Vietnam
===
=====
lisa pham mới nhất [khai dân trí số>
https://www.youtube.com/results?search_query=lisa+pham+m%E1%BB%9Bi+nh%E1%BA%A5t+%5Bkhai+d%C3%A2n+tr%C3%AD+s%E1%BB%91
===
====================
Biểu tình 5/3/2017
https://www.youtube.com/results?sp=EgIIAg%253D%253D&q=bi%E1%BB%83u+t%C3%ACnh+2017
Saturday, June 23, 2018
Friday, June 22, 2018
Thursday, June 21, 2018
20 tháng7, nhớ lại cuộc di cư vĩ đại 1954
20 tháng7, nhớ lại
cuộc di cư vĩ đại 1954
Lữ
Giang
Cuộc di cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc vào miền Nam năm 1954, sau
khi hiệp định Genève được ký kết, tính dến nay đã 64 năm. Nhưng khi ngồi đọc
lại các tài liệu do nhà cầm quyền CSVN viết, chúng ta khám phá ra có rất nhiều
sự xuyên tạc rất trắng trợn, mặc dầu các tài liệu lịch sử về cuộc chiến Việt
Nam đã được tiết lộ gần hết và các nhân chứng vẫn đang còn hiện diện ở trong và
ngoài nước. Một thí dụ điên hình, trong cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954 – 1975”, Tập II, do Nhà Xuất
Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, xuất bản năm 1996 đã viết rằng sở dĩ nhiều đồng
bào đã bỏ miền Bắc ra đi là vì bị cưỡng ép và số đồng bào công giáo bỏ đi rất
đông là vì họ bị Ngô Đình Diệm và người Mỹ đánh lừa, nói rằng "Chúa đã vào Nam"
hay "Đức bà Mary Đồng Trinh
đã rời khỏi miền Bắc"
hay “Mỹ
sẽ ném bom nguyên tử miền Bắc”, v.v.
Điều đáng tiếc là sự dối trá này đã được một vài sử gia và chính
trị gia Tây phương như Bernard Fall, Chester L. Cooper
(chuyên viên về Á Châu và Đông Dương của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ)... chép lại
nguyên văn, không cần kiểm chứng. Sau đó, tập “Vietnam: Defeat U.S. Imperialism, A
Progressive Labor Party Pamphlet” của Đảng CSVN lại nhai lại cái bã do
chính họ nhả ra!
Để làm sáng tỏ lịch sử, hôm nay nhân kỷ niệm 64 năm di cư khỏi
miền Bắc, chúng tôi xin ghi lại những nét chính về cuộc di cư này, trong đó có
cả những trải nghiệm của bản thân người viết.
ĐỒNG
BÀO THÁO CHẠY KHỎI MIỀN BẮC
Điều 14, đoạn b, của Hiệp Định Genève được ký kết ngày 20.7.1954
quy định:
“Trong
thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển
quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà
muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách của khu trên phải cho
phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy.”
Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21.7.1954, ở đoạn 8 có nói:
“Phải
triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích
bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi
người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sống.”
Lúc đầu, Việt Minh đã cho di cư khá dễ dàng. Người Công Giáo ý
thức rằng không thể có tự do tôn giáo dưới chế độ cộng sản nên đa số quyết tâm
ra đi. Về sau, Việt Minh thấy rằng số người bỏ làng mạc di cư vào Nam ngày càng
đông, sẽ gây ảnh hưởng không tốt về chính trị và làm cho tiềm năng nhân lực và
kinh tế miền Bắc yếu đi nên đã tìm cách ngăn chận.
a)
Phong trào di cư bùng nổ:
Cùng với sự triệt thoái của quân đội Pháp ra khỏi vùng Nam Trung Châu Bắc Việt,
đồng bào thuộc các tỉnh Bùi Chu, Phát Diệm, Ninh Bình, Nam Định và Phủ Lý vội
vàng chạy về Hà Nội. Đồng bào ở Thái Bình theo đường bể ra Hải Phòng. Tiếp
theo, đồng bào ở các vùng quanh Hà Nội như Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc Yên cũng hốt hoảng chạy về Hà Nội. Phong trào di cư đã bùng nổ 3 ngày
trước khi Hiệp Định Genève được ký kết. Ngày 17.7.1954, Pháp phải mở chuyến tàu
đầu tiên chở người di cư đến Sài Gòn.
Phong trào di cư ngày càng lan rộng. Những đồng bào ở Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hòa Bình cũng tìm cách chạy về Hà Nội.
Sau đó, đến lượt đồng bào ở ba tỉnh miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh
ở Liên Khu IV là vùng bị Việt Cộng chiếm đóng và cai trị từ 1945, cũng tìm cách
di cư.
b)
Các cuộc đàn áp đẩm máu: Trước phong trào di cư
ồ ạt này, nhà quyền Cộng Sản đã tìm cách ngăn chận. Các cuộc đàn áp đẩm máu đã
xẩy ra. Sau đây là một vài thí dụ điển hình:
1.- Vụ Cựa Gà:
Công an đã bắt 30 linh mục đứng ra hướng dẫn phong trào di cư. Giáo dân đã phản
đối rất mạnh, công an phải thả ra. Quảng đường từ Bích Câu đến Bùi Chu đầy
nghẹt người. Từ Bùi Chu đến Cựa Gà còn gay cấn hơn. Bọn công an và bộ đội giả
dạng dân chúng chạy ra níu kéo lại. Người di cư phải vật lộn với họ từ 5 giờ
sáng đến 12 giờ trưa mới đến được Cựa Gà. Tại đây, công an lại phong tỏa các đò
ngang không cho qua sông. Họ tập trung đồng bào lại và khuyên không nên
đi. Đến 5 giờ chiều, họ đem xe đến mời đồng bào trở về Hậu Hải. Đồng bào không
chịu lên xe.
2.- Vụ Sa Châu:
Cuộc ra đi của khoảng 3000 đồng bào ở giáo xứ Sa Châu, Giao Thủy, Nam Định, còn
khó khăn hơn. Việt Minh cho phá sập cầu Nam Điền nên đồng bào không qua sông
được. Đồng bào tìm mọi phương tiện để qua sông, một số nhảy xuống sông bơi qua,
nhưng bơi không tới, bị chết đuối. Đa số gia đình có đàn bà và trẻ con, không
thể bơi qua sông được nên đành phải quay trở về.
3.- Vụ Trà Lý:
Đêm mồng 5 rạng ngày 6.11.1954, một tiểu hạm của Hải Quân Pháp đang tuần tiểu
ngoài khơi Trà Lý thì được một thuyền đánh cá đến gần và báo tin cho biết có
khoảng 2.000 người đang lâm nguy trên một bãi cát ngoài biển Trà Lý, nếu không
cứu kịp, họ sẽ bị chìm xuống biển. Tiểu hạm này liền báo cho các tàu La
Capricieuse, LMN-9052, LCT-9065 xin đến tiếp cứu. Đến 8 giờ sáng ngày
6.11.1954, Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến cũng đã được thông báo về vụ
này. Đô Đốc Jozzan liền ra lệnh cho các tàu ở Hải Phòng và Đà Nẵng phải đến Trà
Lý cứu những người đang bị nạn.
Theo một sĩ quan của Tàu La Capricieuse kể lại, sáng ngày
6.11.1954, Tàu 151-L9035 vào cứu đầu tiên, với được 900 người được đưa về Hải
Phòng. Tàu LSM-9052 và LCT-9065 cho xuồng máy vào cứu tiếp. Đến 1 giờ sáng ngày
7.11.1954, đã có 1.445 người nữa được vớt đưa lên tàu LCT-9065.
Một số người, nhất là đàn bà và trẻ con, khi vội vàng chen chúc
nhau leo lên xuồng mày đã bị rơi xuống biển. Các thủy thủ đã ném phao theo cho
họ, nhưng họ không biết bơi nên không bám vào được, đã bị chìm luôn.
4.- Vụ Lưu Mỹ:
Ngày 18.12.1954, 189 gia đình thuộc thôn Lưu Mỹ, xã Trù Sơn, huyện An Sơn, tỉnh
Ngệ An, đã đến trụ sở xã nộp đơn xin di cư. Việt Minh coi đây là một tổ chức
phản động nên tìm bắt những người mà họ nghi đã xách động hay lãnh đạo dân
chúng, đó là các ông Phạm Văn Như, Lê Hữu Bằng, Nguyễn Văn Hương, Đinh Thế
Xuyên và Nguyễn Văn Cung. Ông Phan Văn Như trốn về được đã báo cho mọi người
biết. Dân chúng liền kéo nhau đến trụ sở xã yêu cầu thả những người bị bắt,
nhưng họ không thả.
Biết trước thế nào cũng
bị khủng bố, dân Lưu Mỹ đã tổ chức những toán tự vệ để canh phòng. Đêm
7.1.1955, công an đến bắt một số người đem về thẩm vấn rồi đến sáng 8.1.1955
thả ra. Sau đó, Việt Minh đưa bộ đội tới bao vây thôn Lưu Mỹ. Một cuộc xô xát
đã xẩy ra vào lúc 4 giờ sáng ngày 13.1.1955. Có 11 người bị chết và nhiều người
bị thương. Nhiều người đã bị bắt dẫn đi.
5.- Vụ Ba Làng:
Ngày 8.1.1955, tại Ba Làng, huyện Gia Tỉnh, tỉnh Thanh Hòa, có khoảng 20.000
người đã tập trung tại trụ sở xã yêu cầu được cho di cư đúng như điều 14b của
Hiệp Định Genève đã quy định. Việt Minh đã huy động cả một Trung Đoàn đến dẹp.
Một cuộc xô xát đã xẩy ra. Bộ đội nổ súng bắn, có 4 người bị chết và 6 người bị
thương. Sau đó, Việt Minh lập tòa án nhân dân ở làng bên, đem những người tổ
chức và kháng cự ra xét xử. Kết quả 2 người bị tuyên án khổ sai chung thân, 4
người bị án 20 năm và 22 người bị án 12 năm. Khoảng 60 người đã bị bắt đưa đi
mất tích.
6.- Vụ Mậu Lâm:
Theo những người trốn đi di cư kể lại, vào tháng 2 năm 1955 đã xẩy
ra một cuộc xô xát đẩm máu giữa những người đòi đi di cư với bộ đội Việt Cộng
tại xã Mậu Lâm, Phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Khoảng 2000 dân đã rầm rộ kéo nhau
lên đường đi di cư. Việt Cộng liền cho 2 đại đội thuộc Sư Đoàn 304 ra chận lại.
Một cuộc xô xát đã xẩy ra. Có 5 bộ đội bị thương. Bộ đội liền xã súng bắn, có
11 người dân bị chết, nhiều người bị thương và hơn 200 người bị bắt.
7.- Vụ Cửa Lò:
Biết rằng theo Hiệp Định Genèvè, người dân có quyền tự do di cư trong hạn 300
ngày, nhiều người dân Cửa Lò, Nghệ An, đã tìm cách ra đi bằng đường bộ hay
đường biển, nhưng không ai thoát được. Tất cả hoặc bị bắt lại, hoặc bị chết vì
kiệt sức ở trong rừng hay ngoài biển. Cuối cùng, họ đã lập được kế để chạy
thoát. Đêm 1.1.1956, bổng nhiên lửa cháy dữ dội đầu làng. Trong khi công an và
bộ đội đang lo chửa cháy, dân làng vội vàng xuống thuyền ra khơi, bọn công an
không hay biết gì. Đoàn thuyền đi đến trưa hôm sau thì thấy có tàu chiến Pháp
xuất hiện ở ngoài khơi. Họ cột một cái áo trắng lên cây sào và vẩy. Tàu chiến
Pháp biết có người đang kêu cứu, đã cho tàu chạy sát vào các thuyền của họ và
vớt tất cả lên tàu. Đến 2 giờ đêm 2.1.1954, tàu cập bến Hải Phòng. Mọi người
đều sung sướng reo hò, nhưng không ai quên được một em bé 12 tuổi tình nguyện ở
lại đốt làng để cầm chân bọn công an và bộ đội, không biết số phận em sau đó ra
sao.
Tóm lại, tại các xứ Công Giáo, vì việc ra đi có lãnh đạo, có kế
hoạch và có tổ chức, nên số thoát được nhiều hơn. Nhưng nhìn chung, đa số đều
phải ở lại. Một thí dụ cụ thể: Mặc dầu bị kiểm soát rất chặt chẽ, ở xã Xuân
Liên có ba thôn, tại thôn Hạ có 95 gia đình đã thoát đi toàn vẹn, 28 gia đình
bị dang dở. Tại thôn Lạc Thủy, có 124 gia đình trốn thoát được. Tại thôn Liên
Thượng, hơn 30 gia đình đã đi được.
Theo một tài liệu mà nhân viên an ninh lúc đó bắt được, Trung Ương
Đảng Lao Động Việt Nam (sau này đổi thành Đảng CSVN) ước lượng rằng nếu không có biện pháp
ngăn chận, sẽ có khoảng 5 triệu người bỏ miền Bắc ra đi.
Sự kiện này sẽ đưa đến những kết quả tai hại về cả phương diện chính trị lẫn
kinh tế. Vì thế, Trung Ương Đảng đã ra chỉ thị phải tìm cách ngăn chận phong
trào di cư lại.
Để giải thích hiện tượng người người bỏ miền Bắc ra đi này, Việt
Cộng đã nhiều lần tuyên bố rằng đồng bào miền Bắc đã bị “cưởng ép” di cư và
chính phủ Ngô Đình Diệm cũng như người Mỹ đã tuyên truyền rằng “Đức Mẹ đã vào
Nam” để đánh lừa đồng bào công giáo chạy theo. Trò bịp bợm này đã được lặp đi
lặp lại trong nhiều bộ phim tuyên truyền, và cũng được dùng để giải thích tình
trạng hang triệu đồng bào bỏ nước ra đi sau 30.4.1975.
Điều đáng buồn cười là hiện nay luận điệu đó lại được bọn bồi bút
như Bùi Kha của nhóm Giao Điểm,
công cụ tuyên truyền của “Đảng ta” lặp lại trong bài “Ngô Đình Diệm, tại sao ông thất bại?”
đăng trên GiaoDiem.net, tháng 9 năm 2003 hay “Tiến
Sĩ” Lê Cung chép lại một cách trình trọng trong tác phẩm ấu
trỉ mang tên “Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Việt Nam năm 1963”!
NHỮNG
NỖ LỰC CỦA CHÍNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Ngày 6.8.1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã gởi văn thư yêu cầu
chính phủ Hoa Kỳ cung cấp viện trợ để di chuyển khoảng 100.000 người di cư từ
Bắc vào Nam. Trong thư phúc đáp ngày 8.8.1954, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý cung cấp
cho chính phủ Việt Nam những vật dụng cần thiết để di tản đồng bào muốn di cư
ra khỏi vùng sẽ trao lại cho Việt Minh và sẽ hợp tác chặt chẽ với chính phủ
Việt Nam để bảo đảm rằng viện trợ của Hoa Kỳ đáp ứng một cách hữu hiệu nhu cầu
của chính phủ và dân chúng Việt Nam.
Mỗi ngày, các phi cơ của Pháp có thể di tản khoảng 3.400 người từ
Hà Nội và Hải Phòng đến Sài Gòn. Hải Quân Pháp cũng được xử dụng để thực hiện
việc di tản. Tuy nhiên, với những phương tiện sẵn có, Pháp không thể vận chuyển
hết số người di tản trong thời gian ấn định được. Theo lời yêu cầu của chính
phủ Việt Nam, Hoa Kỳ cũng đã đưa tàu tới phụ giúp. Theo sự ước tình, phải di
tản ít nhất 200.000 người ra khỏi Hà Nội và Hải Phòng trước ngày 10.9.1954. Đô
Đốc Felix Stump đã ra lệnh cho các tàu đổ bộ thuộc Hạm Đội Tây Thái Bình Dương
vào Hải Phòng và các cảng ở miền Trung (Đồng Hới) để di tản từ 80.000 đến
100.000 người.
Để hoàn thành cuộc di
tản vĩ đại này:
- Về hàng không, Pháp đã thực hiện 4.280 chuyến bay, vận chuyển
được 213.635 người.
- Về tàu thủy, Pháp thực hiện 338 chuyến và Mỹ 109 chuyến, vận
chuyển được 555.037 người.
Những người di tản bằng phương tiện riêng hay vượt qua sông Bến
Hản thì không kể.
Đầu tháng 8 năm 1954, chính phủ đã thành lập Sở Di Cư
để lo việc tản cư, tiếp cư và định cư. Nhưng về sau, vì phong trào di cư bùng
nổ quá lớn, chính phủ đã phải thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị
Nạn để phụ trách công việc này. Lúc đầu, ông Ngô Ngọc Đối được cử làm
Tổng Ủy Trưởng. Sau đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và ông Ngô Ngọc Đối đã thuyết
phục Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi
đứng ra thành lập “Ủy
Ban Hổ Trợ Di Cư” để yểm trợ Phủ Tổng Ủy Du Cư và Tỵ Nạn về tinh
thần lẫn vật chất. Trong vài trò này, Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi đã đi vận động
các tổ chức quốc tế yểm trợ phong trào di cư của Việt Nam.
Kết quả: Đã
có 860.206 người di cư được đưa vào Nam, chia ra như sau:
- Thiên Chúa Giáo: 677.389 người (Công Giáo: 676.348 người, Tin
Lành: 1.041 người)
- Phật Giáo: 182.817 người
Sau cuộc di cư năm 1954, số giáo dân còn lại ở miền Bắc khoảng
750.000 người với 254 linh mục và 7 Giám Mục, chia làm 10 Giáo Phận. Ngoài ra,
Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Dooley cũng đã ở lại với Giáo Hội miền Bắc.
Các trại định cư đã được lập từ Quảng Trị đến Cà Mau. Có tất cả
315 trại định cư dành cho 508.999 người, chia ra như sau:
- Nam phần: 206 trại với 393.354 người.
- Trung phần: 59 trại với 61.094 người.
- Cao nguyên: 50 trại với 54.551 người.
NHỮNG
TÊN ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG
Sau khi Hiệp Định Genève được ký kết, tỉnh Quảng Bình được trao
cho Việt Minh. Quân đội, công chức và dân chúng khắp nơi trong tỉnh tìm mọi
phương tiện để rời khỏi Quảng Bình. Hai phương tiện được dùng để di cư đồng bào
một cách nhanh chóng là tàu thủy và máy bay.
Lúc đó tôi còn nhỏ, nhưng đã cùng một số anh em tham gia vào toán
tiếp cư do linh mục Georges Neyroud, tuyên úy Quân Đội Pháp thành lập. Ngày
1.8.1954, linh mục cho biết linh mục phải vào gấp Đồng Hà và Đà Nẵng để lo cho
đồng bào mới vào, ông cần mấy người biết tiếng Pháp ở lại tiếp tục đón tiếp các
đồng bào ở xa tới và cấp giấy cho họ đi.
Gia đình chúng tôi đã vào Đà Nẵng hết rồi, nhưng tôi và một số anh
em vẫn còn ở lại lo công việc tiếp cư. Khi nghe linh mục Georges Neyroud hỏi
như trên, tôi, anh Nguyễn Kim Thuyên
và anh Lê Trung Tha
xin tình nguyện ở lại. Thấy chúng tôi còn quá nhỏ, ông hơi do dự, nhưng không
còn ai khác, mọi người đã lo đi càng sớm càng tốt, nên ông đành chấp nhận cho
chúng tôi ở lại và giới thiệu một Trung Úy người Pháp đến làm việc chung với
chúng tôi. Ông ném lại cho chúng tôi hai tạ gạo và một thùng lựu đạn OF. Đó là
lương thực của chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi đem một trái lựu đạn OF ném xuống
sông rồi lặn xuống bắt cá đem lên luộc ăn với cơm. Sông Nhật Lệ quá nhiều cá
nên có khi chúng tôi ăn cá thay cơm.
Công việc của chúng tôi cũng không có gì khó khăn. Chúng tôi tiếp
những người trốn được từ vùng quê hay từ bắc Quảng Bình và Hà Tĩnh vào, lấy lý
lịch của họ ghi vào một tấm thẻ màu đỏ, bắt họ lăn ngón tay cái vào thẻ, rồi
chuyển cho Trung Úy người Pháp để anh này dẫn họ đến một phòng tiếp cư đợi lên
tàu vào Đà Nẵng. Cứ theo lời khai của những người trốn được từ vùng sông Gianh
vào, nếu có sự can thiệp của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, sẽ có hàng
chục ngàn người thuộc hạt Bình Chính như Hướng Phương, Hòa Ninh, Đồng Trác, Gia
Hưng, v.v., và ở Hà Tĩnh sẽ bỏ ra đi. Nhưng chúng tôi chẳng biết làm gì để giúp
đỡ họ.
Trung úy ngườI Pháp đến giúp chúng tôi chưa đến 30 tuổi và rất
tháo vát. Trong những lúc rảnh việc, ông quay về đơn vị mượn dây dù và các dụng
cụ để trục cái chuông lớn từ trên tháp cao của nhà thờ Tam Tòa và cây đàn
Harmonium ở phòng ca đoàn xuống rồi đưa lên tàu. Vì thấy tàu của Pháp còn khá
rộng, ông và chúng tôi tháo các bàn thờ và ghế trong nhà thờ ra và cho xuông
tàu luôn. Các vật dụng này hiện đang được xử dụng tại nhà thờ Tam Tòa ở Đà
Nẵng.
Trong khi chúng tôi lo tiếp những người từ xa đến thì trên đường
phố của thành phố Đồng Hới, Việt Minh tổ chức biểu tình “hoan hô Cách Mạng”
liên tiếp từ ngày này qua ngày khác với thái độ hung hăng, nhưng chúng tôi
chẳng ai lo sợ gì cả!
Sáng 8.8.1954, Trung Úy ngưới Pháp đến báo tin cho chúng tôi biết
phải rời thành phố chiều hôm nay và phải đi bằng đường bộ vượt qua sông Bến
Hải, vì không còn phương tiện tàu thủy hay máy bay nữa. Con đường từ Đồng Hới
đến Bến Hải dài 71 cây số. Cách đây một năm, ba chúng tôi đã dám vượt qua các
bãi mìn, đi bộ từ Bến Hải đến Đống Hới, nên khi được bảo phải đi bằng đường bộ,
chúng tôi không có chút lo ngại nào. Đúng là điếc không sợ súng!
Chiều hôm đó, khi chúng tôi qua khỏi phà Quản Hàu, cách thành phố
Đồng Hới khoảng 3 cây số, quay nhìn lại thì thành phố đang cháy!
Tôi nhớ lại, khi tôi trao tấm thẻ đỏ di cư cho người anh họ của
tôi là anh Nguyễn Thật để lên đường vào Đằ Nẵng, anh ấy đã cúi đầu xuống và thở
dài: “Đi như thế này rồi
cũng mất nữa thôi!” Lời tiên đoán đó đã
đúng 20 năm sau!
Trong ba chúng tôi, anh Lê Trung Tha vừa qua đời, anh Nguyễn Kim
Thuyên đang ở Việt Nam, còn tôi ở Mỹ đã ngồi nghi lại những dòng này.
Ngày 20.7.2018
Lữ Giang
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___
20 tháng7, nhớ lại cuộc di cư vĩ đại 1954
20 tháng7, nhớ lại
cuộc di cư vĩ đại 1954
Lữ
Giang
Cuộc di cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc vào miền Nam năm 1954, sau
khi hiệp định Genève được ký kết, tính dến nay đã 64 năm. Nhưng khi ngồi đọc
lại các tài liệu do nhà cầm quyền CSVN viết, chúng ta khám phá ra có rất nhiều
sự xuyên tạc rất trắng trợn, mặc dầu các tài liệu lịch sử về cuộc chiến Việt
Nam đã được tiết lộ gần hết và các nhân chứng vẫn đang còn hiện diện ở trong và
ngoài nước. Một thí dụ điên hình, trong cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954 – 1975”, Tập II, do Nhà Xuất
Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, xuất bản năm 1996 đã viết rằng sở dĩ nhiều đồng
bào đã bỏ miền Bắc ra đi là vì bị cưỡng ép và số đồng bào công giáo bỏ đi rất
đông là vì họ bị Ngô Đình Diệm và người Mỹ đánh lừa, nói rằng "Chúa đã vào Nam"
hay "Đức bà Mary Đồng Trinh
đã rời khỏi miền Bắc"
hay “Mỹ
sẽ ném bom nguyên tử miền Bắc”, v.v.
Điều đáng tiếc là sự dối trá này đã được một vài sử gia và chính
trị gia Tây phương như Bernard Fall, Chester L. Cooper
(chuyên viên về Á Châu và Đông Dương của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ)... chép lại
nguyên văn, không cần kiểm chứng. Sau đó, tập “Vietnam: Defeat U.S. Imperialism, A
Progressive Labor Party Pamphlet” của Đảng CSVN lại nhai lại cái bã do
chính họ nhả ra!
Để làm sáng tỏ lịch sử, hôm nay nhân kỷ niệm 64 năm di cư khỏi
miền Bắc, chúng tôi xin ghi lại những nét chính về cuộc di cư này, trong đó có
cả những trải nghiệm của bản thân người viết.
ĐỒNG
BÀO THÁO CHẠY KHỎI MIỀN BẮC
Điều 14, đoạn b, của Hiệp Định Genève được ký kết ngày 20.7.1954
quy định:
“Trong
thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển
quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà
muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách của khu trên phải cho
phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy.”
Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21.7.1954, ở đoạn 8 có nói:
“Phải
triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích
bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi
người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sống.”
Lúc đầu, Việt Minh đã cho di cư khá dễ dàng. Người Công Giáo ý
thức rằng không thể có tự do tôn giáo dưới chế độ cộng sản nên đa số quyết tâm
ra đi. Về sau, Việt Minh thấy rằng số người bỏ làng mạc di cư vào Nam ngày càng
đông, sẽ gây ảnh hưởng không tốt về chính trị và làm cho tiềm năng nhân lực và
kinh tế miền Bắc yếu đi nên đã tìm cách ngăn chận.
a)
Phong trào di cư bùng nổ:
Cùng với sự triệt thoái của quân đội Pháp ra khỏi vùng Nam Trung Châu Bắc Việt,
đồng bào thuộc các tỉnh Bùi Chu, Phát Diệm, Ninh Bình, Nam Định và Phủ Lý vội
vàng chạy về Hà Nội. Đồng bào ở Thái Bình theo đường bể ra Hải Phòng. Tiếp
theo, đồng bào ở các vùng quanh Hà Nội như Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc Yên cũng hốt hoảng chạy về Hà Nội. Phong trào di cư đã bùng nổ 3 ngày
trước khi Hiệp Định Genève được ký kết. Ngày 17.7.1954, Pháp phải mở chuyến tàu
đầu tiên chở người di cư đến Sài Gòn.
Phong trào di cư ngày càng lan rộng. Những đồng bào ở Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hòa Bình cũng tìm cách chạy về Hà Nội.
Sau đó, đến lượt đồng bào ở ba tỉnh miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh
ở Liên Khu IV là vùng bị Việt Cộng chiếm đóng và cai trị từ 1945, cũng tìm cách
di cư.
b)
Các cuộc đàn áp đẩm máu: Trước phong trào di cư
ồ ạt này, nhà quyền Cộng Sản đã tìm cách ngăn chận. Các cuộc đàn áp đẩm máu đã
xẩy ra. Sau đây là một vài thí dụ điển hình:
1.- Vụ Cựa Gà:
Công an đã bắt 30 linh mục đứng ra hướng dẫn phong trào di cư. Giáo dân đã phản
đối rất mạnh, công an phải thả ra. Quảng đường từ Bích Câu đến Bùi Chu đầy
nghẹt người. Từ Bùi Chu đến Cựa Gà còn gay cấn hơn. Bọn công an và bộ đội giả
dạng dân chúng chạy ra níu kéo lại. Người di cư phải vật lộn với họ từ 5 giờ
sáng đến 12 giờ trưa mới đến được Cựa Gà. Tại đây, công an lại phong tỏa các đò
ngang không cho qua sông. Họ tập trung đồng bào lại và khuyên không nên
đi. Đến 5 giờ chiều, họ đem xe đến mời đồng bào trở về Hậu Hải. Đồng bào không
chịu lên xe.
2.- Vụ Sa Châu:
Cuộc ra đi của khoảng 3000 đồng bào ở giáo xứ Sa Châu, Giao Thủy, Nam Định, còn
khó khăn hơn. Việt Minh cho phá sập cầu Nam Điền nên đồng bào không qua sông
được. Đồng bào tìm mọi phương tiện để qua sông, một số nhảy xuống sông bơi qua,
nhưng bơi không tới, bị chết đuối. Đa số gia đình có đàn bà và trẻ con, không
thể bơi qua sông được nên đành phải quay trở về.
3.- Vụ Trà Lý:
Đêm mồng 5 rạng ngày 6.11.1954, một tiểu hạm của Hải Quân Pháp đang tuần tiểu
ngoài khơi Trà Lý thì được một thuyền đánh cá đến gần và báo tin cho biết có
khoảng 2.000 người đang lâm nguy trên một bãi cát ngoài biển Trà Lý, nếu không
cứu kịp, họ sẽ bị chìm xuống biển. Tiểu hạm này liền báo cho các tàu La
Capricieuse, LMN-9052, LCT-9065 xin đến tiếp cứu. Đến 8 giờ sáng ngày
6.11.1954, Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến cũng đã được thông báo về vụ
này. Đô Đốc Jozzan liền ra lệnh cho các tàu ở Hải Phòng và Đà Nẵng phải đến Trà
Lý cứu những người đang bị nạn.
Theo một sĩ quan của Tàu La Capricieuse kể lại, sáng ngày
6.11.1954, Tàu 151-L9035 vào cứu đầu tiên, với được 900 người được đưa về Hải
Phòng. Tàu LSM-9052 và LCT-9065 cho xuồng máy vào cứu tiếp. Đến 1 giờ sáng ngày
7.11.1954, đã có 1.445 người nữa được vớt đưa lên tàu LCT-9065.
Một số người, nhất là đàn bà và trẻ con, khi vội vàng chen chúc
nhau leo lên xuồng mày đã bị rơi xuống biển. Các thủy thủ đã ném phao theo cho
họ, nhưng họ không biết bơi nên không bám vào được, đã bị chìm luôn.
4.- Vụ Lưu Mỹ:
Ngày 18.12.1954, 189 gia đình thuộc thôn Lưu Mỹ, xã Trù Sơn, huyện An Sơn, tỉnh
Ngệ An, đã đến trụ sở xã nộp đơn xin di cư. Việt Minh coi đây là một tổ chức
phản động nên tìm bắt những người mà họ nghi đã xách động hay lãnh đạo dân
chúng, đó là các ông Phạm Văn Như, Lê Hữu Bằng, Nguyễn Văn Hương, Đinh Thế
Xuyên và Nguyễn Văn Cung. Ông Phan Văn Như trốn về được đã báo cho mọi người
biết. Dân chúng liền kéo nhau đến trụ sở xã yêu cầu thả những người bị bắt,
nhưng họ không thả.
Biết trước thế nào cũng
bị khủng bố, dân Lưu Mỹ đã tổ chức những toán tự vệ để canh phòng. Đêm
7.1.1955, công an đến bắt một số người đem về thẩm vấn rồi đến sáng 8.1.1955
thả ra. Sau đó, Việt Minh đưa bộ đội tới bao vây thôn Lưu Mỹ. Một cuộc xô xát
đã xẩy ra vào lúc 4 giờ sáng ngày 13.1.1955. Có 11 người bị chết và nhiều người
bị thương. Nhiều người đã bị bắt dẫn đi.
5.- Vụ Ba Làng:
Ngày 8.1.1955, tại Ba Làng, huyện Gia Tỉnh, tỉnh Thanh Hòa, có khoảng 20.000
người đã tập trung tại trụ sở xã yêu cầu được cho di cư đúng như điều 14b của
Hiệp Định Genève đã quy định. Việt Minh đã huy động cả một Trung Đoàn đến dẹp.
Một cuộc xô xát đã xẩy ra. Bộ đội nổ súng bắn, có 4 người bị chết và 6 người bị
thương. Sau đó, Việt Minh lập tòa án nhân dân ở làng bên, đem những người tổ
chức và kháng cự ra xét xử. Kết quả 2 người bị tuyên án khổ sai chung thân, 4
người bị án 20 năm và 22 người bị án 12 năm. Khoảng 60 người đã bị bắt đưa đi
mất tích.
6.- Vụ Mậu Lâm:
Theo những người trốn đi di cư kể lại, vào tháng 2 năm 1955 đã xẩy
ra một cuộc xô xát đẩm máu giữa những người đòi đi di cư với bộ đội Việt Cộng
tại xã Mậu Lâm, Phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Khoảng 2000 dân đã rầm rộ kéo nhau
lên đường đi di cư. Việt Cộng liền cho 2 đại đội thuộc Sư Đoàn 304 ra chận lại.
Một cuộc xô xát đã xẩy ra. Có 5 bộ đội bị thương. Bộ đội liền xã súng bắn, có
11 người dân bị chết, nhiều người bị thương và hơn 200 người bị bắt.
7.- Vụ Cửa Lò:
Biết rằng theo Hiệp Định Genèvè, người dân có quyền tự do di cư trong hạn 300
ngày, nhiều người dân Cửa Lò, Nghệ An, đã tìm cách ra đi bằng đường bộ hay
đường biển, nhưng không ai thoát được. Tất cả hoặc bị bắt lại, hoặc bị chết vì
kiệt sức ở trong rừng hay ngoài biển. Cuối cùng, họ đã lập được kế để chạy
thoát. Đêm 1.1.1956, bổng nhiên lửa cháy dữ dội đầu làng. Trong khi công an và
bộ đội đang lo chửa cháy, dân làng vội vàng xuống thuyền ra khơi, bọn công an
không hay biết gì. Đoàn thuyền đi đến trưa hôm sau thì thấy có tàu chiến Pháp
xuất hiện ở ngoài khơi. Họ cột một cái áo trắng lên cây sào và vẩy. Tàu chiến
Pháp biết có người đang kêu cứu, đã cho tàu chạy sát vào các thuyền của họ và
vớt tất cả lên tàu. Đến 2 giờ đêm 2.1.1954, tàu cập bến Hải Phòng. Mọi người
đều sung sướng reo hò, nhưng không ai quên được một em bé 12 tuổi tình nguyện ở
lại đốt làng để cầm chân bọn công an và bộ đội, không biết số phận em sau đó ra
sao.
Tóm lại, tại các xứ Công Giáo, vì việc ra đi có lãnh đạo, có kế
hoạch và có tổ chức, nên số thoát được nhiều hơn. Nhưng nhìn chung, đa số đều
phải ở lại. Một thí dụ cụ thể: Mặc dầu bị kiểm soát rất chặt chẽ, ở xã Xuân
Liên có ba thôn, tại thôn Hạ có 95 gia đình đã thoát đi toàn vẹn, 28 gia đình
bị dang dở. Tại thôn Lạc Thủy, có 124 gia đình trốn thoát được. Tại thôn Liên
Thượng, hơn 30 gia đình đã đi được.
Theo một tài liệu mà nhân viên an ninh lúc đó bắt được, Trung Ương
Đảng Lao Động Việt Nam (sau này đổi thành Đảng CSVN) ước lượng rằng nếu không có biện pháp
ngăn chận, sẽ có khoảng 5 triệu người bỏ miền Bắc ra đi.
Sự kiện này sẽ đưa đến những kết quả tai hại về cả phương diện chính trị lẫn
kinh tế. Vì thế, Trung Ương Đảng đã ra chỉ thị phải tìm cách ngăn chận phong
trào di cư lại.
Để giải thích hiện tượng người người bỏ miền Bắc ra đi này, Việt
Cộng đã nhiều lần tuyên bố rằng đồng bào miền Bắc đã bị “cưởng ép” di cư và
chính phủ Ngô Đình Diệm cũng như người Mỹ đã tuyên truyền rằng “Đức Mẹ đã vào
Nam” để đánh lừa đồng bào công giáo chạy theo. Trò bịp bợm này đã được lặp đi
lặp lại trong nhiều bộ phim tuyên truyền, và cũng được dùng để giải thích tình
trạng hang triệu đồng bào bỏ nước ra đi sau 30.4.1975.
Điều đáng buồn cười là hiện nay luận điệu đó lại được bọn bồi bút
như Bùi Kha của nhóm Giao Điểm,
công cụ tuyên truyền của “Đảng ta” lặp lại trong bài “Ngô Đình Diệm, tại sao ông thất bại?”
đăng trên GiaoDiem.net, tháng 9 năm 2003 hay “Tiến
Sĩ” Lê Cung chép lại một cách trình trọng trong tác phẩm ấu
trỉ mang tên “Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Việt Nam năm 1963”!
NHỮNG
NỖ LỰC CỦA CHÍNH PHỦ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Ngày 6.8.1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã gởi văn thư yêu cầu
chính phủ Hoa Kỳ cung cấp viện trợ để di chuyển khoảng 100.000 người di cư từ
Bắc vào Nam. Trong thư phúc đáp ngày 8.8.1954, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý cung cấp
cho chính phủ Việt Nam những vật dụng cần thiết để di tản đồng bào muốn di cư
ra khỏi vùng sẽ trao lại cho Việt Minh và sẽ hợp tác chặt chẽ với chính phủ
Việt Nam để bảo đảm rằng viện trợ của Hoa Kỳ đáp ứng một cách hữu hiệu nhu cầu
của chính phủ và dân chúng Việt Nam.
Mỗi ngày, các phi cơ của Pháp có thể di tản khoảng 3.400 người từ
Hà Nội và Hải Phòng đến Sài Gòn. Hải Quân Pháp cũng được xử dụng để thực hiện
việc di tản. Tuy nhiên, với những phương tiện sẵn có, Pháp không thể vận chuyển
hết số người di tản trong thời gian ấn định được. Theo lời yêu cầu của chính
phủ Việt Nam, Hoa Kỳ cũng đã đưa tàu tới phụ giúp. Theo sự ước tình, phải di
tản ít nhất 200.000 người ra khỏi Hà Nội và Hải Phòng trước ngày 10.9.1954. Đô
Đốc Felix Stump đã ra lệnh cho các tàu đổ bộ thuộc Hạm Đội Tây Thái Bình Dương
vào Hải Phòng và các cảng ở miền Trung (Đồng Hới) để di tản từ 80.000 đến
100.000 người.
Để hoàn thành cuộc di
tản vĩ đại này:
- Về hàng không, Pháp đã thực hiện 4.280 chuyến bay, vận chuyển
được 213.635 người.
- Về tàu thủy, Pháp thực hiện 338 chuyến và Mỹ 109 chuyến, vận
chuyển được 555.037 người.
Những người di tản bằng phương tiện riêng hay vượt qua sông Bến
Hản thì không kể.
Đầu tháng 8 năm 1954, chính phủ đã thành lập Sở Di Cư
để lo việc tản cư, tiếp cư và định cư. Nhưng về sau, vì phong trào di cư bùng
nổ quá lớn, chính phủ đã phải thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị
Nạn để phụ trách công việc này. Lúc đầu, ông Ngô Ngọc Đối được cử làm
Tổng Ủy Trưởng. Sau đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và ông Ngô Ngọc Đối đã thuyết
phục Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi
đứng ra thành lập “Ủy
Ban Hổ Trợ Di Cư” để yểm trợ Phủ Tổng Ủy Du Cư và Tỵ Nạn về tinh
thần lẫn vật chất. Trong vài trò này, Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi đã đi vận động
các tổ chức quốc tế yểm trợ phong trào di cư của Việt Nam.
Kết quả: Đã
có 860.206 người di cư được đưa vào Nam, chia ra như sau:
- Thiên Chúa Giáo: 677.389 người (Công Giáo: 676.348 người, Tin
Lành: 1.041 người)
- Phật Giáo: 182.817 người
Sau cuộc di cư năm 1954, số giáo dân còn lại ở miền Bắc khoảng
750.000 người với 254 linh mục và 7 Giám Mục, chia làm 10 Giáo Phận. Ngoài ra,
Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Dooley cũng đã ở lại với Giáo Hội miền Bắc.
Các trại định cư đã được lập từ Quảng Trị đến Cà Mau. Có tất cả
315 trại định cư dành cho 508.999 người, chia ra như sau:
- Nam phần: 206 trại với 393.354 người.
- Trung phần: 59 trại với 61.094 người.
- Cao nguyên: 50 trại với 54.551 người.
NHỮNG
TÊN ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG
Sau khi Hiệp Định Genève được ký kết, tỉnh Quảng Bình được trao
cho Việt Minh. Quân đội, công chức và dân chúng khắp nơi trong tỉnh tìm mọi
phương tiện để rời khỏi Quảng Bình. Hai phương tiện được dùng để di cư đồng bào
một cách nhanh chóng là tàu thủy và máy bay.
Lúc đó tôi còn nhỏ, nhưng đã cùng một số anh em tham gia vào toán
tiếp cư do linh mục Georges Neyroud, tuyên úy Quân Đội Pháp thành lập. Ngày
1.8.1954, linh mục cho biết linh mục phải vào gấp Đồng Hà và Đà Nẵng để lo cho
đồng bào mới vào, ông cần mấy người biết tiếng Pháp ở lại tiếp tục đón tiếp các
đồng bào ở xa tới và cấp giấy cho họ đi.
Gia đình chúng tôi đã vào Đà Nẵng hết rồi, nhưng tôi và một số anh
em vẫn còn ở lại lo công việc tiếp cư. Khi nghe linh mục Georges Neyroud hỏi
như trên, tôi, anh Nguyễn Kim Thuyên
và anh Lê Trung Tha
xin tình nguyện ở lại. Thấy chúng tôi còn quá nhỏ, ông hơi do dự, nhưng không
còn ai khác, mọi người đã lo đi càng sớm càng tốt, nên ông đành chấp nhận cho
chúng tôi ở lại và giới thiệu một Trung Úy người Pháp đến làm việc chung với
chúng tôi. Ông ném lại cho chúng tôi hai tạ gạo và một thùng lựu đạn OF. Đó là
lương thực của chúng tôi. Mỗi ngày chúng tôi đem một trái lựu đạn OF ném xuống
sông rồi lặn xuống bắt cá đem lên luộc ăn với cơm. Sông Nhật Lệ quá nhiều cá
nên có khi chúng tôi ăn cá thay cơm.
Công việc của chúng tôi cũng không có gì khó khăn. Chúng tôi tiếp
những người trốn được từ vùng quê hay từ bắc Quảng Bình và Hà Tĩnh vào, lấy lý
lịch của họ ghi vào một tấm thẻ màu đỏ, bắt họ lăn ngón tay cái vào thẻ, rồi
chuyển cho Trung Úy người Pháp để anh này dẫn họ đến một phòng tiếp cư đợi lên
tàu vào Đà Nẵng. Cứ theo lời khai của những người trốn được từ vùng sông Gianh
vào, nếu có sự can thiệp của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, sẽ có hàng
chục ngàn người thuộc hạt Bình Chính như Hướng Phương, Hòa Ninh, Đồng Trác, Gia
Hưng, v.v., và ở Hà Tĩnh sẽ bỏ ra đi. Nhưng chúng tôi chẳng biết làm gì để giúp
đỡ họ.
Trung úy ngườI Pháp đến giúp chúng tôi chưa đến 30 tuổi và rất
tháo vát. Trong những lúc rảnh việc, ông quay về đơn vị mượn dây dù và các dụng
cụ để trục cái chuông lớn từ trên tháp cao của nhà thờ Tam Tòa và cây đàn
Harmonium ở phòng ca đoàn xuống rồi đưa lên tàu. Vì thấy tàu của Pháp còn khá
rộng, ông và chúng tôi tháo các bàn thờ và ghế trong nhà thờ ra và cho xuông
tàu luôn. Các vật dụng này hiện đang được xử dụng tại nhà thờ Tam Tòa ở Đà
Nẵng.
Trong khi chúng tôi lo tiếp những người từ xa đến thì trên đường
phố của thành phố Đồng Hới, Việt Minh tổ chức biểu tình “hoan hô Cách Mạng”
liên tiếp từ ngày này qua ngày khác với thái độ hung hăng, nhưng chúng tôi
chẳng ai lo sợ gì cả!
Sáng 8.8.1954, Trung Úy ngưới Pháp đến báo tin cho chúng tôi biết
phải rời thành phố chiều hôm nay và phải đi bằng đường bộ vượt qua sông Bến
Hải, vì không còn phương tiện tàu thủy hay máy bay nữa. Con đường từ Đồng Hới
đến Bến Hải dài 71 cây số. Cách đây một năm, ba chúng tôi đã dám vượt qua các
bãi mìn, đi bộ từ Bến Hải đến Đống Hới, nên khi được bảo phải đi bằng đường bộ,
chúng tôi không có chút lo ngại nào. Đúng là điếc không sợ súng!
Chiều hôm đó, khi chúng tôi qua khỏi phà Quản Hàu, cách thành phố
Đồng Hới khoảng 3 cây số, quay nhìn lại thì thành phố đang cháy!
Tôi nhớ lại, khi tôi trao tấm thẻ đỏ di cư cho người anh họ của
tôi là anh Nguyễn Thật để lên đường vào Đằ Nẵng, anh ấy đã cúi đầu xuống và thở
dài: “Đi như thế này rồi
cũng mất nữa thôi!” Lời tiên đoán đó đã
đúng 20 năm sau!
Trong ba chúng tôi, anh Lê Trung Tha vừa qua đời, anh Nguyễn Kim
Thuyên đang ở Việt Nam, còn tôi ở Mỹ đã ngồi nghi lại những dòng này.
Ngày 20.7.2018
Lữ Giang
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___
Wednesday, June 20, 2018
Tuesday, June 19, 2018
Subscribe to:
Posts (Atom)
Featured Post
Popular Posts
-
CXN_120612_1976_Sau Tết 2013, bọn UBGSTCQG sẽ liếm lại bãi đờm chúng vừa nhổ ra ngày hôm nay: Kinh tế Việt Nam được nhận định đã thoát đ...
-
Chân Dung & Chân Tướng Tưởng Năng Tiến - Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự...
-
Đăng ngày 21-09-2014 Sửa đổi ngày 21-09-2014 13:20 Sinh viên Hồng Kông nghỉ học để biểu tình chống Trung Quốc Thanh Hà Học sin...
-
Vụ Đặng Chí Hùng bị bắt và tình hình thực tế trong tù IDC của Thái Lan Hai viên chức an ninh CSVN mang thẻ đỏ (qua đ...
Popular Posts
-
Vaclav Havel - Chờ Tự Do Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch - Lời người dịch: Tên vở kịch nổi tiếng nhất của nhà viết ...
-
Phát biểu của Tổng thống Obama tại Đại học YANGON Ngườ...
-
Duoi day la 33 truyen ngan cua Tieu Tu ma mot so truyen qui vi da doc qua that tham thia.Xin chia se voi qui vi.Thiet nghi nhung vi nao chu...
-
PHILIPPINES - TRUNG QUỐC - Bài đăng : Thứ tư 20 Tháng Hai 2013 - Sửa đổi lần cuối Thứ t...
-
CHIỆT ĐƯỜNG THU, KẸP NGẢ CHI ĂN CẮP Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế Geneva, 29.11.2012 W...
-
On Thursday, May 11, 2017 4:31 PM, Ông Sư này tên là Vĩnh Tánh, (thuộc giòng họ ông Vĩnh Thụy tức Bảo Đại) trước đây tu ở Chùa Thiên Đồ...
-
Lão Th ầ y B ó i Gi à Đ inh V ũ Ho à ng Nguy ê n Trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam chưa khi nào có một tác giả chưa từng có...
-
Xin mời Quý Vị, Quý NT và CH.... Xem phim đặc biệt của Pháp... Việt Nam 30 ngày trước và sau khi Saigon lọt vào tay cộng sản Bắc Việt...
LISA PHẠM - Khai Dân Trí Số https://www.youtube.com/results?search_query=LISA+PH%E1%BA%A0M+-+Khai+D%C3%A2n+Tr%C3%AD+S%E1%BB%91+
Popular Posts
-
Danh Mục Audio Truyện Nghe Trực Tiếp (online) Không Donwload Chân Thành Cảm Ơn Chú8 Hà, Đông Hà, Trái Táo, Yên Như, Biển Và Em, Mai Vân ...
-
From: Mai G. Pham < Subject: Sự thật về ác tăng thích Thích Chân Quang Date: Tuesday, April 23, 2013, 3:17 AM Giới thiệu ph...
-
Cái chết của Cha ruột Nguyễn Tấn Dũng , Tướng Nguyễn Chí Thanh Hy vọng anh ba Dũng chăn Vịt ở Kiên Giang sẻ trả thù cho cha mình vì bị ...
-
Đỗ Mười kết luận phải khai trừ ông Giáp Vào cuối thâp kỷ 60, trước và sau khi ông Hồ chết, nội bộ ĐCSVN xảy ra “Vụ Án Xét L...
-
Vaclav Havel - Chờ Tự Do Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch - Lời người dịch: Tên vở kịch nổi tiếng nhất của nhà viết ...
-
Phát biểu của Tổng thống Obama tại Đại học YANGON Ngườ...
-
Duoi day la 33 truyen ngan cua Tieu Tu ma mot so truyen qui vi da doc qua that tham thia.Xin chia se voi qui vi.Thiet nghi nhung vi nao chu...
-
bon. VN chung' ta la` da^n dden nen khong lo bi. ai chui vao` computer phanh phui: - co' bao nhieu nha` - co' ...
-
[ Attachment(s) from Can Bui included below] Thưa quí vị trên DD, Đọc email của ô. Phách gửi cho ô. Ngô Kỳ, tôi thấy nhữn...
-
Subject: Fw: Nhung Tien Doan 2012 http://multiply.com/m/item/vulep:journal:955 http://multiply.com/m/item/vulep:journal:955 ...
My Link
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
https://www.facebook.com/reel/802490438523735 - https://www.facebook.com/reel/8024904385237356 months ago
-
-
-
BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP - https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa rpedn...2 years ago
-
-
-
Cách tự kiểm tra xem mình có nhiễm virus COVID-19 không (?) - NT2K4FL Nếu không muốn nhận Email này Xin cho biết để chấm rứt.Cám ơn * Please delete my address before sending this document out. * On ...4 years ago
-
Diễn hành Tết Canh Tý trên đại lộ Bolsa, Little Saigon - ---------- Forwarded message --------- From: *Le Hiep* Date: Mon, Jan 27, 2020 at 8:26 PM Subject: Fw: Diễn hành Tết Canh Tý trên đại lộ Bolsa, Little Sai...4 years ago
-
Thuc phẩm được cảnh báo là chất gây ung thư, ăn càng ít càng tốt - ( Cảm ơn bạn đã chuyển . Có vài ý kiến thô thiển : 1 - những thức ăn quá hạn ( out of date ) dù còn dùng được , cũng nên liệng bỏ . Đừng t...5 years ago
-
-