Đánh tư sản
Tú Hoa
Sài Gòn xưa
I. ĐÁNH TƯ SẢN
ĐÁNH TƯ SẢN cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang
hàng sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Sự kiện ĐÁNH TƯ SẢN thể hiện quyết tâm cướp bóc thẳng tay của Cộng Sản Hà Nội
trực tiếp lên đầu lên cổ người dân miền Nam Việt Nam.
Đặc biệt, Cộng Sản Hà Nội ban hành Quyết Định mang số 111/CP vào
ngày tháng 4 năm 1977 do Phạm Hùng ký chỉ đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà
cửa đất đai của nhân dân miền Nam một cách công khai trắng trợn đại trà như
Phát Xít Đức đã từng thi hành đối với các công dân Đức gốc Do Thái vào năm
1939.
Các đợt ĐÁNH TƯ SẢN cướp bóc người dân miền Nam được Cộng Sản Hà
Nội cho ký số X1, X2 và X3.
Đợt cướp X1 được bắt đầu vào sáng ngày 11 tháng Chín năm 1975 xảy
ra khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đợt cướp này chủ yếu nhắm
vào nhà của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng bức toàn bộ những nạn
nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống đói khổ như Phát Xít Đức đã từng làm khi
tống cổ người Đức góc Do Thái vào trại tập trung.
Đợt cướp X1 này, những người dân Việt gốc Hoa vốn đã di dân vào
miền Nam Việt Nam từ cuối triều Minh, đầu triều nhà Thanh, sanh sống thanh công
tại miền Nam ngót nghét hơn 200 năm. Máu và nước mắt, oán hờn ngút trời cho một
vùng đất hiền lành này phải chịu oan thiên tan nát.
Đợt cướp X2 được Cộng Sản Hà Nội tiến hành từ tháng Ba năm 1978 và
được kéo dài cho đến sau Đổi Mới, tức là khoảng năm 1990 thì mới chấm dứt. Đợt
cướp này chủ yếu nhắm vào tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất nhỏ
vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa khuyến khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.
Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ sài gia dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn
toàn chính thức bị phá hũy. Người dân Việt Nam sẽ không còn thấy các sản phẫm
tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây Dừa , xà-bông (savon) hiệu cô Ba,
xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí Nguyễn Văn Mạnh, …etc…. Không những thế,
các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẫm như đường, bột giặt, giấy, …etc cũng bị
tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa và bị đẩy đi vào tù.
Riêng tại Sài Gòn, thì báo Tuổi Trẻ đã phải thừa nhận vuốt đuôi là
đã có trên 10000 tiệm bán bị đóng chỉ qua một đêm, khiến một viên thuốc trụ
sinh cũng không có mà mua, mà dùng. Nhà sách Khai Trí lừng lẫy, biểu tượng của
cả Sài Gòn cũng bị báo đài tại Sài Gòn lúc bấy giờ rêu rao là tư bản chó đẻ và
cần phải tịch thu. Nhà sách Khai Trí đã từ tâm giúp đỡ biết bao văn nghệ sĩ của
miền Nam, âm thầm thực hiện đường lối khai dân trí của cụ Phan Chu Trinh cho
dân tộc mà nay cũng bị cướp không từ bởi Cộng Sản.
Riêng về chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị Cộng Sản Hà Nội vào tháng Năm
năm 1978 đã quốc hữu hóa toàn bộ đát đai của nông dân miền Nam vào tay nhà nước
thông qua hình thức “Tập Đoàn Sản Xuất” dẫn đến nạn đói năm 1979 ngay liền sau
đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm toàn diện tại miền Nam.
Tình trạng cướp bóc của Đảng Cộng Sản Hà nội ở nông thôn miền Nam
càng kinh khiếp và dữ dội hơn ở Sài Gòn dù không ồn ào bằng.
Tổng số lúa mà nông dân miền Nam Đảng Cộng Sản Hà Nội bị cướp đoạt
để chở ra ngoài Bắc không thông qua quy chế thu mua được loan truyền là khoảng
4 triệu tấn gạo vào đầu năm 1978 trên đài phát thanh Hà Nội khi ca ngợi thành
tích ĐÁNH TƯ SẢN của các đảng bộ địa phương miền Nam. Đương nhiên, con số chính
thức được các nông dân kêu ca là lớn hơn nhiều.
Sang đến năm 1979, Võ Văn Kiệt đã phải phỉnh lừa, làm bộ giả nhân giả nghĩa
loan báo thu mua lúa từ nông dân với giá cao gấp cả ngàn lần giá quy định của Nhà
Nước (!) để cứu vãn tình thế bất mãn không còn dằn được nữa từ nông dân miền
Nam trước những đợt cướp lúa từ năm 1977 trở đi.
Song song với chiến dịch X2 là chiến dịch X3 đặc biệt tập trung
tại Sài Gòn với một âm mưu kín đáo từ Bộ Chính Trị là trục xuất toàn bộ người
Sài Gòn củ ra khỏi nơi ở để “Bắc Kỳ hóa” thành phố Sài Gòn. Sau chiến dịch X3,
hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sanh sống trong những ngôi
nhà bị tịch thu. Theo thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn
đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9
năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150 ngàn người thuộc gia đình cán bộ gốc miền
Bắc vào Sài Gòn sanh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.
Đỗ Mười, sau này là Tổng Bí Thư Đảng, lúc bấy giờ thay thế ông
Nguyễn Văn Linh làm trưởng ban cải tạo TW Vào ngày 16 tháng Hai năm 1976 là
người chỉ huy trực tiếp cuộc cướp bóc này lên đầu lên cổ người dân Sài Gòn.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết tài
sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng SÁU TRĂM NGÀN NGƯỜI, tạo ra một sự
hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều
đại. Cuối đợt X3 , ghi nhận của Cộng Sản Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài
Gòn bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là một triệu
hai người!
Sức mạnh kinh tế Sài Gòn tự nhiên bị phá hoại đi đến kiết quệ hoàn
toàn sau chiến dịch X3 do Đổ Mười trực tiếp chỉ huy. Hơn 14 NGÀN cơ sở tiểu thủ
công nghiệp tại Sài Gòn rất cần cho nền kinh tế quốc dân, với khoảng 270 ngàn
nhân công hoàn toàn bị cướp trắng, đóng cửa với tổng số thiệt hại tài sản trước
mắt lên đế gần chín đến hai mươi mốt tỷ Mỹ kim và tiến trình phát triển công
nghệ của đất nước trong tự cường hoàn toàn KHÔNG CÒN HY VỌNG để phục hồi.
Riêng về tổng số vàng, nữ trang mà Cộng Sản Hà Nội thẳng tay cướp
bÓc người dân miền Nam được các báo đài của Đảng thừa nhận lên đến 4000 lượng
vàng- nhưng đây chỉ là con số tượng trựng tính riêng ở Sài Gòn từ tháng Năm năm
1977 qua tháng Hai năm 1978 mà thôi. Cộng Sản Hà Nội đã cướp cả thảy trên dưới
gần 35 ngàn lượng vàng, tính luôn cả nử trang và kim cương trong những đợt ĐÁNH
TƯ SẢN cướp bóc thẳng tay lên lên đầu lên cổ nhân dân miền Nam.
Xin được ghi chú thêm là chỉ nội vụ lừa đảo mà Đảng Cộng Sản Hà
Nội tiến hành cho phép người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức nếu đóng khoảng
120 lượng vàng đã góp vào gần 10 ngàn lượng vàng tổng cộng.
Trung bình , mổi người dân miền Nam nằm trong đối tượng bị ĐÁNH TƯ
SẢN mất trắng khoảng 9 lượng vàng không tính đất đai , nhà cửa , phụ tùng thiết
bị , đồ cổ , và các tài sản khác. Trữ lượng vàng của toàn bộ người dân miền Nam
có thể lên đến 250 ngàn lượng vàng tính đến năm 1975 nhưng Cộng Sản đã không
thể cướp sạch nổi do đồng bào khôn khéo giấu đi và phản kháng cũng như đem theo
khi di tản.
II. KINH TẾ MỚI:
Tất cả những ai tại Sài Gòn bị đảng Cộng Sản Hà Nội cướp nhà ,
tịch thu tài sản điều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ sở hạ
tầng cho sanh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và
bệnh Xá. HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về
những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở , của
cải , đồ đạc cho Đảng Cộng Sản quản lý.
Những người bị cướp bóc, tịch thu nhà và sau đó dồn lên vùng kinh
tế mới
Chỉ tiêu đề ra là phải đưa cưỡng bức khoảng gần một triệu người
Sài Gòn ra các Vùng KINH TẾ MỚI và buộc họ phải bỏ hết tài sản nhà cửa lại cho
Đảng Cộng Sản Hà Nội quản lý. Tổng kết từ các báo cáo thành tích cải tạo XHCN
của Đảng, số người bị cưỡng bức đi Kinh Tế Mới từ Sài Gòn qua mười năm Quá Độ-
ĐÁNH TƯ SẢN như sau:
THỜI KỲ
|
CHỈ TIÊU
|
KẾT QUẢ THỰC HIỆN
|
GHI CHÚ
|
1976- 1979
|
4 triệu người
|
1,5 triệu người
|
95% là từ Sài Gòn
|
1979-1984
|
1 triệu người
|
1,3 triệu người
|
50% là từ Sài Gòn
|
Khi đến vùng KINH TẾ MỚI để sống tham gia các tập đoàn sản xuất
hay còn gọi tắt là Hợp Tác Xã, “thành quả lao động” của các nạn nhân này được
phân phối chia ra như sau:
30% trả thuế
25% góp cho chính phủ theo giá thu mua của nhà nước;
15% trả lương cho cán bộ quản lý ;
30% còn lại chia cho các thành viên tính theo số điểm thuế lao
động
Như vậy là sản phẩm nông nghiệp từ các nông trường vùng Kinh tế
Mới đã bị Đảng tịch thu hết 70 % và chỉ còn 30% là chia lại cho các thành viên,
vốn là các nạn nhân bị tịch thu nhà cửa các nạn nhân sống trong vùng Kinh Tế
Mới.
Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói kém
trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của chế độ Cộng Sản Hà Nội đối với những
bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư
sản.
Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các vùng
Kinh Tế Mới này. Nhân dân miền Nam- cả triệu người đang sống sung túc bổng lao
vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi
nhà trước thảm cảnh cướp bóc này của Cộng Sản Hà Nội.
Hàng vạn người dân Sài Gòn đã phải bỏ trốn khỏi các vùng Kinh Tế
Mới, đi ăn xin trên đường Về Sài Gòn, đói rách khổ sở. Đây là thời kỳ khốn khổ
bi đát nhất trong lịch sử phát triển Sài Gòn.
III. Nguyên văn toàn bộ Quyết Định 111/CP của Cộng Sản Hà Nội trong
quyết tâm cướp bóc tài sản người dân miền Nam Việt Nam
Quyết định 111/CP của Cộng Sản Hà Nội là một tài liệu chứng quan
trọng đối với sử học cho tội ác cướp bóc của Cộng Sản đối với nhân dân miền Nam
Việt Nam.
Quyết định này là nguồn gốc của mọi khổ đau, nghèo khó của người
dân miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 và là lý do Việt Nam bị tụt
hậu về mọi mặt , đứng hàng thứ ba nghèo nhất thế giới theo tuyên bố của Liên
Hiệp Quốc vào năm 1985.
Sau đây là nguyên bản của quyết định:
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Số: 111/CP
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 1977
QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ 111/CP NGÀY 14 THÁNG 4 NĂM 1977
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHÍNH
SÁCH QUẢN LÝ VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT
CHO THUÊ Ở CÁC ĐÔ THỊ
CỦA CÁC TỈNH PHÍA NAM
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Tiếp theo bản tuyên bố của Chính phủ về chính sách đối với công
thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam hiện nay;
Để tăng cường quản lý nhà
đất và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân ở
các tỉnh phía Nam;
Theo đề nghị của đồng chí
Bộ trưởng Bộ Xây dựng và của đồng chí Trưởng Ban Cải tạo Công thương nghiệp tư
doanh Trung ương trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 25/2/1977;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1.- Nay ban hành kèm theo quyết định này bản chính sách quản
lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà đất cho thuê ở các đô thị các tỉnh
phía Nam.
Điều 2.- Các đồng chí Thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các đồng chí chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương ở phía Nam có trách nhiệm thi hành quyết định này, các
đồng chí Bộ trưởng các Bộ Xây dựng, Nội vụ, Ngoại giao và các đồng chí Trưởng
ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương có trách nhiệm hướng dẫn các
ngành, các cấp thi hành quyết định này, tuỳ theo chức năng quản lý và những vấn
đề có liên quan đến ngành mình.
CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT
CHO THUÊ Ở CÁC ĐÔ THỊ CÁC
TỈNH PHÍA NAM
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
Việc quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê
ở các đô thị, các tỉnh phía Nam cần đạt được mục đích, yêu cầu sau đây:
- Xoá bỏ kinh doanh bóc lột về nhà đất; thực hiện thống nhất quản
lý của Nhà nước về nhà đất ở đô thị.
- Cải tạo đến đâu, quản lý tốt đến đó, đồng thời tiến hành quy
hoạch, bố trí, sắp xếp điều chỉnh lại những khu vực sản xuất, khu vực hành
chính, sự nghiệp, khu vực ở và các cơ sở phúc lợi công cộng… sao cho công bằng;
hợp lý và có lợi nhất, trên tinh thần tận dụng cơ sở sẵn có, kết hợp với xây
dựng mới; từng bước giải quyết chỗ làm việc cho cơ quan Nhà nước và chỗ ở cho
công nhân, nhân viên và nhân dân lao động chưa có chỗ ở hoặc ở quá chật, cải
thiện từng bước điều kiện nhà ở của nhân dân góp phần ổn định và phát triển sản
xuất.
- Tăng cường việc bảo quản, sửa chữa nhà cửa và từng bước cải tạo
và xây dựng thành thị theo hướng xã hội chủ nghĩa.
I. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHÀ ĐẤT,
CHO THUÊ:
1. Nhà nước quốc hữu hoá toàn bộ nhà cho thuê, không kể diện tích
cho thuê nhiều hay ít của tư sản mại bản, của địa chủ, của tư sản gian thương
lớn, của những người phạm tội nặng về chính trị và kinh tế của các tổ chức phản
động.
2. Nhà nước trực tiếp quản lý toàn bộ nhà cho thuê của các chủ là
cá nhân, công ty, đoàn hội, tôn giáo v.v… trừ trường hợp nhân dân lao động có
ít diện tích cho nhau thuê để ở hoặc cho ở nhờ.
Tuỳ theo chất lượng, công
dụng của từng ngôi nhà, tuỳ theo diện tích cho thuê nhiều hay ít, tuỳ theo thu
nhập của chủ nhà cao hay thấp, Nhà nước để cho những chủ nhà là cá nhân được hưởng
một phần tiền thuê nhà. Phần chủ nhà được hưởng sẽ do Bộ Xây dựng quy định cụ
thể, nhiều nhất không quá 25% tiền thuê nhà.
Riêng đối với những chủ nhà là cá nhân có ít nhà cho thuê để ở,
diện tích cho thuê dưới 150 m2 ở các tỉnh, dưới 200 m2 ở thành phố Hồ Chí Minh,
hoặc thu tiền cho thuê nhà (không kể tiền đặt cọc) hàng năm dưới 600 đồng ở các
tỉnh và 800 đồng ở thành phố Hồ Chí Minh thì trước mắt chủ nhà vẫn được tạm
thời cho thuê nhưng phải chấp hành đầy đủ những quy định thống nhất về đăng ký,
hợp đồng giá cho thuê, điều lệ bảo quản sửa chữa, quyền lưu trú của người thuê.
3. Nhà nước trực tiếp quản lý tất cả các biệt thự cho thuê (không
kể diện tích nhiều hay ít) và toàn bộ diện tích nhà cho thuê không phải để ở mà
để làm cửa hàng, bệnh viện, trường học (không kể diện tích cho thuê nhiều hay
ít). Nhà nước trực tiếp quản lý tất cả các cư xá công và tư, không kể là cư xá
cho thuê hay ở không mất tiền. Đối với những căn hộ mà người ở đã mua đứt và có
giấy tờ hợp lệ thì coi như của riêng, nếu không phải là đối tượng bị tịch thu
trưng thu thì người đã mua nhà được Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu.
4. Đối với thần sĩ trí thức, gia đình có công với cách mạng có nhà
cho thuê thì vận động họ hiến. Công nhân, viên chức Nhà nước và Đảng viên có
nhà cho thuê hoặc đang quản lý nhà cho thuê thì giao những nhà đó cho Nhà nước
quản lý.
5. Những chủ có nhà cho thuê mà không có chỗ ở được giữ lại một
diện tích để ở tương đương với bình quân diện tích chung ngoài xã hội hoặc có
thể rộng hơn một ít tuỳ theo cấu trúc của ngôi nhà.
6. Nhà nước trực tiếp quản lý toàn bộ đất cho thuê không phân biệt
diện tích nhiều hay ít và nói chung không bồi hoàn, trừ trường hợp đặc biệt.
7. Người đang thuê đất được phép sử dụng mà không được mua bán,
chuyển dịch và phải tuân theo những quy định về quản lý nhà đất ở đô thị.
II. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT VẮNG CHỦ
1. Tất cả những nhà, đất và tài sản vắng chủ của người Việt nam và
ngoại kiều đều do Nhà nước trực tiếp quản lý. Khi người chủ về, Nhà nước sẽ
giải quyết với họ. Không ai được chiếm dụng, tự ý chuyển nhượng, mua bán nhà
cửa, tài sản vắng chủ khi không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ cho
thuê theo chính sách cải tạo nhà cho thuê.
3. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ của
những người đã ra nước ngoài làm ăn buôn bán, hành nghề từ trước ngày giải
phóng, khi họ trở về sẽ tuỳ từng trường hợp mà nghiên cứu giải quyết sau.
Riêng đối với những người sau đây, khi họ trở về, Nhà nước sẽ xét
từng trường hợp cụ thể mà trả lại nhà cửa, tài sản cho họ:
a. Những người làm ăn lương thiện đi chữa bệnh, đi thăm viếng bà
con, đi học ở nước ngoài.
b. Những người đi tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến.
c. Những người là nhân dân lao động vì hoang mang sợ hãi bỏ chạy
đi các nơi trước và trong những ngày giải phóng.
4. Những nhà, đất và tài sản mà trước khi vắng, chủ nhà đã uỷ
quyền hợp pháp cho những người là con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của mình quản
lý thì những người ấy được tiếp tục quản lý và phải chấp hành những chính sách
quản lý nhà, đất của Nhà nước; trường hợp chưa kịp uỷ quyền hợp pháp thì Nhà
nước cho phép những người là cha mẹ, con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của họ
trước đây đã ở trong những nhà ấy, nay được tiếp tục ở nhưng không được bán,
chuyển dịch bất động sản.
Đối với thân nhân không
phải là cha mẹ, vợ chống, con của các chủ vắng mặt mà trước đây cùng ở chung
với chủ nhà, nếu nay còn ở lại thì sẽ được thu xếp cho ở một chỗ trong nhà hoặc
xếp ở nơi khác.
5. Những trường hợp xin thừa kế, xin hiến nhà, đất và tài sản vắng
chủ sẽ được nghiên cứu giải quyết từng trường hợp cụ thể theo chính sách.
6. Uỷ ban nhân dân thành phố, tỉnh thống nhất quản lý những nhà
đất và tài sản vắng chủ tại địa phương.
Cơ quan quản lý nhà đất và
cơ quan tài chính chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng, kiểm kê định giá, xử lý và
thanh toán với chủ nhà khi họ trở về theo đúng các chính sách chế độ và thống
nhất quản lý nhà đất và tài sản vắng chủ của Nhà nước.
III. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC ĐOÀN HỘI TÔN GIÁO
Để bảo đảm thống nhất quản lý nhà cửa, bảo đảm tôn trọng tự do tín
ngưỡng và căn cứ vào các chế độ, chính sách khác của Nhà nước, việc quản lý của
các đoàn, hội tôn giáo ở các tỉnh phía Nam được quy định như sau:
1. Nhà nước bảo hộ mọi nhà thờ, chùa chiền, miếu mạc, thánh thất
được thực sự và thuần tuý dùng vào việc thờ cúng hành đạo.
2. Nhà nước tịch thu toàn bộ nhà đất của các Đoàn Hội các tổ chức
không được Nhà nước thừa nhận và cho phép hoạt động.
3. Nhà, đất của các đoàn, hội, các tổ chức khác và của các tôn
giáo hiện đang cho thuê được giải quyết theo chính sách chung về nhà, đất cho
thuê. Riêng đối với các nhà tập trung của các tổ chức, các tôn giáo đã cho hội
viên, giáo dân của mình nhờ, hoặc ở thuê với giá rất rẻ mà không nằm trong phạm
vi nơi thờ cúng, hành đạo thì Nhà nước có thể xét cấp hẳn cho người đang sử
dụng.
4. Những nhà cửa đất đai khác còn bỏ trống hoặc dùng vào mục đích
không phải thờ cúng, hành đạo, thì Nhà nước vận động thuyết phục giáo dân giao
cho Nhà nước dùng vào việc phục vụ lợi ích chung.
IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY CAI
TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền
Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ
quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài sản công cộng,
do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực
tiếp quản lý:
- Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên.
- Sĩ quan cảnh sát từ cấp
trung uý trở lên.
- Cán bộ thuộc bộ máy cai
trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó,
Quận phó trở lên.
- Các phần tử ác ôn, mật
vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
3. Những người có nhà cho thuê và nhà thuộc diện Nhà nước trực
tiếp quản lý, tuỳ theo chức vụ cấp bậc, quá trình hoạt động dưới thời Mỹ nguỵ
và thái độ chính trị hiện nay của đương sự mà có thể chiếu cố dành cho một diện
tích ở thích đáng, nếu chưa có chỗ ở.
V. ĐỐI VỚI NHÀ ĐẤT CỦA NGOẠI KIỀU
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thừa nhận mọi
cam kết của chính quyền Mỹ nguỵ với các nước và các tổ chức quốc tế có cơ quan
ở miền Nam Việt Nam.
Nhà nước không thừa nhận quyền sở hữu về bất động sản đã có của
các nước và của ngoại kiều trên lãnh thổ Việt Nam từ trước ngày Giải phóng.
Chính phủ sẽ giải quyết các vấn đề tồn tại về các loại nhà, đất này theo hướng
sau đây:
1. Quốc hữu hoá không bồi hoàn toàn bộ đất đai, nhà cho thuê của
chính phủ nước ngoài và ngoại kiều. Xét trường hợp cụ thể có hình thức xử lý
đích đáng; không bồi hoàn, bồi hoàn tượng trưng, bồi hoàn một phần tuỳ theo
quan hệ ngoại giao giữa nước ta với nước hữu quan nếu là nhà thuộc quyền sở hữu
của Nhà nước hữu quan, và tuỳ theo tính chất kinh doanh bóc lột của ngoại kiều
nếu là nhà thuộc quyền sở hữu của ngoại kiều.
2. Tịch thu toàn bộ tài sản:
a. Của nước trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam.
b. Của ngoại kiều trực
tiếp phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
c. Của nước ngoài đã được
sử dụng vào mục đích của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
3. Đối với nhà làm việc và
nhà ở của các Chính phủ nước ngoài khác và của các tổ chức quốc tế thì giải
quyết như sau:
Nếu là nhà mua hoặc tự xây cất hợp pháp, căn cứ vào quy hoạch của
đô thị mà có thể cho họ giữ lại một số nhà cần thiết để làm cơ quan lãnh sự
hoặc cơ quan nghiệp vụ được Nhà nước ta chấp nhận. Những nhà không dùng vào
công việc trên thì phải nhượng lại.
Đối với những nhà không mua hoặc xây cất không hợp pháp thì Nhà
nước quản lý không bồi hoàn.
4. Nhà của ngoại kiều:
- Đối với những ngoại kiều được ở lại nước ta làm ăn sinh sống, có
nhà tự xây dựng hợp pháp thì được thừa nhận quyền sử dụng để ở.
- Đối với ngoại kiều được
phép xuất cảnh:
Nếu là người lao động, thì
Nhà nước cho phép bán nhà mà họ đang ở hoặc tự xây cất hợp pháp.
Nếu có cha mẹ, vợ chồng
hợp pháp, con đẻ được ở lại và đã cùng ở chung một hộ thì có thể được xét cho
nhận uỷ quyền quản lý.
Đối với nhà của ngoại kiều không phải là nhân dân lao động thì
trước khi xuất cảnh đều phải giao lại cho Nhà nước quản lý, và tuỳ từng trường
hợp, Nhà nước sẽ không bồi hoàn, bồi hoàn tượng trưng, hoặc bồi hoàn một phần.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
(Đã ký)
Phạm Hùng
Điều IV của QĐ 111/CP đã cho thấy rõ gia đình thân nhân của các anh em quân lực
Việt Nam Cộng Hòa phải chịu mất nhà mất cửa rất thê thảm. Mọi quy chụp là phản
động hay Ngụy quyền thì coi như là bị tịch thu nhà cửa.
Dòng chữ cuối cùng của khoản 2 điều IV của QĐ 111/CP có ghi rõ là
nhà cửa đất đai của các thành phần sau đây bị tịch thu: “Các phần tử ác ôn, mật
vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.” Bởi không có định nghĩa rõ
ràng thế nào là thành phần ác ôn nên các viên chức cán bộ Cộng Sản tha hồ kết
tội thuờng dân vô tôi vạ là thành phần ác ôn của “Ngụy quyền” để tư lợi cướp
bóc nhà cửa cho riêng mình, không cần tòa án nào xét xử cả. Ai ai cũng có thể
là điệp viên CIA, hay là có lý lịch ba đời liên quan đến Ngụy quân, và điều có
tư tưởng phản động và cần phải tịch thu nhà cửa dựa trên điều khoản này của Q Đ
111/CP.
Không khí hoảng sợ , đau thuơng oán hận lan tràn khắp cả miền Nam.
IV. Hậu quả ĐÁNH TƯ SẢN của Cộng Sản Hà Nội:
Theo các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc về kinh tế, Việt Nam tụt
hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Cộng Sản Hà Nội
lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên
thế giới vào năm 1985.
Cho đến giờ phút này , người dân Việt Nam vẫn chưa thực sự có
quyền TƯ HỮU mà chỉ có quyền SỬ DỤNG, nghĩa là thảm họa bị ĐÁNH TƯ SẢN trong
quá khứ vẫn treo lơ lửng trên đầu người dân Việt Nam bất cứ lúc nào cũng có thể
xảy ra chiếu theo luật pháp hiện hành của Cộng Sản Hà Nội.
Kinh tế của Việt Nam mãi đến năm 1997 mới thực sự khắc phục được
một phần hâu quả của 10 năm Quá Độ, ĐÁNH TƯ SẢN mang đầy cướp bóc ngu xuẫn do
Cộng Sản Hà Nội tiến hành từ năm 1976 đến năm 1987.
Từ năm 1987 đến năm 1997, Hoa Kỳ đã nhắm mắt làm ngơ cho những
người Việt di tản hay Vượt Biên định cư tại Mỹ gởi tiền hàng ồ ạt về cứu đói
thân nhân mình và vực dậy sự sinh động về kinh tế vốn có ngày nào của miền
Nam.Tổng số ngoại tệ gởi về lên đến 8 đến 15 tỷ Mỹ kim mỗi năm trong suốt 10
năm đó.
Sang đến năm 1989, báo SGGP từ hào Sài Gòn chịu 90 % ngân sách của
cả nước và bắt đầu tiến hành trả lại nhà cho một số nạn nhân bao năm trời khổ
ải đói rách, cũng như bắt đầu bàn tới vấn đề cho phép các sĩ quan quân lực Việt
Nam Cộng Hòa được bán nhà vốn hầu hết đã bị tịch thu nếu ra đi theo chương
trình HO-Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program
(Chương trình tái định cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo)
Chỉ số nghèo đói của Việt Nam đứng hàng thứ ba trên thế giới và
chỉ mới có những tiến bộ cải thiện mà thôi trong dạo gần đây khi World Bank và
USAID tăng tốc trợ giúp.
Mọi tài liệu, hình ảnh ca ngợi ĐÁNH TƯ SẢN từ các báo chí đài phát
thanh của Đảng cũng bị dẹp dần đi.
Đảng Cộng Sản Hà Nội tới ngày nay vẫn chưa chính thức xin lỗi hai
mươi mốt triệu người dân miền Nam về hành động cướp bóc phi pháp này.
__._,_.___
Posted by: truc nguyen