong Đảng Cộng sản đã chỉ ra những vấn đề cốt lõi gây hại xã hội:
“Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ
quốc là của mình, dân tộc là của mình, quốc gia là của mình, Việt Nam là của
mình, chứ không phải là của riêng của người cộng sản hay của bất cứ tôn giáo
hay phe phái nào cả…” Và, “…một quốc hội có người tự ứng cử và được dân bầu lên
một cách tự do sẽ tốt hơn quốc hội bây giờ” (Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong
cuộcphỏng vấn với
BBC ngày 17 tháng 4, 2007).
“Nếu Dân được phúc quyết Hiến pháp thì Hiến
pháp chính là văn bản pháp lý quan trọng nhất của Dân trao quyền lực của Dân
cho Nhà nước. Ngược lại, nếu Dân chưa được phúc quyết Hiến pháp thì cũng có
nghĩa là Dân chưa trao quyền lực của Dân cho Nhà nước bằng một văn bản pháp lý
cao nhất là Hiến pháp” (Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An trả lời Tuần
Việt Nam).
“Chống tham nhũng, lãng phí và những việc phạm
pháp, tiêu cực khác là chống ‘giặc nội xâm’ chỉ có thể thành công nếu biết dựa
vào dân”. Mặt khác, để ngăn chặn được tệ nạn tham nhũng và nghiêm trị ‘giặc nội
xâm’ thì Việt Nam “cần có cơ chế thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch để
nhân dân giám sát, thu hút được sự tham gia rộng rãi của toàn dân” (Đại tướng
Võ Nguyên Giáp).
Rõ ràng, các tiếng nói đơn lẻ khó làm thay đổi
chủ trương thao túng quyền làm chủ nhân dân vì mục đích độc quyền chính trị của
Đảng Cộng sản. Việc Chủ tịch Quốc hội, Đại tướng quân đội, Thủ tướng và nhiều
viên chức của chế độ khi đã hết quyền lên tiếng là vì họ nhận thức những tai
hại về quyền làm chủ của người dân bị thiểu số cầm quyền trái phép nắm giữ lâu
nay. Quyền làm chủ là quyền bầu cử ứng cử tự do, quyền phúc quyết hiến pháp và
các vấn đề hệ trọng của đất nước. Hậu quả của việc mất quyền làm chủ đã dẫn đến
tình trạng dân oan, vấn đề biên giới–biển đảo, vấn đề boxit Tây Nguyên và nhiều
bất công xã hội không được giải quyết thỏa đáng, minh bạch.
Cho nên, việc phải đòi lại quyền làm chủ đất
nước của nhân dân thông qua một bản hiến pháp dân chủ là vô cùng khẩn thiết,
trong đó quyền làm chủ đất đai, quyền bình đẳng kinh tế tư nhân cũng không kém
phần quan trọng. Tuy nhiên, để tiếng nói đó được nhà cầm quyền lắng nghe và đáp
ứng, thì nhất thiết cần có ý kiến đại thể và đồng thanh thống nhất. Nghĩa là,
những tâm huyết đó cần được hệ thống hóa và cần có nhiều người dũng cảm cùng
đồng thanh không phân biệt giữa người trong hay ngoài Đảng Cộng sản hoặc giữa
người ở trong hay ngoài nước.
Có người cho rằng một nhà nước mà đảng cầm
quyền đã tệ hại và bất tín nhiệm đối với nhân dân thì việc nói ra có giúp ích
được gì hay có khi còn bị hãm hại. Thế nhưng, có điều mà nhiều người trong
chúng ta chưa thấy là, một khi số đông đã đồng thanh thống nhất với yêu cầu
chính nghĩa thì lúc đó đảng cầm quyền sẽ không thể không đáp ứng nguyện vọng
chính đáng của nhân dân.
Vấn đề tư duy độc tôn, không tôn trọng dân chủ
10. Nhiều ý kiến cho rằng, hô hào tranh đấu vì
mục tiêu xã hội công bằng, dân chủ mà suy nghĩ và hành động vẫn độc tôn, cục bộ
là mâu thuẫn, ngăn chặn sự tiến bộ xã hội… Hậu quả là tình trạng bất hòa,
xung đột giữa các thành phần xã hội vẫn còn dai dẳng. Đảng Dân chủ quan
niệm thế nào về đoàn kết dân tộc? Để các hoạt động cho dân chủ, xã hội
công bằng được phù hợp và hữu hiệu hơn, ý kiến của Đảng Dân chủ như thế nào?
Đoàn kết dân tộc luôn luôn là điều cần thiết.
Đảng Dân chủ Việt Nam chủ trương đoàn kết dân tộc theo nguyên tắc tự do, dân
chủ, và bình đẳng. Đảng Cộng sản lâu nay đã hô hào đoàn kết dân tộc nhưng
không thành và sẽ không bao giờ thành, vì họ kêu gọi đoàn kết trên nguyên tắc
độc tôn, một đảng. Nghị quyết 36 về đoàn kết dân tộc trong thời gian qua
đã thất bại vì không theo các tiêu chí dân chủ bình đẳng cơ bản. Tương tự, có
tổ chức cũng kêu gọi đoàn kết dân tộc nhưng lại loại trừ các chính đảng mà
họ không thích và điều này không phù hợp với tinh thần dân chủ.
Đảng Dân chủ luôn mong muốn đất nước thoát
khỏi tình trạng hận thù, bất hòa, và phân hóa. Tuy nhiên, việc hòa
giải khép lại quá khứ, phải bắt đầu từ phía gây thù địch là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Đảng Dân chủ cho rằng các cá nhân, tập thể
hoạt động vì dân chủ mà chống nhau thì đó là vấn đề cần xem xét lại. Sống
là tranh đấu. Tranh đấu hiệu quả thì phải có phương hướng nhất định và phù hợp
với đòi hỏi của xã hội. Chúng ta không nên bận rộn với những vấn đề có tính
cách cá nhân, để rồi có thể vô tình rơi vào quỹ đạo đối nghịch làm sao lãng các
mục tiêu của xã hội. Thay vì gây thêm vấn đề, chúng ta cần giữ hoạt động trong
tinh thần dân chủ, bình đẳng cho các mục tiêu chung. Còn hô hào phục vụ xã
hội mà hoạt động đơn lẻ, chú trọng cho cá nhân hơn tập thể, thì khó có đủ sức
mạnh cho công việc và khó tạo sự thống nhất cần thiết cho công cuộc chung.
Kết Luận
Chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung cùng với chế
độ cộng sản tại đất nước đã sinh ra nó. Những lý luận về “chủ nghĩa xã hội” và
việc nghiên cứu tìm “cách đi lên chủ nghĩa xã hội” chỉ là chiêu bài cố bám của
Đảng Cộng sản. Điều đất nước đang cần là xây dựng một nhà nước chính danh với
cơ chế dân chủ, minh bạch và điều hành xã hội bằng pháp luật chứ không phải
xoay quanh vấn đề chủ nghĩa hay tư tưởng…
Vấn đề ngụy biện, tuyên truyền một chiều lâu
nay đã tiêu phí biết bao thời giờ, tiền của và công sức của toàn xã hội. Sự áp
đặt, tiêm nhiễm và ru ngủ đã tạo ra tình trạng xã hội bạc nhược, ảnh hưởng tai
hại cho nhiều thế hệ. Trường học không phải là nơi tuyên truyền lừa mị; bao
nhiêu sách vở, bao nhiêu tờ báo in ấn tốn hàng tấn giấy mực, bao nhiêu biểu ngữ
tuyên truyền, loa phóng thanh quấy nhiễu sự yên bình của xã hội đã đến lúc cần
kết thúc tại Việt Nam.
Đặc điểm của chế độ cộng sản là độc đảng, độc
tôn, độc quyền, trong khi đất nước cần là dân chủ, đoàn kết, phát triển. Tình
trạng độc tôn, bôi nhọ cá nhân, gây chia rẽ trong xã hội ngay cả tôn giáo cũng
không tránh khỏi. Chính vì vấn đề độc tôn, cố chấp của đảng cầm quyền mà đến
nay việc đoàn kết dân tộc vẫn chưa được thực hiện.
Chủ trương độc đảng hiển nhiên là chứng cứ gây
tội ác trong xã hội. Vấn đề chiếm đoạt quyền làm chủ của nhân dân đã quá lâu,
đã đến lúc cần được trả lại và tôn trọng. Quyền làm chủ của người dân không có
thì dù có lên tiếng thế nào cũng không được đáp ứng. Người dân có quyền làm chủ
thì mới có quyền quyết định, không có quyền làm chủ đồng nghĩa với việc không
có quyền quyết định. Quyền làm chủ đất nước mà không nằm trong tay của người
dân thì đất nước có “độc lập” cũng chẳng có ý nghĩa gì và sự hy sinh của toàn
dân trở nên vô nghĩa.
Thực tế là, không phải tất cả người cộng sản
đều không có trái tim hay không hiểu vấn đề nhưng vì sự vận hành của hệ thống
cộng sản đã bất trị. Trong khi lãnh đạo thì thiếu dũng cảm, thiếu tinh thần dân
tộc, hơn nữa lại quá đặt nặng lợi ích cá nhân, phe nhóm mà bất chấp danh dự và
lợi ích quốc gia, không sửa lỗi hệ thống!
Lỗi hệ thống cơ bản cần sửa đổi chính là trả
lại quyền làm chủ cho nhân dân, cụ thể là nhà nước phải tổ chức bầu cử công
bằng, chấm dứt tình trạng áp đặt hiến pháp và pháp luật của một đảng lên toàn
xã hội, và cấp thiết ban hành hiến pháp, pháp luật của toàn dân. Việc tháo gỡ
hệ thống chính trị bất trị đó cần tiên phong từ những người góp phần xây dựng
ra nó.
Nhận thức sự vận hành của bộ máy cộng sản đã
bất trị và cần được tháo gỡ, nên vấn đề đổ lỗi cho ai hay tranh cãi về chủ
thuyết nào không phải là việc cần tập trung, mà việc chính cần giải quyết hiện
nay là thúc đẩy trở lại với tình tự dân tộc, chấm dứt tình trạng chia rẽ trong
xã hội và cùng nhau xây dựng đất nước.
Về phía các lực lượng dân chủ, vấn đề hiện nay
là các thành phần dân chủ chưa phối hợp chặt chẽ, chưa đồng thanh tương ứng.
Cho nên, các lãnh đạo cộng sản mới có cơ hội hô hào “chỉnh đốn đảng”, chống
“diễn biến hòa bình”, ngụy tạo ra “thế lực thù địch”… – các chiêu bài cũ này
chỉ là để đánh lạc hướng, nhằm xoa dịu đảng viên và công luận đang bức xúc đòi
hỏi thay đổi.
Đảng Dân chủ tin rằng một khi các thành phần
dân chủ trong và ngoài Đảng Cộng sản phối hợp thì lúc đó việc hòa hợp dân tộc
sẽ bắt đầu và xã hội sẽ chuyển biến nhanh theo chiều hướng tích cực, vì trong
Đảng Cộng sản có rất nhiều người yêu nước với khuynh hướng chính trị cấp tiến
đã sẵn sàng cho các thay đổi.
Tóm lại, cốt lõi của vấn đề cần giải quyết tận
gốc chính là vấn đề tư duy và cơ chế. Ngày nào Việt Nam chưa có hiến pháp dân
chủ, chưa thực hiện bầu cử tự do và công bằng, thì đảng cầm quyền vẫn không
chính danh, và những hô hào của giới cầm quyền vì mục tiêu dân chủ, xã hội công
bằng… vẫn chỉ là nói, không thành thật.
Tham khảo kết luận
I. Những phát biểu đáng chú ý về cộng sản từ nơi phát sinh ra
cộng sản:
Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên xô, ông
Gorbachev nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, hôm nay tôi
đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.”
Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin nói: “Cộng sản
không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.”
Tổng thống Nga Putin nói: “Kẻ nào tin những gì
cộng sản nói, là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của sộng sản, là không
có trái tim.”
Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev đã trả lời câu
phỏng vấn của tờ nhật báo Nga Isvestiai rằng: “Chế độ chính quyền ở Liên Xô khi
trước không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị.
Thực không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do cơ bản không những chỉ
người dân của nước mình, mà còn cho nhân dân các nước nằm trong khối cộng sản,
tôi muốn nói tới các nước xã hội chủ nghĩa khác, trong gần nửa thế kỷ nay. Và
vết nhơ này không thể nào bôi xóa trong lịch sử”.
Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsym nói: “Khi
thấy thằng cộng sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu không có can
đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu
không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại, những lời nó
nói láo với người khác.”
Những phát biểu đó đã đủ để kết luận về chế độ
cộng sản. Không khó hiểu, nếu không có sự áp đặt, không chiếm đoạt quyền làm
chủ của nhân dân, không tuyên truyền nói dối thì chế độ cộng sản không thể tồn
tại. Dù bị giải thể, Đảng Cộng Sản Nga đã trở lại và tự do hoạt động nhưng đa
số người Nga hiện nay không quan tâm đến đảng cộng sản hay chủ nghĩa Mác Lênin!
II. Phần trích các phát biểu và nhận xét của các lãnh đạo Cộng
sản về các vấn đề của Đảng Cộng sản và trong xã hội. Qua các phát biểu này
chứng tỏ giới lãnh đạo Cộng sản vẫn nói suông, nói mà không làm, nói một đằng
làm một nẻo:
Về tình hình đất nước trước quốc nạn tham
nhũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mới đây đã chia sẻ,
“trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà
thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu,
tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là
‘chết’ cái đất nước này…”. Nhìn lại từ thời Đỗ Mười, tham nhũng đã là “quốc
nạn”, và sau đó gọi là giặc “nội xâm”. Thời Lê Khả Phiêu,
“chúng ta đã coi tham nhũng là quốc nạn thì đến nay vẫn là
quốc nạn”; thời Nông Đức Mạnh,
“tăng cường phòng ngừa và chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã
hội, là quyết tâm chính trị của Đảng, nhằm khắc phục một trong những nguy cơ
lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”; cho đến thời Nguyễn Phú Trọng,
“kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí”. Và cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
cũng đãkhẳng định rằng,
“không thể đánh bại được tham nhũng nếu không có đổi
mới chính trị ở Việt Nam”.
Về dân chủ và bầu cử dân chủ, Nguyễn Phú Trọng
đã từng nhấn mạnh rằng
cần “tránh dư luận nhân dân cho rằng có thể đi bầu hộ, một người bầu cho cả gia
đình, hoặc chuyện đi bầu chỉ là hình thức vì đã chọn sẵn từ trước,” … nên ông
đã cam kết, phát huy dân chủ thực sự, chứ không phải “dân chủ trình diễn, dân
chủ hình thức”. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng
vấn BBC về vấn đề này rằng, “một quốc hội có người tự ứng cử và được dân bầu
lên một cách tự do sẽ tốt hơn quốc hội bây giờ”. Nguyễn Tấn Dũng cũng nói rõ rằng
cần “nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để đổi mới hệ thống chính trị, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý nhà nước, phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của nhân dân”. Bên cạnh đó, cựu Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn
Đình Lộc chia sẽ quan
điểm trên Vietnamnet rằng “…đã có những lúc chúng ta đã không dám nói đến dân
chủ… Từ dân chủ mới được đưa vào mệnh đề này mươi năm nay thôi…Ngay mệnh đề nhà
nước pháp quyền cũng thế. Một nhà nước pháp quyền không thể là pháp quyền nếu
như nó không thực hiện chế độ dân chủ, nhưng từ pháp quyền cũng đã có lúc chúng
ta ngại đề cập tới… Vấn đề rất lớn hiện nay chúng ta phải giải quyết, theo tôi
hiểu, đó chính là làm thế nào cho chế độ đại diện bầu cử phải thực sự trở thành
cơ chế thực sự dân chủ…”. Và còn nhiều ý kiến khác đã chỉ ra: không ít nơi có tình trạng dân chủ
hình thức…; không dám nói thẳng nói thật…; Dân chủ trong Đảng chưa được phát
huy mạnh mẽ thì không thể thúc đẩy được dân chủ trong xã hội… ; Dân chủ không
được thực hiện một cách đúng đắn đã biến tập thể trở thành “bình phong” để
hợp thức hóa ý kiến của thủ trưởng, mà thực chất là gia trưởng, độc đoán.
Về tình hình xã hội, trong phiên họp của Bộ
Chính trị, ông Nguyễn Phú Trọng cho rằng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức qua
báo cáo “tình trạng quá tải bệnh viện, công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực
phẩm còn bức xúc. Tình hình tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, tội phạm, khiếu
nại tố cáo của công dân còn diễn biến phức tạp…” và đề ra, “cần sự đồng thuận,
quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Trong khi hệ thống
chính trị thì bất trị và các thành phần xã hội khác với Đảng Cộng sản thì bị
quy chụp là các thế lực thù địch. Một nhà nước dân chủ, một chế độ chính trị có
trách nhiệm, không thể có những kiểu phát biểu như: “Hãy nhìn thẳng vào sự thật;
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, nói ra sự thật; phát huy được dân
chủ là nguồn lực vô tận; điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ;
bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát…”.
Phát biểu của
ông Nguyễn Phú Trọng trong Nghị quyết TW4 về xây dựng đảng ngày 27/2/2012 tại
Hà Nội: “…
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo,… Sự suy thoái về đạo
đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh,
tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa
dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… Trong
những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm
nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích
nhóm…ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp
của Đảng, Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức;… Đáng chú ý là…một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân…, bất chấp đạo lý, dư
luận”; Về những
phát biểu này, công luận đặt vấn đề rằng bộ phận suy thoái nghiêm trọng đó có
loại trừ Bộ Chính trị, nơi xuất phát các mệnh lệnh trong Đảng Cộng sản
Việt Nam? Trong xã hội văn minh, tình trạng suy thoái cả
đạo đức, tư tưởng và lối sống của một đảng chính trị như ông Nguyễn Phú Trọng
phát biểu không thể được phép tồn tại, chứ đừng nói đến hô hào chỉnh đảng.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment