Chuyển.......
Viết Hồi Ký
Tác giả-Gàn Bát Sách
Chưa bao giờ phong trào viết hồi ký lại nở rộ như bây giờ,
đặc biệt là những hồi ký viết về Việt Nam, về những biến cố liên quan đến nền
Đệ Nhất Cộng Hòa. Mỹ viết hồi ký. Ta viết hồi ký, và Tây cũng viết hồi ký.
Mỹ viết hồi ký, thì gồm những nhân vật liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới
việc làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, và việc giết chết anh em ông Ngô
Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, như các cựu Tổng thống Nixon, Johnson, cựu Bộ
trưởng Kissinger,cựuTướng lãnh Taylor, Westmoreland, Cựu Đại sứ Nolting,
và đặc biệt nhất là cựu Đại sứ ”đồ tể” Cabot Lodge với cuốn: “The
storm has many eyes”.
Ta viết hồi ký, thì trước hết phải kể tên cuốn hồi ký bằng tiếng Tây: “Le
dragon d'Annam”. Cuốn hồi ký này có giá trị, vì tác giả đã viết trung thực về
những biến cố, những sự việc xảy ra trong một giai đoạn lịch sử, không thiên
kiến, không bè phái, không chạy tội, không bóp méo sự thật, như những cuốn hồi
ký của mấy ông phản tướng, phản loạn như: Đỗ mậu, Tôn Thất Đính, Nguyễn Cao Kỳ,
nguyễn Chánh Thi, Trần Văn Đôn.
Hồi ký của mấy ông này toàn là những chuyện
chạy tội phản loạn.
Riêng ông Đỗ Mậu, thì chửi bới lung tung, hết chửi ông Ngô
Đình Diệm, rồi chửi Thiên Chúa Giáo.
Có người thắc mắc, với lực học lớp ba
trường làng, làm sao ông Đỗ Mậu có thể viết được cuốn hồi ký đao to búa lớn như
cuốn: “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” ?
Chả có gì khó hiểu. Nếu ông không đủ
chưởng lực để đâm chém, thì ai có quyền cấm ông thuê mướn du đảng đâm chém dùm
ông, Ai cấm nhóm Ấn Quang viết hồi ký đó, để rồi cho ông đứng tên ? Ông đã từng
là “Phó thủ tướng đặc trách văn hóa” chớ đâu phải… dân ngu khu đen !!!
Nhưng cường điệu hơn cả, là cuốn hồi ký viết bằng tiếng Anh của cựu
Đại sứ Bùi Diễm với tựa đề: “In the jaws of history”, và đã dịch sang tiếng
Việt là: “Gọng kìm lịch sử”.
Cuốn hồi ký này được trình làng chỗ tôi ở, và đã được tới bốn ông VIP xúm
vào bốc thơm. Bốc thơm hăng nhất là ông VIP Nguyễn Mạnh Hùng. Ông Nguyễn Mạnh
Hùng bốc rằng:
“Ông
Diễm là một người có biệt tài cá nhân, đã được lịch sử đặt vào một vị thế đặc
biệt, để hành động và chứng kiến nhiều điều mà những người khác không có được.
Ông làm việc mật thiết với nhiều nhân vật lịch sử và văn học Việt Nam. Ngoài
những nhận xét sâu sắc về chính trị, ông Diễm còn đưa ra một số kết luận khiến
người đọc rút ra những bài học lịch sử. Ông Diễm là người lý tưởng. Cuốn sách
được viết với một giọng văn trong sáng, bình thản, không cường điệu, với những
lời khen, tiếng chê đứng đắn, chừng mực. Đây là một trong những cuốn sách, nếu không
muốn nói nó là cuốn sách tiếng Việt súc tích nhất, xuất sắc nhất trong số những
hồi ký chính trị về cuộc chiến tranh Việt Nam”.
Riêng ông ký giả Lô Răng, ngoài chuyện ca tụng ông Bùi Diễm, còn tỏ ra tôn kính
ông Bùi Diễm đặc biệt, chỉ dám gọi là ông Bùi, chứ không dám động đến cái tên
cúng cơm của ông ta, e rằng phạm thượng. Ông đã viết:
“-
Ông Bùi thuộc loại đàn anh của tôi.
-
Tôi thường gặp ông Bùi đi với những người bạn lớn của chúng tôi.
-
Tôi nghĩ ông Bùi thuộc nhóm Quan Điểm”.
Bùi đây là Bùi Diễm, con cụ Bùi (tức Bùi kỷ), cháu nội cụ Bùi (tức Bùi Thức),
nghĩa là nhất gia tam Bùi.
Cứ như cái tên Lô Răng mà suy ra, thì ông ký giả này phải là Tây lai. Tây lai
thì mới dùng tiếng Việt ngây ngô như vậy chứ. Còn người Việt chính cống không
dùng tên họ mà gọi như vậy, mà luôn luôn dùng tên cúng cơm.
Không ai gọi ông
Dương văn Minh là ông Dương, ông Nguyễn văn Thiệu là ông Nguyễn, ông Cao văn
Viên là ông Cao bao giờ.
Ngoại trừ một vài người nổi tiếng, có thế giá đặc
biệt, thì đôi khi được gọi cái họ thay cho cái tên cúng cơm như ở trong Nam gọi
ông Ngô Đình Diệm là Ngô Tổng Thống, là Cụ Ngô, và dân Bắc Kỳ gọi Hồ Chí Minh
là “Hồ chủ tịch”, là “cụ Hồ”. Thế thôi.
Còn ông Bùi Diễm là cái thứ gì mà không
dám gọi cái tên cúng cơm của ông ta, mà chỉ dám gọi là “ông Bùi” ?
Sợ phạm
thượng chăng ? Có tâng bốc nịnh bợ, thì cũng vừa vừa thôi. Bốc thơm quá lố,
người ta buồn nôn.
Sau mấy chuyện bên lề trên đây, bây giờ xin bàn tới vấn đề chính yếu, đó là giá
trị đích thực cuốn hồi ký của ông Bùi Diễm.
Điểm
đặc biệt trước hết là, tuy bàn về những sự việc của Việt Nam, được viết bởi một
người Việt Nam, nhưng lại viết bằng tiếng Anh. Điểm đặc biệt thứ hai là được viết
bởi ông Bùi Diễm, một chuyên viên đấm bóp thời cuộc, tuần chay nào cũng có nước
mắt.
Thôi cũng được đi, hồi ký của người Việt Nam mà lại viết bằng ngoại ngữ, thì
càng le lói, có chi mà phải eo sèo. Với lại chủ trương của ông là viết cho Mỹ
đọc, nên ông viết bằng tiếng Anh, chứ người Việt làm sao đủ trình độ mà hiểu
nổi những điều cao siêu của ông.
Cũng may, về sau ông có dịch ra tiếng Việt, để
cho người Việt đọc, tuy bản dịch sang tiếng Việt có nhiều chỗ ông láu cá, thêm
bớt, chứ không giống nguyên bản tiếng anh. Làm chính trị mà không láu cá, thì ở
nhà rửa chén cho vợ.
Ông
Bùi Diễm Với Nhóm Caravelle
Ngày 20 tháng 4 năm 1960, một nhóm mười tám người tự xưng là “thân
hào nhân sĩ trí thức, đại diện cho các gia đình tinh thần đất nước”,
viết một “bản tuyên ngôn” lên án ông Ngô Đình Diệm không biết cách cách lãnh
đạo đất nước, để đến nỗi:
”Dân
nghèo thất nghiệp, của hết, tiền khan, lúa đầy đồng không bán đặng, hàng đầy chợ
không ai mua, dân chúng sống chán nản trong vòng nguy khốn, trại giam khám đường
không lúc nào đầy chật như lúc này”.
Rồi mấy ông ra “Bản tuyên ngôn” chuyển đạt tới tổng Thống Ngô Đình Diệm
những thỉnh nguyện như sau:
“Đem
dân tộc ra khỏi vòng nguy khốn, trả tự do cho đời sống người dân, giải tỏa khám
đường cho khỏi chật chội, để các giáo phái được tự do hoạt động, giải tán các đoàn
thể, phá hủy những khu trù mật hữu hình vô dụng, bỏ lối cai trị tàn ác giống
như cộng sản khát máu độc tài…”
Đọc “Bản tuyên ngôn” Caravelle người ta thấy gì, Hầu hết toàn là những chuyện
vu khống, đặt điều, không tưởng, lươn lẹo.
Mở đầu, “Bản tuyên ngôn” viết:
“Chúng
tôi, đại diện một nhóm thân hào, nhân sĩ, trí thức, đại diện cho các gia đình
ba miền đất nước…”
Các ông đã tự xưng “đại diện một nhóm gia đình ba miền của đất nước”, mà trong
nhóm có được bao nhiêu người là người miền Trung, bao nhiêu người là miền Bắc
??? Bất lương là chỗ đó. Rồi toàn bóp méo sự thật. Chưa bao giờ đời sống
dân chúng lại sung túc như dưới thời ông Ngô Đình Diệm. Thế mà “bản
tuyên ngôn” viết: “Tình thế nguy ngập, dân tộc nguy khốn”.
Và
người soạn thảo “Bản tuyên ngôn” vu khống, đặt điều này lại là ông Bùi Diễm.
Một người có tư cách không bao giờ đặt điều, vu khống người khác, nhất là người
đó lại là một vị nguyên thủ Quốc Gia, được cả thế giới nể vì.
Ông
Bùi Diễm với cuộc phản loạn 1963
Vụ
Phật giáo năm 1963, đến nay đã rõ trắng đen. Rất nhiều nhân vật có tiếng tăm
của Hoa Kỳ, nhiều nhà báo có tầm vóc và nhiều nhà viết sử danh tiếng đã lên
tiếng, họ quả quyết đó chỉ là mưu kế chính trị của những kẻ muốn hãm hại anh em
ông Diệm. Vạch trần những cái bẩn thỉu của biến cố “Pháp nạn” 1963, và những
mưu sĩ của chính quyền Mỹ hồi đó ; trước hết, phải kể đến cố tổng thống Nixon,
rồi đến cố hoàng đế Bảo Đại, rồi nhiều nhà báo mỹ nỗi tiếng như: Allen Hammer
với cuốn “A death in November”, Marguerite Higgins với cuốn “Our Viet Nam
nightmare”, như Anne Claire với cuốn “Lodge in Viet Nam”, và những tác phẩm
“The year of the Hare” của giáo sư Xavier Ưinter, tác phẩm “The Side of
Camelot” của Semuar M.Hersch.
Phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới Việt Nam điều tra cũng đã phúc trình rõ ràng là: “Không
có đàn áp hay kỳ thị tôn giáo ở Việt Nam”.
Với những tài liệu rành rành như thế, mà ông Bùi Diễm vẫn cố tình bóp méo lịch
sử, để kết tội anh em ông Diệm. Ông bảo ông Diệm là con người “astute” (có nghĩa
là sắc sảo, tinh khôn, nhưng cũng có nghĩa là ranh mãnh, láu cá). Khi tường
thuật vụ Phật giáo, luận điệu của ông y hệt luận điệu của những nhà báo Mỹ
thiên cộng, và luôn luôn đầy ác cảm với “nhà Ngô”.
Vụ Phật giáo 1963, rành rành là một dựng đứng
của những kẻ muốn hãm hại anh em ông Diệm, của những kẻ mắc mưu, hoặc toa rập
với cộng sản, cố tình làm suy yếu hàng ngũ Quốc Gia, để đi đến chỗ mất nước sau
này.
Ông Bùi Diễm đã không cứu nước thì tốt hơn là hãy câm miệng. Thế mà nay
ông lại đề cao cái chuyện làm mất nước đó, quả thực ông đã “can đảm” có thừa.
Trong
khi mọi người Quốc Gia đều lên án Hồ Chí Minh, thì ông Bùi Diễm đã ca tụng Hồ
Chí Minh như sau:
“But
I thought to myself nevertheless that this was a truly capable man, relaxed and
unflappable, a consummate politician”. (Tuy nhiên, tôi tự nghĩ rằng ông
này - Hồ Chí Minh - quả thực là người có khả năng, bình thản, không gì có thể
làm cho bị lúng túng, một chính trị gia tài giỏi tuyệt vời).
Trong bản tiếng Anh (trang 88) ông Bùi Diễm viết là ông Ngô Đình Diệm chỉ tin
người trong gia đình. Đọc đoạn này, chắc hẳn có nhiều người vạch ra cái sai
trái của ông. Những người được ông Ngô Đình Diệm
trọng dụng lúc bấy giờ như giáo sư Bửu Hội, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu, giáo sư
Tôn Thất Thiện, các ông Nguyễn Ngọc thơ, Võ Văn Hải, Đỗ Thọ… và còn rất nhiều
người khác được trọng dụng mà không thuộc gia đình họ Ngô. Có lẽ vì thấy bị hố
quá, nên 13 năm sau, ông bùi Diễm đành phải sửa đổi trong bản tiếng Việt như
sau:”Ngoài những người trong gia đình ông hay một vài người thân cận với ông,
ông không tin và không cần tới ai”.
Sửa sai đấy, nhưng ông Bùi Diễm vẫn ngoan cố. Ông Diệm trọng dụng cả trăm người
không thuộc gia đình ông để giữ những chức vụ quan trọng, nhưng ông Bùi Diễm
nói là “một vài người thân cận”. Nói quá sai sự thật như thế, hình như đó không
phải là tác phong của người thành thực, một đức tính cần thiết của người cầm
bút.
Chạy
tội hèn nhát
Hồi năm 1963, Mỹ ép buộc Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải để cho Mỹ đổ quân vào
Việt Nam. Vì bảo vệ chủ quyền Quốc Gia, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không chịu
và bị Mỹ thuê mấy tướng lãnh phản loạn giết chết. Nhiều người đã ca ngợi cái uy
dũng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, coi chủ quyền Quốc Gia trọng hơn cả mạng
sống. Ít lâu sau cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh, bác sĩ Phan Huy Quát
giữ chức thủ tướng, và ông Bùi diễm giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, tức là
cánh tay mặt của của bác sĩ Quát. Mỹ đòi đưa quân vào Việt Nam. Thủ tướng Phan
Huy Quát cũng như Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Bùi Diễm đã ngoan ngoãn vâng lời Mỹ,
rồi sau lại chạy tội là“miễn cưỡng thỏa thuận” cho mỹ đem quân vào Việt Nam”.
Thầy trò ông hèn, thì cứ chịu hèn đi, có lẽ còn được thông cảm. Hèn vì không
có cái uy dũng của tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hèn vì không bảo vệ chủ
quyền Quốc Gia, để mặc cho Mỹ lũng đoạn. Hèn vì coi trọng cái miếng đỉnh chung
- coi cái ghế Thủ tướng và cái chức Bộ trưởng là ngon lành, nên đã không dám hé
răng, rồi sau còn muối mặt chạy tội là “miễn cưỡng thỏa thuận”. Ai bắt được các
ông miễn cưỡng, nếu không phải là cái Miếng Đỉnh Chung quá béo bở ngon lành ???
Ảnh hưởng của ông Bùi Diễm tới số phận nhân dân Việt Nam Ngoài chuyện
khoe khoang về thân thế và sự nghiệp của ông Bùi Diễm, ông còn nói xa nói gần
rằng, cuộc đời hoạt động chính trị của ông có tính cách quyết định đến số phận
nhân dân Việt Nam hiện nay. Mà số phận nhân dân Việt Nam, tức sau ngày 30-4-1975
là gì ? Thưa là tù đày, là tra tấn dã man, là đói khổ cơ cực, là lê lết tấm
thân tàn ma dại trong các nhà tù “cải tạo”, là bị hãm hiếp, bị vùi thây nơi đáy
biển cả, là đưa cả nước xuống hố lầm than chưa từng có trong xã hội loài người.
Đấy, cái số phận nhân dân Việt Nam hiện nay là như thế đó. Nếu đích thực ông
Bùi Diễm cố ý khoe rằng cuộc đời hoạt động chính trị của ông có tính quyết định
đến số phận nhân dân Việt Nam ; thì nhân dân Việt Nam phải xin cảm ơn ông
như nhân dân Do Thái phải cám ơn Hitler, như bà Ngô
Đình Nhu phải thay mặt gia đình họ Ngô để cám ơn tên đồ tể Cabot Lodge và nhóm
tướng lãnh phản loạn, như những thiếu nữ bị hãm hiếp trên đường vượt biển phải
cám ơn bọn hải tặc Thái Lan.
Những
điều guống nhau và khác nhau giữa hai ông Đại sứ
Giống
nhau:
Cả ông Cabot Lodge và ông Bùi Diễm có những điểm
giống nhau: Cả hai ông đều là nhà ngoại giao vào cuối cuộc đời chính trị, cả
hai ông đều có quyền thế, cả hai ông đều là mưu sĩ, tinh ranh, cả hai đều chống
ông Diệm.
Khác
nhau:
-
Ông Cabot Lodge đã can đảm thú nhận là ông sai lầm khi chủ trương lật đổ ông
Diệm.
-
Ông Bùi Diễm chưa có một lời nào hối hận, hoặc tiếc thương ông Diệm, có lẽ vì
ông nghĩ rằng ông không có hành động nào công khai hay trực tiếp trong cái chết
của ông Diệm, mà ông chỉ ngấm ngầm, đứng đằng sau lưng mà giật dây.
-
Ông Cabot Lodge hối hận vì thấy sự việc ông Diệm bị giết chết, là một điều tai
hại cho nước ông.
-
Ông Bùi Diễm, thì hí hửng, vì thấy sự việc ông Diệm bị giết có lợi cho cá nhân
ông. Nếu ông Diệm không bị giết, thì ông Diễm làm gì có cơ hội làm Bộ trưởng
Phủ Thủ tướng, rồi làm phụ tá đặc biệt cho tướng Kỳ, đặc trách kế hoạch và ngoại
viện, làm Đại sứ tại nước Hoa Kỳ, rồi làm Đại sứ lưu động. Đi tới đâu là yến
tiệc tới đó. Quê nhà tang tóc, đồng bào đói khổ, chết choc, mất hết tự do, bị
hành hạ không bằng súc vật, ông đâu có cần. Cho đến cuối đời, ông vần ung dung
nhàn hạ. Ông Bùi Diễm thật là Diễm Phúc.
Gàn Bát Sách
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment