Saturday, January 26, 2013

Ăn Cơm Việt, Thờ Ma Tầu


Ăn Cơm Việt, Thờ Ma Tầu

Phạm Trần

 

Tiến sỹ Sử học Nguyễn Nhã: “Không còn là nguy cơ xâm lược mà thật sự đã xảy ra xâm lược lãnh thổ ở Biển Đông… cấp tốc bài trừ các hàng Trung Quốc…”

Tiến sỹ Sử học Nguyễn Nhã, người đã tranh đấu cô đơn trong nhiều năm để nói với thế giới hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa là của Việt Nam, vào ngày 14 tháng 01 (2013) từ Việt Nam, đã báo động với đồng bào trong và ngòai nước: “Tôi vốn là nhà sử học nghiên cứu lịch sử Việt Nam với cách nhìn ngàn năm trước hướng về ngàn năm sau, nhận thấy rằng hiện nay không còn là nguy cơ xâm lược mà thật sự đã xảy ra xâm lược lãnh thổ ở Biển Đông và xâm lược phá nát kinh tế văn hóa xã hội Việt một cách thâm sâu chưa từng có.”

Ông Nhã công bố bài viết của mình trên báo điện tử Bauxite Việt Nam, hai ngày sau  khi Cơ quan Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa chất quốc gia Trung Cộng (the National Administration of Surveying, Mappingand Geoinformation, NASMG) công bố bản đồ mới (12/1/2013) “tự đặt chủ quyền mới của Trung Cộng” lên hơn 130 quần đảo và đảo ở Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa của Việt Nam, hay toàn vùng Lưỡi Bò  mà Trung Cộng gọi là “Đường 9 Đọan”, sau khi đồng ý bỏ bớt 2 đọan tại cuộc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ với Việt Nam năm 2000.

Trươc đó vào ngày 15/05/2012, Trung Cộng đã phát hành Hộ chiếu mới có in hình Luỡi Bò nhưng bị phủ nhận bởi Việt Nam, Phi Luật Tân và một số nước  Đông Nam Á khác. Nhưng hiện nay các Hộ chiếu này vẫn đang lưu hành như một âm mưu “hợp thức hóa” lãnh thổ của Bắc Kinh.

Báo động của Tiến sỹ Nhã không gây bất ngờ nhưng ông là Nhà sử học đầu tiên ở trong nước đã gióng lên tiếng chuông thức tỉnh nhà cầm quyền và nhân dân trước khi qúa trễ để cứu nước ra khỏi bàn tay hiểm độc của Trung Cộng.

Trong  bài viết ngắn gọi là “Kế sách cứu nước và xây dựng nội lực đất nước hùng cường thế kỷ XXI” ông nói: “Tôi ước mong tất cả người Việt chúng ta trong và ngoài nước phải bừng tỉnh, cần có tâm và có tầm, nhất là các bạn thanh niên hãy cương quyết xóa đi những gì xấu xí của người Việt, quyết bỏ qua một bên và hàn gắn những đau thương của thế kỷ XX với “một triệu người vui và một triệu người buồn”.

Ông nói với đảng và chính phủ Cộng sản Việt Nam (CSVN): “Nhà nước là yếu tố quan trọng song nhất định từ bỏ mọi bao cấp kể cả bao cấp yêu nước.”

Tại sao Nhà sử học Nguyễn Nhã nói như thế? Bởi vì nhà nước muốn độc quyền mọi thứ, kể cả “độc quyền yêu nước” nên đã sử dụng công an, mật vụ, thuê mướn  côn đồ và dân phòng đàn áp người dân biểu tình chống Trung Cộng từ năm 2007 và dã man hơn từ năm 2011 ở Sài Gòn và Hà Nội đối với các cuộc biểu tỉnh bảo vệ Hòang Sa và Trường Sa.

Triong khi đó thì  nhà nước đã hòan tòan bất lực trước các hành động của Trung Cộng đàn áp ngư dân Việt đánh bắt ở hai khu vực truyền thống Hòang Sa và Trường Sa.

Khi các tầu hải quân của Trung Cộng có võ trang ngụy trang tầu dân sự dưới tên hải giám xua đuổi, ngăn cấm và tấn công ngư dân Việt thì chúng đã hộ tống hàng nghìn tầu đánh cá của Bắc Kinh đi thu vén hải sản của Việt Nam cả ngày và đêm  mà hải quân Việt Nam không dám can thiệp để bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào.

 

QUÂN ĐỘI PHỤC VỤ NƯỚC NGÒAI?

Trong khi ấy thì Quân đội  Nhân dân của Việt Nam, tuy  ăn cơm và nhận lương của dân lại được lệnh “không sử dụng lực lượng quân sự để xử lý vấn đề dân sự ” (Báo Quân đội Nhân dân, 17-092012).

Đây là “đề xuất đơn phương” của phiá Việt nam với Trung Cộng trong cuộc Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp thứ trưởng Việt -Trung lần thứ ba họp ở Hà Nội đầu tháng 09/2012 giữa Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.

Nhưng Mã Hiểu Thiên, theo lời Tướng Vịnh, đã  “ghi nhận tích cực đề xuất của chúng ta và hai bên đang nghiên cứu triển khai”, nhưng thực tế thì lính Trung Cộng vẫn không ngừng mà còn gia tăng các cuộc truy kích và bắn vào thuyền ngư dân Việt trên biển Đông.

Bên cạnh các  hành động chỉ biết “cúi mặt mà đi” đảng và nhà nước CSVN còn tập trung tuyên  truyền chủ bại: “Đã có đảng và nhà nước lo” nhằm làm nhụt khí đấu tranh của tòan dân.

Phía Quân đội, điển hình hai người, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đăng Thanh và Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh lại thay phiên nhau cổ võ mị dân “cần duy trì hòa bình, cần ổn định  để phát triển”.

Ban Tuyên giáo  của đảng còn chỉ thị Bộ Thông Tin và Truyền Thông cấm cả báo chí không được viết đích danh quân Trung Cộng đã tấn công chiếm 8 đảo đá ngầm ở Trường Sa và giết hại 64 binh sỹ bảo vệ quần đảo này trong trận chiến ngày 14-03-1988!

 

Báo ViệtNam Express, trong số ra ngày 10/01/2013, chỉ dám viết “các tàu chiến của đối phương” trong khi Đài Tiếng Nói Việt Nam, trong bản tin ngày 06/01/2013 cũng phải tránh đề cập đến lính Trung Cộng đã tấn công quân Việt Nam trên Trường Sa.

 

Bản tin chỉ viết trống không: “ Cách đây 25 năm, tháng 3/1988 tại vùng biển Trường Sa ở các bãi đá ngầm Gạc Ma, Len Đao, Colin, 64 cán bộ chiến sĩ, cán bộ Hải quân nhân dân Việt Nam đã dũng cảm chiến đấu kiên quyết giữ đảo.”

 

Cách nay 3 năm, trong lễ tưởng niệm tại Trường Sa ngày 09-05-2010, ngay cả Sỹ quan Hải quân CSVN cũng chỉ dám nói  “lực lượng quân sự Nước Ngoài” đã tấn công và chiếm đóng một số vị trí của Trường Sa.

Hai Thông tín viên Mạnh Hùng và Việt Cường của Đài Tiếng Nói Việt Nam viết: “ Trong diễn văn đọc tại Lễ tưởng niệm, Thượng tá Trịnh Lương Vượng, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn M46, vùng D Hải quân nhấn mạnh: Với mưu đồ thôn tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông, từ cuối năm 1987, đầu năm 1988, lực lượng quân sự “nước ngoài” đã ngang nhiên chiếm đóng một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia với phương châm “không dùng vũ lực để giải quyết những vấn đề tranh chấp trên biển”. Bất chấp lẽ phải, quân đội “nước ngoài” ngang nhiên tấn công quân sự, bắn chìm, bắn cháy 3 tàu vận tải của ta.”

Khi nói về tình hình hiện nay ở vùng biển Trường Sa, Thượng tá  Vượng nói tiếp: “ Với toan tính và tham vọng thôn tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông của “nước ngoài”, Trường Sa hôm nay vẫn chưa thực sự bình yên. Chúng tôi, những người hiện đang tiếp tục sự nghiệp của các đồng chí, xin thề trước anh linh của tổ tiên, trước hương hồn của các đồng chí, đồng thời xin nhắn nhủ tới các thế hệ mai sau, quyết tâm bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và xây dựng Trường Sa trở thành một huyện đảo giàu mạnh, ngang tầm với vị trí chiến lược trên Biển Đông”.

Nghiêm trọng và nhục nhã hơn, đảng còn cấm không cho dân tổ chức tưởng niệm mỗi năm để  tri ơn trên 40 ngàn chiến sỹ và đồng bào đã hy sinh trong trận chiến chống quân Trung Cộng xâm lược trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979.

Bộ Thông tin và Truyền thông của CSVN còn cấm cả báo chí viết tầu võ trang của Trung Cộng  tấn công ngư dân Việt Nam, thay vào đó phải viết  là “tầu lạ”!

Tại sao lại nhục nhã như thế? Hào khí dân tộc để đâu mà những người lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN lại cả gan “trôi tro trát trấu” vào mặt tổ tiên và để lại gương mù gương xấu cho hậu thế  như vậy?

Do đó, Tiến sỹ Nhã mới  nói thẳng với nhà nước: “Phải tạo động lực yêu nước trong đấu tranh và xây dựng, lấy mối nhục tụt hậu và bị cường quốc láng giềng xử ép, làm nhục làm động cơ hành động xây dựng đất nước.”

Ông nhấn mạnh: “Kế sách cứu nước ngoài chiến lược lâu dài trên, phải ưu tiên trước tiên tập trung chiến lược đối phó xâm lược ở Biển Đông với ngoại giao khôn ngoan hòa bình đa phương, đa dạng, tích cực phòng vệ vững chắc các hải đảo, quốc phòng toàn dân, mỗi ngư dân là một dân binh.”

 

XÂM LĂNG KINH TẾ ĐỘC HẠI

Ngoài xâm lăng lãnh thổ ở Biển Đông, Trung Cộng đã xâm lăng cả trên đất liền núp sau danh nghĩa hợp tác  khai thác Bauxite ở Tây Nguyên (Tân Rai, Lâm Đồng và Nhân Cơ, Dark Nông) qua thỏa hiệp thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

Nhiều quan chức địa phương, vì mối lợi trước mắt, đã cho người Trung Hoa Bắc Kinh, Đài loan và Hồng Kông thuê hàng ngàn mẫu đất rừng dọc biên giới Việt-Trung trong thời hạn 50 năm và mở mang cơ sở kinh tế ở nhiều vùng đất chiến lược ven biển. Bên cạnh đó là  sự có mặt của một đạo quân kinh tế  lên tới hàng chục ngàn người, phần nhiều là thanh niên trai tráng, được ngụy trang dưới lới vỏ bọc công nhân lao động và chuyên viên đang sống rải rác từ các tỉnh cực bắc xuống tận mũi Cà Mâu mà Bộ Lao động Việt Nam không kiểm soát được!

Vì vậy Tiến sỹ Nhã đã kêu gọi phải cấp thời cứu nguy và tẩy chay hàng hoá của Trung Cộng: “Với xâm lăng kinh tế, văn hóa xã hội thì quyết bảo vệ bản sắc Việt, xã hội lành mạnh, chống văn hóa, giáo dục nô dịch ngoại lai, xây dựng nền kinh tế tự lập tự cường, không lệ thuộc, đặc biệt cấp tốc bài trừ các hàng Trung Quốc và cách nuôi trồng Trung Quốc độc hại như rau củ quả, thực phẩm, các gia vị, phẩm màu, các đồ chơi cùng nhiều hàng hóa khác rất độc hại đang đe dọa đến sự sống còn của mỗi người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam!”

Như vậy, sau khi Trung Cộng công bố  thành lập Thành phố Tam Sa  ngày 24/07/2012 gồm Hòang Sa, Trường Sa của Việt Nam  và Trung Sa (vùng Bãi Cỏ Rong, hay bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough mà Trung Cộng có tranh chấp với Phi Luật Tân), Tổng công ty Dầu khí Hải Dương của họ (China National Offshore Oil Corporation, CNOOC) đã công khai gọi đấu thầu quốc tế tìm dầu tại 9 lô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam giữa Trường Sa và đất liền.

Tiếp theo sau là hàng loạt các hành động “bành trướng chủ quyền” được ghi trong “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển Hải Nam”, theo tin của Việt Nam, Trung Cộng đã: Tổ chức tập trận tại đảo Quang Hòa, thuộc quần đảo Hoàng Sa; tổ chức khai thông và cung cấp dịch vụ 3G, CDMA tại đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa; phê duyệt “Quy hoạch phát triển du lịch tàu khách thành phố Tam Á 2012 – 2022” trong đó có tuyến đi tới các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, v.v…

Hành động ngang ngược như thế thì rõ ràng  Bắc Kinh đã nuốt phương châm 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt: “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Nhưng phía nhà nước Việt Nam thì cũng chỉ biết “giương mắt ếch” ra mà nhìn qua miệng lưỡi trơn tru của người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị như ông ta nói hôm  14/01/2013: “Những hoạt động nêu trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại  Biển Đông và  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp, trái với tinh thần DOC, không có lợi cho hòa bình ổn định trong khu vực và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.

Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ ngay các hoạt động sai trái đó .”

Ai cũng biết, sau 10 năm (2002-2012) thi hành thỏa hiệp giữa Trung Cộng và 10 nước trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á (The Association of South East Asia Nations, ASEAN),  được gọi là “Tuyên bố Ứng xử của các bên ở Biển Đông” (Declaration Of Conduct, DOC) Trung Cộng là quốc gia vi phạm mọi điều khỏan của Thỏa hiệp này, trong đó quan trọng nhất là các Điều:

-“Các Bên khẳng định cam kết đối với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật Biển 1982, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, năm nguyên tắc chung sống hòa bình và các nguyên tắc được công nhận rộng rãi khác của pháp luật quốc tế, coi đây là các quy phạm cơ bản điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia.

-“Các Bên cam kết giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thông qua trao đổi ý kiến và thương lượng giữa các quốc gia có chủ quyền liên quan phù hợp với các nguyên tắc được công nhận rộng rãi của pháp luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển 1982.

-Các Bên khẳng định tôn trọng tự do hàng hải và tự do bay ở Biển Đông phù hợp với các quy định của Công ước Luật Biển 1982.

-Các Bên cam kết kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định, trong đó kiềm chế không đưa người lên các đảo, bãi hiện nay không có người ở.”

Sau cùng, các bên cam kết:”Các Bên khẳng định việc thông qua Luật ứng xử ở Biển Đông (Code of Conduct,COC) sẽ thúc đẩy hơn nữa hòa bình và ổn định trong khu vực và đồng ý sẽ cùng nhau làm việc để đạt mục tiêu này.”

Nhưng sau nhiều Hội nghị, khối ASEAN và Trung Cộng vẫn không sao đạt được COC để khép các bên vào một văn kiện có tính pháp lý ràng buộc như luật định, trái với DOC là văn kiện không có tính pháp lý mà tùy vào thiện chí thi hành của các bên.

Phía Trung Cộng vẫn dẻo mép tham dự mọi phiên họp nhưng lại ma lanh bảo rằng “hiện tại chưa phải thời điểm thích hợp” để kéo dài thời gian cho Bắc Kinh tự tung tự tác lấn chiếm phi pháp lãnh thổ của các nước khác trên Biển Đông, trong đó Việt Nam là nước chịu thiệt thòi nhất trong vùng Đông Nam Á.

Đấy là chưa kể có một số nước trong khối ASEAN, tiêu biểu như Cao Miên, đã bị Trung Cộng bỏ tiền ra mua nhằm chia rẽ khối ASEAN  khiến khối này không đồng thuận được về một kế họach chung để đối phó với âm mưu xảo quyệt của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Nam Vang đã công khai đứng về phiá Bắc Kinh trong suốt nhiệm kỳ nước này giữ vai Chủ tịch luân phiên  khối ASEAN trong năm 2012.

Như vậy, nếu chẳng may không ai ngăn chặn được sự bành trướng lãnh thổ của Trung Cộng trên Biển Đông qua hình thức công bố bản đồ mới chiếm trọn Biển Đông và tờ Hộ chiếu có in hình Lưỡi Bò thì Việt Nam sẽ mất nốt quần đảo Trường Sa trong bất kỳ lúc nào Trung Cộng muốn.

Quân đội Việt Nam, qua chiến dịch “đầu hàng Trung Cộng trước khi nổ súng” của hai ông Trần Đăng Thanh và Nguyễn Chí Vịnh và qua hành động “nhớ ơn kẻ xâm lược” của một số Lãnh đạo trong nội bộ đảng CSVN đã lộ diện  trong năm 2012 thì khả năng đối kháng Bắc Kinh về mặt ngọai giao và chính trị sẽ khó đạt được, nhất là  khi “liên hệ máu thịt” giữa đảng và nhân dân không còn như trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ nữa vì ngày nay, quyền làm chủ đất nước của người dân đã bị đảng gạt qua một bên.

Vì vậy mà viễn ảnh Việt Nam sẽ bị mất  tài sản ở Biển Đông về tay Trung Cộng không còn là chuyện ảo tưởng hay phóng đại trong tình hình hiện nay.

Theo Tài liệu của nhóm nghiên cứu  “Qũy Biển Đông”, diện tích Biển Đông có khoảng 3,5 triệu km vuông với số lượng đánh bắt khoảng 7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới. Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới.

Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày.

Nhưng  đánh giá của Trung Cộng cho biết trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới.

Như vậy, nếu không bị ngăn chặn, Trung Cộng  sẽ  chiếm  hết lãnh thổ của các nước có tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Ma Lai Á và Brunei.

Ấy là không kể Đài Loan đã kiểm soát đảo Ba Bình, hòn đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa của Việt Nam, từ Thế chiến thứ II, và đã công bố sẽ khai thác dầu khí ở đó trong năm 2013.

Tin này được  Cục trưởng Cục Năng lượng Âu Gia Thụy thông báo vào ngày 27/12/2012, theo đó một ngân sách khỏang 17 triệu đô la Đài Loan ( khỏang 585.000 đô la Mỹ) được dành riêng cho dự án này.

Mặt khác bản đồ mới của Trung Cộng cũng mô tả hình ảnh thu nhỏ của quần đảo Điếu Ngư (Senkaku), có tranh chấp với Nhật Bản, ở vị trí tương quan với các đảo khác của Trung Cộng và Đài Loan mà Bắc Kinh coi là một tỉnh của mình.

 

MIỆNG LƯỠI CHỦ BẠI

Đứng trước kế họach bành trướng lãnh thổ của Trung Cộng rõ như ban ngày như thế mà Lãnh đạo CSVN vẫn ù lì mu ni che tai trước những lời kêu than của nhân dân. Ai chống Trung Cộng thì họ cho công an khủng bố, đe dọa, bắt bỏ tù. Ai yêu cầu họ hãy mở mắt để cứu nước thì họ vu oan cáo vạ là tay sai của “những thế lực thù địch” bên ngòai hay nằm trong âm mưu của “diễn biến hòa bình” chống lại nhân dân và tổ quốc!

Tệ hại hơn là bị buộc vào các tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; hay “phá rối an ninh.”

Trong khi đó thì có những kẻ công khai reo rắc tinh thần chủ bại, đầu hàng địch như ông Đại tá Trần Đăng Thanh đã thuyết giáo với  các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội hồi giữa tháng 12/2012.

Ông Thanh bảo chúng ta phải: “Khôn khéo nghĩa là đừng để xảy ra chiến tranh, đừng để va chạm, cứ tránh đã. Cha ông ta đã dạy: Tránh voi không xấu mặt nào. Cứ tránh đi đã, còn khi nào không tránh được thì ta phải khẳng định: dù rằng đời ta thích hoa hồng, khi nào kẻ thù buộc ta ôm cây súng. Phải nói rõ là như vậy chứ, đúng không? Phải tránh. Kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích và phải kiên định, đấu tranh bằng biện pháp hòa bình.”

Ông kêu gọi: “Trước mắt là chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta, sự điều hành của Chính phủ, cố gắng làm sao đừng để cho những vấn đề gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Và hôm nay các đồng chí nào tự ái thì tôi cũng mạnh dạn, nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp trước hết khuyết điểm thuộc về các đồng chí Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về Bí thư Đảng ủy – phòng quản lý sinh viên của trường Đại học đó. Nếu để cho công an thành phố Hà Nội hoặc, v.v… người ta giữ sinh viên của mình, người ta điện mời thầy nọ mời thầy kia, ở trường nọ ở trường kia đến nhận sinh viên của mình thì đấy là khuyết điểm của chúng ta. Và tôi hy vọng rằng tất cả các thầy với trách nhiệm và với lòng tin của chúng ta, chúng ta sẽ không để những trường hợp đó xảy ra.”

Sauk hi “đe dọa” đừng để cho sinh viên xuống đường biểu tình chống Trung Cộng, ông Thanh tyuyên truyền phải biết ơn anh hàng xóm “lưu manh” thế này: ”Cái điều thứ hai chúng ta không được quên đó là tháng 12 năm 1950 chúng ta giành thắng lợi chiến dịch biên giới, khai thông biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Và trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ,  nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên.”

Người  thứ hai, ở cấp Thượng tướng là ông Nguyễn Chí Vịnh còn khuyên không nên có các cuộc biểu tình chống Trung Cộng.

Ông nói với Báo Tuổi Trẻ hôm 01/01/013: “ Trước đây tôi đã nói về vấn đề này và bây giờ vẫn nói rằng những cuộc biểu tình đó là không nên. Để đối phó với tình hình phức tạp trên biển Đông hiện nay, chúng ta cần một sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và Nhà nước cũng như giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Có thể người dân chưa thật hài lòng và yên tâm vì chưa được cung cấp đầy đủ thông tin, nhưng tôi chỉ muốn nói với những người biểu tình nói riêng và tất cả người dân rằng những người có trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, quân đội không một ai chịu để mất chủ quyền lãnh thổ cả. Người dân phải tin vào điều đó.

Có thể đất nước ta có tham nhũng, lãng phí, có tiêu cực, có thể một bộ phận cán bộ suy thoái về đạo đức, nhưng tuyệt đại đa số nhân dân ta không ai có thể quên đi lợi ích quốc gia dân tộc, quên đi chủ quyền lãnh thổ. Biểu tình bây giờ sẽ gây mất ổn định. Trong khi đó đất nước ta đang hơn bao giờ hết cần ổn định, cần sự đồng thuận để phát triển, để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Chúng ta trân trọng tình cảm, ý chí của những người thật sự biểu tình vì yêu nước. Nhưng cũng phải thấy rằng với những ai có dã tâm độc chiếm biển Đông thì họ sẽ viện cớ biểu tình để xuyên tạc thiện chí của Việt Nam, xuyên tạc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam. Vậy thì ai đang chờ biểu tình và biểu tình có lợi cho ai?”

Nói như ông Vịnh là ông mới nhìn quyền lợi của đất nước chưa qua khỏi cáo lỗ mũi của mình. Ông có biết rằng nhân dân Phi Luật Tân đã đóng khố vẽ hình Lưỡi Bò biểu tình trước Tòa Đại sứ Trung Cộng ở Thủ tô Manila thì họ cũng sở bị Trung Cộng coi là Phi Luật Tân không có thiện chí à?

Ai sợ bị xuyên tạc, chính phủ Phi Luật Tân hay nhà nước Việt Nam?

Hẳn ông Vịnh còn nhớ ý chí và lòng ái quốc của Tổng thống Phi Luật Tân, ông Benigno Aquino III tại Hội nghị các nước ASEAN ở Nam Vang hôm 19/11/2012, khi ông bất ngờ phản đối Thủ tướng Cao Miên  Hun Sen nói rằng đã có sự đồng thuận không “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông.

Ông Aquino III  nói với các phái đòan  không làm gì có chuyện tất cả các nước của ASEAN đã đồng ý như lời tuyên bố của ông Hun Sen. 

Ngược lại, Tổng thống Aquino III đòi phải mời các quốc gia có quyền lợi tại khu vực, điển hình như Hoa Kỳ, cùng tham dự thương thuyết chủ quyền trên biển với Trung Quốc.

Phi Luật Tân nói Việt nam là nước thứ hai tán thành việc phải “quốc tế hoá” vấn đề Biển Đông, nhưng đại biểu của Việt Nam là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Ngọai trường Phạm Bình Minh đã không dám nói trước sự hiện diện của Thủ tướng Trung Cộng Ôn Gia Bảo!

Như vậy tại sao người Phi Luật Tân không sợ bị Trung Cộng chê trách thiếu thiện chí mà Việt Nam, nói như ông Vịnh, lại sợ bị Tầu chê trách đến thế?

Cũng giống như ông Thanh, ông Vịnh nói với Báo Tuổi Trẻ: “Thế mạnh và công cụ đấu tranh quan trọng nhất của chúng ta lúc này là chính nghĩa, là tuân thủ luật pháp quốc tế, là quyết tâm rất rõ ràng giải quyết bằng biện pháp hòa bình.”

Nhưng “hòa bình”  không có nghĩa là ngồi yên để cho kẻ thù tát cho nổ đom đóm mắt ra mới bừng tỉnh dậy thì nước có còn không?

Cũng nên nhắc lại vào ngày 28/8/2011, cũng chính ông Nguyễn Chí Vịnh khi ấy là, Trung tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam trong lần họp “Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh Việt - Trung lần thứ hai”   tại Bắc Kinh đã cam kết với Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc sẽ dẹp các cuộc biểu tình chống Trung Cộng ở Việt Nam.

Thông tín viên  Bảo Trung của  Báo Quân đội Nhân dân viết ngày 30-8-2011:“Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng thông báo chủ trương kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn.“Các thế lực thù địch hiện có hai luận điệu chống phá. Thứ nhất, là Việt Nam dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc. Thứ hai, là Việt Nam nhượng bộ để Trung Quốc lấy đất, lấy biển Việt Nam. Đây là các luận điệu bất lợi cho Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam-Trung Quốc.

Chúng ta cần làm cho nhân dân hai nước hiểu rõ, giữa Việt Nam và Trung Quốc còn tồn tại vấn đề nhưng hai Đảng, hai Nhà nước đã cam kết xử lý bằng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, với giải pháp hai bên cùng có thể chấp nhận được”.

Ngay sau đó, công an Sài Gòn và Hà Nội được lệnh ra tay đán áp dã man người dân yêu nước biểu tình chống Trung Cộng.

Chuyện ông Vịnh không khác gì việc Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã phải  báo cáo trước  với Thượng tướng Trần Bỉnh Đức, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng  Cộng sản Trung Quốc, ủy viên Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân (GPND) Trung Quốc  trong cuộc họp ở Bắc Kinh  chiều ngày 16-04 (2012) rằng: “Việt Nam không chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng; việc sửa đổi Hiến pháp sắp tới vẫn khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam.” (Báo Quân đội Nhân dân, 16-04-2012)

Lời hứa của ông Tỵ xẩy ra khi Ủy ban Sọan thảo sửa đồi Hiến pháp của Việt Nam chưa đưa ra bất kỳ lời tuyên bố nào thì phải hiểu chỉ thị này phải đến từ Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng được truyền xuống cho Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh để ông Than chuyển cho ông Tỵ. Vì ở cấp bậc như ông Tỵ, có cho ăn vàng ông ta cũng không dám cam kết với tướng Tầu như thế!

Như vậy phải chăng trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam cũng đã có những kẻ “ăn cơm Việt mà lại đi  thờ ma Tầu”  mà người dân chưa hay biết vì bên trong chiếc áo Việt Nam họ đã mặc sẵn chiếc áo lót “made in chia”  nên  không ai có thể thấy được?

 

Phạm Trần

Viết Hồi Ký


 

    Chuyn.......

 

Viết Hồi Ký

                                         Tác gi-Gàn Bát Sách

 

       Chưa bao giờ phong trào viết hồi ký lại nở rộ như bây giờ, đặc biệt là những hồi ký viết về Việt Nam, về những biến cố liên quan đến nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Mỹ viết hồi ký. Ta viết hồi ký, và Tây cũng viết hồi ký.

       Mỹ viết hồi ký, thì gồm những nhân vật liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới việc làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, và việc giết chết anh em ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, như các cựu Tổng thống  Nixon, Johnson, cựu Bộ trưởng Kissinger,cựuTướng lãnh Taylor, Westmoreland, Cựu Đại sứ  Nolting, và đặc biệt nhất là cựu Đại sứ  ”đồ tể” Cabot  Lodge với cuốn: “The storm has many eyes”.

      Ta viết hồi ký, thì trước hết phải kể tên cuốn hồi ký bằng tiếng Tây: “Le dragon d'Annam”. Cuốn hồi ký này có giá trị, vì tác giả đã viết trung thực về những biến cố, những sự việc xảy ra trong một giai đoạn lịch sử, không thiên kiến, không bè phái, không chạy tội, không bóp méo sự thật, như những cuốn hồi ký của mấy ông phản tướng, phản loạn như: Đỗ mậu, Tôn Thất Đính, Nguyễn Cao Kỳ, nguyễn Chánh Thi, Trần Văn Đôn.
 
Hồi ký của mấy ông này toàn là những chuyện chạy tội phản loạn.
 
Riêng ông Đỗ Mậu, thì chửi bới lung tung, hết chửi ông Ngô Đình Diệm, rồi chửi Thiên Chúa Giáo.
 
Có người thắc mắc, với lực học lớp ba trường làng, làm sao ông Đỗ Mậu có thể viết được cuốn hồi ký đao to búa lớn như cuốn: “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” ?
 
Chả có gì khó hiểu. Nếu ông không đủ chưởng lực để đâm chém, thì ai có quyền cấm ông thuê mướn du đảng đâm chém dùm ông, Ai cấm nhóm Ấn Quang viết hồi ký đó, để rồi cho ông đứng tên ? Ông đã từng là “Phó thủ tướng đặc trách văn hóa” chớ đâu phải… dân ngu khu đen !!!

        Nhưng cường điệu hơn cả, là cuốn hồi ký viết bằng tiếng Anh của cựu Đại sứ Bùi Diễm với tựa đề: “In the jaws of history”, và đã dịch sang tiếng Việt là: “Gọng kìm lịch sử”.

         Cuốn hồi ký này được trình làng chỗ tôi ở, và đã được tới bốn ông VIP xúm vào bốc thơm. Bốc thơm hăng nhất là ông VIP Nguyễn Mạnh Hùng. Ông Nguyễn Mạnh Hùng bốc rằng:

 

“Ông Diễm là một người có biệt tài cá nhân, đã được lịch sử đặt vào một vị thế đặc biệt, để hành động và chứng kiến nhiều điều mà những người khác không có được. Ông làm việc mật thiết với nhiều nhân vật lịch sử và văn học Việt Nam. Ngoài những nhận xét sâu sắc về chính trị, ông Diễm còn đưa ra một số kết luận khiến người đọc rút ra những bài học lịch sử. Ông Diễm là người lý tưởng. Cuốn sách được viết với một giọng văn trong sáng, bình thản, không cường điệu, với những lời khen, tiếng chê đứng đắn, chừng mực. Đây là một trong những cuốn sách, nếu không muốn nói nó là cuốn sách tiếng Việt súc tích nhất, xuất sắc nhất trong số những hồi ký chính trị về cuộc chiến tranh Việt Nam”.

       Riêng ông ký giả Lô Răng, ngoài chuyện ca tụng ông Bùi Diễm, còn tỏ ra tôn kính ông Bùi Diễm đặc biệt, chỉ dám gọi là ông Bùi, chứ không dám động đến cái tên cúng cơm của ông ta, e rằng phạm thượng. Ông đã viết:

 

“- Ông Bùi thuộc loại đàn anh của tôi.

- Tôi thường gặp ông Bùi đi với những người bạn lớn của chúng tôi.

- Tôi nghĩ ông Bùi thuộc nhóm Quan Điểm”.

 

         Bùi đây là Bùi Diễm, con cụ Bùi (tức Bùi kỷ), cháu nội cụ Bùi (tức Bùi Thức), nghĩa là nhất gia tam Bùi.

        Cứ như cái tên Lô Răng mà suy ra, thì ông ký giả này phải là Tây lai. Tây lai thì mới dùng tiếng Việt ngây ngô như vậy chứ. Còn người Việt chính cống không dùng tên họ mà gọi như vậy, mà luôn luôn dùng tên cúng cơm.
 
Không ai gọi ông Dương văn Minh là ông Dương, ông Nguyễn văn Thiệu là ông Nguyễn, ông Cao văn Viên là ông Cao bao giờ.
 
 Ngoại trừ một vài người nổi tiếng, có thế giá đặc biệt, thì đôi khi được gọi cái họ thay cho cái tên cúng cơm như ở trong Nam gọi ông Ngô Đình Diệm là Ngô Tổng Thống, là Cụ Ngô, và dân Bắc Kỳ gọi Hồ Chí Minh là “Hồ chủ tịch”, là “cụ Hồ”. Thế thôi.
 
 Còn ông Bùi Diễm là cái thứ gì mà không dám gọi cái tên cúng cơm của ông ta, mà chỉ dám gọi là “ông Bùi” ?
 
Sợ phạm thượng chăng ? Có tâng bốc nịnh bợ, thì cũng vừa vừa thôi. Bốc thơm quá lố, người ta buồn nôn.

         Sau mấy chuyện bên lề trên đây, bây giờ xin bàn tới vấn đề chính yếu, đó là giá trị đích thực cuốn hồi ký của ông Bùi Diễm.

 

Điểm đặc biệt trước hết là, tuy bàn về những sự việc của Việt Nam, được viết bởi một người Việt Nam, nhưng lại viết bằng tiếng Anh. Điểm đặc biệt thứ hai là được viết bởi ông Bùi Diễm, một chuyên viên đấm bóp thời cuộc, tuần chay nào cũng có nước mắt.

     

         Thôi cũng được đi, hồi ký của người Việt Nam mà lại viết bằng ngoại ngữ, thì càng le lói, có chi mà phải eo sèo. Với lại chủ trương của ông là viết cho Mỹ đọc, nên ông viết bằng tiếng Anh, chứ người Việt làm sao đủ trình độ mà hiểu nổi những điều cao siêu của ông.
 
 Cũng may, về sau ông có dịch ra tiếng Việt, để cho người Việt đọc, tuy bản dịch sang tiếng Việt có nhiều chỗ ông láu cá, thêm bớt, chứ không giống nguyên bản tiếng anh. Làm chính trị mà không láu cá, thì ở nhà rửa chén cho vợ.

 Ông Bùi Diễm Với Nhóm Caravelle

        Ngày 20 tháng 4 năm 1960, một nhóm  mười tám người tự xưng là “thân hào nhân sĩ trí thức, đại diện cho các gia đình tinh thần đất nước, viết một “bản tuyên ngôn” lên án ông Ngô Đình Diệm không biết cách cách lãnh đạo đất nước, để đến nỗi:

 

 ”Dân nghèo thất nghiệp, của hết, tiền khan, lúa đầy đồng không bán đặng, hàng đầy chợ không ai mua, dân chúng sống chán nản trong vòng nguy khốn, trại giam khám đường không lúc nào đầy chật như lúc này”.

        Rồi mấy ông ra “Bản tuyên ngôn” chuyển đạt tới tổng Thống Ngô Đình Diệm những thỉnh nguyện như sau:

 

“Đem dân tộc ra khỏi vòng nguy khốn, trả tự do cho đời sống người dân, giải tỏa khám đường cho khỏi chật chội, để các giáo phái được tự do hoạt động, giải tán các đoàn thể, phá hủy những khu trù mật hữu hình vô dụng, bỏ lối cai trị tàn ác giống như cộng sản khát máu độc tài…

 

         Đọc “Bản tuyên ngôn” Caravelle người ta thấy gì, Hầu hết toàn là những chuyện vu khống, đặt điều, không tưởng, lươn lẹo.

 

        Mở đầu, “Bản tuyên ngôn” viết:

 “Chúng tôi, đại diện một nhóm thân hào, nhân sĩ, trí thức, đại diện cho các gia đình ba miền đất nước…”

         Các ông đã tự xưng “đại diện một nhóm gia đình ba miền của đất nước”, mà trong nhóm có được bao nhiêu người là người miền Trung, bao nhiêu người là miền Bắc ??? Bất lương là chỗ đó. Rồi toàn bóp méo sự thật. Chưa bao giờ đời sống dân chúng lại sung túc như dưới thời ông Ngô Đình Diệm. Thế mà “bản tuyên ngôn” viết: “Tình thế nguy ngập, dân tộc nguy khốn”.

Và người soạn thảo “Bản tuyên ngôn” vu khống, đặt điều này lại là ông Bùi Diễm. Một người có tư cách không bao giờ đặt điều, vu khống người khác, nhất là người đó lại là một vị nguyên thủ Quốc Gia, được cả thế giới nể vì.

 

 

 Ông Bùi Diễm với cuộc phản loạn 1963

 Vụ Phật giáo năm 1963, đến nay đã rõ trắng đen. Rất nhiều nhân vật có tiếng tăm của Hoa Kỳ, nhiều nhà báo có tầm vóc và nhiều nhà viết sử danh tiếng đã lên tiếng, họ quả quyết đó chỉ là mưu kế chính trị của những kẻ muốn hãm hại anh em ông Diệm. Vạch trần những cái bẩn thỉu của biến cố “Pháp nạn” 1963, và những mưu sĩ của chính quyền Mỹ hồi đó ; trước hết, phải kể đến cố tổng thống Nixon, rồi đến cố hoàng đế Bảo Đại, rồi nhiều nhà báo mỹ nỗi tiếng như: Allen Hammer với cuốn “A death in November”, Marguerite Higgins với cuốn “Our Viet Nam nightmare”, như Anne Claire với cuốn “Lodge in Viet Nam”, và những tác phẩm “The year of the Hare” của giáo sư Xavier Ưinter, tác phẩm “The Side of Camelot” của Semuar M.Hersch.

                                                                                            

         Phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới Việt Nam điều tra cũng đã phúc trình rõ ràng là: “Không có đàn áp hay kỳ thị tôn giáo ở Việt Nam”.

 

         Với những tài liệu rành rành như thế, mà ông Bùi Diễm vẫn cố tình bóp méo lịch sử, để kết tội anh em ông Diệm. Ông bảo ông Diệm là con người “astute” (có nghĩa là sắc sảo, tinh khôn, nhưng cũng có nghĩa là ranh mãnh, láu cá). Khi tường thuật vụ Phật giáo, luận điệu của ông y hệt luận điệu của những nhà báo Mỹ thiên cộng, và luôn luôn đầy ác cảm với “nhà Ngô”.

        Vụ Phật giáo 1963, rành rành là một dựng đứng của những kẻ muốn hãm hại anh em ông Diệm, của những kẻ mắc mưu, hoặc toa rập với cộng sản, cố tình làm suy yếu hàng ngũ Quốc Gia, để đi đến chỗ mất nước sau này.
 
Ông Bùi Diễm đã không cứu nước thì tốt hơn là hãy câm miệng. Thế mà nay ông lại đề cao cái chuyện làm mất nước đó, quả thực ông đã “can đảm” có thừa.

 Trong khi mọi người Quốc Gia đều lên án Hồ Chí Minh, thì ông Bùi Diễm đã ca tụng Hồ Chí Minh như sau:

 “But I thought to myself nevertheless that this was a truly capable man, relaxed and unflappable, a consummate politician”. (Tuy nhiên, tôi tự nghĩ rằng ông này - Hồ Chí Minh - quả thực là người có khả năng, bình thản, không gì có thể làm cho bị lúng túng, một chính trị gia tài giỏi tuyệt vời).

 

         Trong bản tiếng Anh (trang 88) ông Bùi Diễm viết là ông Ngô Đình Diệm chỉ tin người trong gia đình. Đọc đoạn này, chắc hẳn có nhiều người vạch ra cái sai trái của ông. Những người được ông Ngô Đình Diệm trọng dụng lúc bấy giờ như giáo sư Bửu Hội, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu, giáo sư Tôn Thất Thiện, các ông Nguyễn Ngọc thơ, Võ Văn Hải, Đỗ Thọ… và còn rất nhiều người khác được trọng dụng mà không thuộc gia đình họ Ngô. Có lẽ vì thấy bị hố quá, nên 13 năm sau, ông bùi Diễm đành phải sửa đổi trong bản tiếng Việt như sau:”Ngoài những người trong gia đình ông hay một vài người thân cận với ông, ông không tin và không cần tới ai”.

         Sửa sai đấy, nhưng ông Bùi Diễm vẫn ngoan cố. Ông Diệm trọng dụng cả trăm người không thuộc gia đình ông để giữ những chức vụ quan trọng, nhưng ông Bùi Diễm nói là “một vài người thân cận”. Nói quá sai sự thật như thế, hình như đó không phải là tác phong của người thành thực, một đức tính cần thiết của người cầm bút.

 

 Chạy tội hèn nhát

        Hồi năm 1963, Mỹ ép buộc Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải để cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Vì bảo vệ chủ quyền Quốc Gia, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không chịu và bị Mỹ thuê mấy tướng lãnh phản loạn giết chết. Nhiều người đã ca ngợi cái uy dũng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, coi chủ quyền Quốc Gia trọng hơn cả mạng sống. Ít lâu sau cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh, bác sĩ Phan Huy Quát giữ chức thủ tướng, và ông Bùi diễm giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, tức là cánh tay mặt của của bác sĩ Quát. Mỹ đòi đưa quân vào Việt Nam. Thủ tướng Phan Huy Quát cũng như Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Bùi Diễm đã ngoan ngoãn vâng lời Mỹ, rồi sau lại chạy tội là“miễn cưỡng thỏa thuận” cho mỹ đem quân vào Việt Nam”.

        Thầy trò ông hèn, thì cứ chịu hèn đi, có lẽ còn được thông cảm. Hèn vì không có cái uy dũng của tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hèn vì không  bảo vệ chủ quyền Quốc Gia, để mặc cho Mỹ lũng đoạn. Hèn vì coi trọng cái miếng đỉnh chung - coi cái ghế Thủ tướng và cái chức Bộ trưởng là ngon lành, nên đã không dám hé răng, rồi sau còn muối mặt chạy tội là “miễn cưỡng thỏa thuận”. Ai bắt được các ông miễn cưỡng, nếu không phải là cái Miếng Đỉnh Chung quá béo bở ngon lành ???

        Ảnh hưởng của ông Bùi Diễm tới số phận nhân dân Việt Nam  Ngoài chuyện khoe khoang về thân thế và sự nghiệp của ông Bùi Diễm, ông còn nói xa nói gần rằng, cuộc đời hoạt động chính trị của ông có tính cách quyết định đến số phận nhân dân Việt Nam hiện nay. Mà số phận nhân dân Việt Nam, tức sau ngày 30-4-1975 là gì ? Thưa là tù đày, là tra tấn dã man, là đói khổ cơ cực, là lê lết tấm thân tàn ma dại trong các nhà tù “cải tạo”, là bị hãm hiếp, bị vùi thây nơi đáy biển cả, là đưa cả nước xuống hố lầm than chưa từng có trong xã hội loài người. Đấy, cái số phận nhân dân Việt Nam hiện nay là như thế đó. Nếu đích thực ông Bùi Diễm cố ý khoe rằng cuộc đời hoạt động chính trị của ông có tính quyết định đến số phận nhân dân Việt Nam ; thì nhân dân Việt Nam  phải xin cảm ơn ông như nhân dân Do Thái phải cám ơn Hitler, như bà Ngô Đình Nhu phải thay mặt gia đình họ Ngô để cám ơn tên đồ tể Cabot Lodge và nhóm tướng lãnh phản loạn, như những thiếu nữ bị hãm hiếp trên đường vượt biển phải cám ơn bọn hải tặc Thái Lan.

Những điều guống nhau và khác nhau giữa hai ông Đại sứ

 Giống nhau:

    Cả ông Cabot Lodge và ông Bùi Diễm có những điểm giống nhau: Cả hai ông đều là nhà ngoại giao vào cuối cuộc đời chính trị, cả hai ông đều có quyền thế, cả hai ông đều là mưu sĩ, tinh ranh, cả hai đều chống ông Diệm.

 Khác nhau:

 - Ông Cabot Lodge đã can đảm thú nhận là ông sai lầm khi chủ trương lật đổ ông Diệm.

- Ông Bùi Diễm chưa có một lời nào hối hận, hoặc tiếc thương ông Diệm, có lẽ vì ông nghĩ rằng ông không có hành động nào công khai hay trực tiếp trong cái chết của ông Diệm, mà ông chỉ ngấm ngầm, đứng đằng sau lưng mà giật dây.

 - Ông Cabot Lodge hối hận vì thấy sự việc ông Diệm bị giết chết, là một điều tai hại cho nước ông.

- Ông Bùi Diễm, thì hí hửng, vì thấy sự việc ông Diệm bị giết có lợi cho cá nhân ông. Nếu ông Diệm không bị giết, thì ông Diễm làm gì có cơ hội làm Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, rồi làm phụ tá đặc biệt cho tướng Kỳ, đặc trách kế hoạch và ngoại viện, làm Đại sứ tại nước Hoa Kỳ, rồi làm Đại sứ lưu động. Đi tới đâu là yến tiệc tới đó. Quê nhà tang tóc, đồng bào đói khổ, chết choc, mất hết tự do, bị hành hạ không bằng súc vật, ông đâu có cần. Cho đến cuối đời, ông vần ung dung nhàn hạ. Ông Bùi Diễm thật là Diễm Phúc.

                              

                                                      Gàn Bát Sách

 

 

Chống tham nhũng là đồng minh của dân chủ


 

Chống tham nhũng là đồng minh của dân chủ


Hà Đình Sơn


Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi (Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005).

Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).

Chế độ độc tài là một thể chế nhà nước chuyên quyền mà ở đó nhà nước được cai trị bởi một cá nhân: kẻ độc tài (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).

Xã hội Việt Nam thiếu dân chủ; dân chủ là mục tiêu, là nhu cầu sống còn của đất nước hiện nay. Nhưng kẻ thù của dân chủ lại chính là chế độ độc tài. Phương pháp đấu tranh loại bỏ chế độ độc tài được nhân loại văn minh ngày nay lựa chọn là đấu tranh bất bạo động.

Chế độ độc tài đẻ ra tham nhũng. Tham nhũng chính là “lý tưởng” thật của chế độ độc tài. Tham nhũng là chất keo gắn kết của chế độ độc tài. Ngược lại không có chế độ độc tài thì không thể tham nhũng tràn lan, nhưng tham nhũng lại làm xói mòn và dẫn đến hủy diệt chế độ độc tài. Đây chính lý do giải thích một mâu thuẫn là tại sao chế độ độc tài cũng kêu gọi chống tham nhũng, nhưng chỉ chống nửa vời vì không còn tham nhũng thì cũng không còn chế độ độc tài. Tham nhũng và chế độ độc tài là hai mặt của “sinh vật ký sinh” trong xã hội. Nên thường một người mới lên làm lãnh đạo thì đều tuyên bố sẽ tuyên chiến với tham nhũng, nhưng trong đó chỉ có 20%  là thật tâm còn đến 80% là giả dối. Do tách rời lợi ích của số ít với lợi ích của toàn dân, lợi ích của đất nước nên dẫn đến: chống ngoại xâm thì lo mất bạn; chống tham nhũng thì sợ thù oán. Trong cuộc chiến chống tham nhũng sẽ phân định ai là vì thể chế độc tài ai là vì lợi ích nhân dân.

Người chống tham nhũng thật sự là người dám tin vào nhân dân, dựa vào nhân dân, minh bạch hoạt động nhà nước và lấy đó là nguồn lực chính để chống tham vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước. Chống tham nhũng mà không dựa vào nhân dân là không thể và chỉ là dối trá; hậu quả nguy hiểm là thất bại: hoặc thỏa hiệp, trở thành đồng bọn với tham nhũng hoặc ngả làm tay sai bán nước để duy trì lợi ích.

Trong một chế độ độc tài không thể nào sinh ra một con người có quá khứ hoàn toàn trong sạch, không có chút tham nhũng. Hãy xếp lại quá khứ của mọi cá nhân để vì cuộc đấu tranh hiện tại và vì tương lai, xem tất cả những cá nhân, tổ chức chống  tham nhũng đều là đồng minh của dân chủ, nhân dân phải ủng hộ họ. Ai chống tham nhũng mà dựa vào nhân dân, dám minh bạch là người chống tham nhũng thực sự và là người của nhân dân, của đất nước. Xã hội không nên chỉ đặt niềm tin và trông chờ ở một cá nhân mà thay bằng việc ủng hộ, sát cánh và giám sát những hành động của họ. Độc lập dân tộc, tự do dân chủ không thể van xin mà có, mà phải đấu tranh giành giữ.

Hà Nội, ngày 26/01/2013

H. Đ. S.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.



Lưỡi gỗ trên báo Nhân Dân



http://thesuperslice.com/wp-content/uploads/2011/08/Dare-Nothing-Hope-for-Nothing-Wood-Paint-Nails.jpg
Xạo,xạo,xạo hết cả ngày!
Lưỡi gỗ trên báo Nhân Dân

Trung Điền

Cùng tác giả:

Ngày 21 tháng 1 vừa qua, Báo Nhân Dân đã đăng bài viết “Hãy tôn trọng sự thật” ký tên Hoài Ân đề cập về vụ xử 14 Thanh niên yêu nước tại Vinh hôm mồng 8 và 9 tháng 1 năm 2013. Bài báo này cho rằng: “một số tổ chức quốc tế và cơ quan ngoại giao của một số nước, do không xem xét từ bản chất của vấn đề (?), do thiếu thiện chí với Việt Nam (?), đã không tôn trọng sự thật (?) khi lên tiếng phê phán sự phán quyết công minh của phiên tòa.”

Và để chứng minh “tôn trọng sự thật”, Hoài Ân của báo Nhân dân lại lôi ra ba văn kiện sau đây ra để gọi là chứng minh, nhưng thực chất là ngụy biện.

1/ Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hoài Ân đã dựa vào cái gọi là điều tra của công an khi quy chụp rằng 14 thanh niên yêu nước này đã được đảng Việt Tân móc nối, đưa ra nước ngoài huấn luyện, sử dụng họ để thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền bằng phương pháp “diễn biến hòa bình”. Vì thế 14 thanh niên nói trên bị xét xử theo điều 79 (âm mưu lật đổ) của Luật hình sự là đúng.

Cái gian của Hoài Ân và báo Nhân Dân là dựa trên sự quy chụp một chiều của công an để cáo buộc 14 thanh niên Công giáo và Tin lành đã tham dự các khóa học của Việt Tân và vì thế họ là thành viên của Việt Tân. Họ quy chụp mà không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào.

 Trong phiên tòa, những thanh niên Công giáo này đều chủ trương là họ không làm điều gì sai và tuyên bố vô tội. Đặc biệt là trong 14 thanh niên công giáo này có một thanh niên tên là Lê Văn Sơn (Blogger Paulus Lê Sơn) bị CSVN kết án 13 năm tù giam.

Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới có trụ sở tại Pháp đã lên tiếng cho biết Blogger Paulus Lê Sơn chỉ tham dự khóa học về Internet do cơ quan này tổ chức vào thời điểm mà CSVN cáo buộc rằng do đảng Việt Tân tổ chức. Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới đã thách thức công an CSVN đưa ra bằng chứng nhưng đến nay Bộ công an CSVN vẫn hoàn toàn im lặng.

2/ Điều 29 của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Hoài Ân đã trích một đoạn có nội dung: “trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do cho cá nhân mọi người phải tuân thủ những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất lả bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác, trật tự công cộng…”, để viện dẫn rằng việc áp dụng bản Tuyên ngôn phải đặt trong bối cảnh đáp ứng luật pháp của CSVN.

Cái lấp liếm đánh lận con đen của Hoài Ân và báo Nhân dân là đòi việc thực hiện bản Tuyên ngôn phải tuân thủ luật pháp của CSVN trước dù các luật này vi phạm bản Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền. Điều khôi hài nữa là chính hiến pháp 1992 của CSVN có ghi: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, biểu tình… nhưng luôn luôn có cái đuôi ở đàng sau là “theo quy định của luật pháp” để mở cửa cho những kẻ độc tài dùng luật rừng khóa miệng người dân, chứ không phải theo đúng nguyên tắc là “luật pháp nhằm giữ trật tự công cộng và bảo vệ an ninh chung trong tinh thần thượng tôn Nhân quyền - tức là những quyền căn bản đã được ghi rõ trong Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyên”.

CSVN đã dùng thủ đoạn vừa ăn cướp, vừa la làng khi một mặt nói là công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội … của công dân; một mặt khác lại đưa ra điều 79 (tội âm mưu lật đổ chính quyền nếu tham gia vào những đảng phái, tổ chức không có sự cho phép của đảng CSVN) hay điều 88 (tội tuyên truyền chống phá nhà nước, nếu phát biểu những điều phê bình các sai trái của đảng và nhà nước) để kết tội những công dân lương thiện, yêu nước thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội.

3/ Điều 2385 Chương 115 - Bộ luật Hình sự Mỹ. Hoài Ân đã trích một đoạn trong đó Luật Mỹ nghiêm cấm mọi hành vi “in ấn, xuất bản, biên tập, phát hành, truyền bá, buôn bán, phân phối những tài liệu viết hoặc in nào có nội dung xúi giục các hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hay bạo lực, để cáo buộc rằng nếu các hoạt động “khủng bố” của Việt Tân đã tiến hành ở Việt Nam mà diễn ra trên đất Mỹ thì đã bị truy tố…. rồi.

Sự hàm hồ và xảo quyệt của Hoài Ân và báo Nhân Dân là đã gán ghép Việt Tân là khủng bố, dựng ra những chiến dịch Đông tiến I, Đông tiến II mà tổ chức này không hề chủ trương, để so sánh các hoạt động bạo lực, vũ lực nhằm chống lại chính quyền các cấp theo quy định của Luật hình sự Mỹ.

Vào năm 2007 khi CSVN bắt giữ một số thành viên của đảng Việt Tân, CSVN đã cáo buộc Việt Tân là khủng bố; nhưng khi đảng Việt Tân thách thức CSVN đưa ra bằng chứng, họ không đưa ra bằng chứng nhưng tiếp tục cho báo đài của chế độ lập đi lập lại những “cáo buộc hàm hồ” làm “bằng chứng”.

Những cáo buộc khi được lập đi lập lại nhiều lần thì chính những kẻ vu cáo lại tự thuyết phục chính mình rằng “những vu cáo không bằng cớ này là đúng!” Ngay cả ông Đại Sứ Hoa Kỳ vào lúc đó là Đại sứ Michael W Michalak đã yêu cầu CSVN đưa ra chứng cớ, nhưng thứ trưởng công an lúc đó là Nguyễn Văn Hưởng đã chỉ nói quanh co mà không đưa ra được bất cứ bằng chứng gì.

Ngày 17 tháng 4 năm 2012 khi công an CSVN bắt Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân vừa mới nhập cảnh tại phi trường Tân Sơn Nhất, họ đã họp báo và cáo buộc Tiến sĩ Quân tội khủng bố. Nhưng sau 4 tháng giam giữ, công an CSVN lại sửa bản án từ khủng bố sang tội âm mưu lật đổ chính quyền.

 Điều này cho thấy là chính CSVN đã không tin vào những điều cáo buộc của họ mà phải tự thay đổi bản án, cho nên việc Hoài Ân viện dẫn luật hình sự của Mỹ để cố biện minh cho việc cáo buộc Việt Tân là khủng bố đã trở thành lố bịch.

Sau cùng, Hoài Ân còn ngu ngơ tấn công vào chính quyền Hoa Kỳ khi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội lên tiếng phê phán bản án nặng nề đối với 14 thanh niên yêu nước.  

Trong phần kết luận của bài viết nói trên, Hoài Ân đã mỉa mai chất vấn các tổ chức nhân quyền: Nhân quyền ở đâu khi có tới 162 ngàn người, trong đó gần 80% là dân thường, đã thiệt mạng ở Iraq kể từ khi Hoa Kỳ phát động cuộc chiến tranh Iraq năm 2003 đến khi lực lượng Mỹ rút khỏi nước này.

Nhân quyền ở đâu khi 28 người bị giết hại tại một trường học ở Connecticut, Hoa Kỳ, chỉ trong một vụ xả súng?”

Hai sự kiện mà Hoài Ân liệt kê để phê phán các tổ chức nhân quyền quốc tế không ăn nhập gì đến vấn đề vi phạm và chà đạp quyền con người một cách có tổ chức tại Việt Nam. Sự kiện những thường dân vô tội bị chết tại Iraq là hệ quả của chiến tranh khởi đi từ một chế độ độc tài độc ác do Saddam Hussein lãnh đạo; 28 nạn nhân bị chết do một vụ xả súng là hệ quả của một cá nhân điên loạn, không phải là chủ mưu của chính quyền Hoa Kỳ.

Trong khi đó, chế độ độc tài CSVN đã vi phạm trắng trợn những điều mà họ đã ký kết tôn trọng qua Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, vi phạm ngay chính hiến pháp của họ khi dùng điều 79, 88 của Luật hình sự để bịt miệng và đàn áp những công dân yêu nước.


Muốn kêu gọi người khác tôn trọng sự thật, CSVN trước hết phải biết tôn trọng sự thật và lẽ phải. Nếu vì sợ hãi sự thật và lẽ phải mà bịt miệng người dân, đàn áp những công dân Việt Nam lương thiện và yêu nước, trong khi đó lại còn tố cáo người khác là không tôn trọng sự thật thì CSVN không những đã phơi bày bộ mặt gian trá mà còn là hành động “ngậm máu phun người”.

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link