- ‘GIẢI PHÓNG’ LÀ GÌ?
TẠI SAO ? *THÁNG 4 ĐEN* AI GIẢI PHÓNG AI?
Trước đây cũng đã có một số nhận định về chữ Giải Phóng, tuy nhiên với dụng ý hạn hẹp của bài viết, “giải phóng” được hiểu nghĩa như một động cơ thúc đẩy, có mục đích chấm dứt hay thay đổi cái “cũ, xấu” bằng cái “mới, tốt hơn”.
Cụ thể hơn nữa, “Giải phóng” là một sự kiện nhắm can thiệp, giải thoát cho một thực thể (một tập thể bị động, yếu thế), tức đối tượng đang bị cai trị, đang bị đàn áp do bởi một cá nhân hay một nhóm người. Phía đàn áp (tức đối tượng chủ động) thường “núp” sau một chính sách và những quy luật, được tự sáng lập để tự diễn; Hơn nữa, một hệ thống võ trang hùng
hậu còn được tổ chức, gồm cả quân đội, cảnh sát và các toán đặc biệt để tự bảo vệ lấy quyền lợi cá nhân thuộc phe nhóm thống trị.
Kết quả sau khi được đem đến từ một cuộc giải phóng, tất nhiên phải được đa số tán thành, đón
nhận; Đồng thời còn phải phù hợp với lẽ công bằng, bác ái; Tạo nên tình trạng an sinh xã hội tốt đẹp hơn. Vì thế một cuộc giải phóng, theo đúng nghĩa, sẽ đem lại phúc lợi cho một tập thể, lớp người bị cai trị; Từng phải trảI qua một thời kỳ mất tự do, bị đàn áp và ngược đãi.
Để hiểu rõ nghĩa của từ ngữ “Giải phóng”; tưởng cần lấy thêm thí dụ về cuộc “Cách Mạng Hoa Lài” (CMHL); Hoa Lài là biểu tượng của một số các cuộc giải phóng vừa xẩy ra vào đầu năm 2011 thuộc vùng Bắc Phi Châu; Theo đó người dân bản xứ được “giải thoát” khỏi chế độ cai trị độc tài, tham nhũng, áp bức; đã diễn ra ở một số các nước, như Tunisie (với nhà cầm quyền Ben Ali); Ai cập (với Mubarak); Yemen
(với Saleh); Syria (với Bachar el-Assad); tới Lybie, v..v… Kết cuộc nhóm cầm quyền độc tài, tham nhũng, bóc lột đàn áp người dân, trong suốt tù 3 đến 4 thập kỳ, sau cùng đã bị đưa ra xét xử trước Công lý.
Nhờ có phong trào vùng lên, tự giải phóng, được biểu hiện qua diễn tiến CMHL, tình trạng Xã-hội và Chinh-trị tại một số quốc gia nêu trên tại Bắc Phi, trở nên sáng sủa hơn. Người dân, trước kia là những kẻ bị trị, cuôc sống khổ ải dưới áp lực bởi những kẻ nắm quyền cai trị, tàn ác, vô nhân; Nay được “giải phóng”, dân chúng có quyền tham gia trực tiếp, hoặc gián tiếp lựa chọn người đại diện trong chính quyền mới, thuộc thể chế tất nhiên là đối nghịch với “độc tài, tham nhũng” xẩy ra trước đó. Nhờ thế Tunisia, Ai cập v..v.. đã kịp thời hội nhập với các quốc gia tự-do trên thế giới, trong kế hoạch phát triển về cả kinh tế lẫn chính trị.
Một thí dụ khác, không kém phần quan trọng và rất cụ thể, giúp ‘nhân dân’
được “Giải phóng” khỏi chế độ CS độc tài, đảng trị tại VN; Nhờ đó sớm chấm dứt vai trò độc quyền thống trị đất nước của ngụy quyền VC Hà-nội hiện nay. Đó là sư hiện diện của một tập đoàn ‘nhà nước’ ăn cắp, hối lộ; Che trở, bênh vực cho cán bộ thuộc cấp dùng vũ lực bóc lột ‘nhân dân’. Một tệ trạng “người bóc lột người” đã gây nên quốc nạn tham nhũng, kéo
theo tình trạng xã hội ngày càng xuống thấp, hiện đã khiến trở thành tồi tệ. Khoảng cách giữa sự nghèo khổ (người không có nhà cửa) và giầu có (các đại gia, các bậc tỉ phú Đỏ) gia tăng mỗi ngày một nhanh chóng dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa VC hiện tại.
Ngụy quyền VC Hà-nội vi phạm Hiến pháp do chính chúng thiết lập, bất tuân pháp luật cũng do chính chúng làm ra và còn
xử dụng.một Bộ Công an (CAND); trấn áp đồng bào, tùy tiện băt bớ, tra khảo, gây tử vong cho những người vô tội trong khi bị lưu giữ trái phép tại những đồn CAND. Nhóm thủ lãnh thuộc BCT VC, chủ yếu là bao che cho các cán bộ đảng viên, thành phần thuộc cấp cuồng tín, mù quáng, nhắm mắt thừa hành ‘lệnh trên’ để ‘quán triệt’ khẩu hiệu ‘có Đảng TA, thì mới có TA !!’.
Ngụy quyền VC Hà-nội dùng CAND để củng cố chế độ; bằng cách tiếp tay dọa nạt, uy hiếp đồng bào qua mọi thủ đoạn vô nhân đạo, khốn nạn, như: đòi hối lộ, phá nhà, cướp đất, ruộng vườn của dân chúng; Kể cả một số bất động sản thuộc các tổ chức hội đoàn tôn giáo địa phương v..v.
- CS BẮC VIỆT “XÂM LƯỢC” MIỀN NAM
- CÁC *BẰNG CHỨNG* KHÔNG THỂ CHỐI CÃI!
Lùi lại gần 40 năm về trước, sau ngày ký kết Hiệp ước Hòa đàm Ba-lê 27-1-73; Cuộc chiến kéo dài suốt 19 năm trời tại miền nam Việt nam (54-73). Nếu không có gì xẩy ra, trên nguyên tắc, “chiến tranh” sẽ được chấm dứt vào thời điểm này.
Tuy nhiên khi nền Hòa bình được coi như vãn hồi, trên thực tế
lúc đó lại đã xẩy ra một cuộc chiến tranh mới, và đặc biệt là chỉ xuất hiện tại miền đất phía nam Vĩ tuyến 17 mà thôi! (tức phần lãnh thổ của VNCH). Quan sát viên của Ủy Ban Điều hợp Bốn Bên (ICCS= kiểm soát đình chiến) đã ghi nhận được vô số những vi phạm gồm những cuộc pháo kích, phá hoại và tấn công của lực lượng CS Bắc việt; Đã lại xẩy ra giống như trước kia.
Một số chi tiết ghi nhận sau đây là “BẰNG CHỨNG” cụ thể và đầy đủ để tố cáo trước công luận thế giới cho cuộc xâm lăng VNCH của phe Lê Duẩn và tập đoàn CS Bắc việt.
Sau đây là vài đoạn được trích đăng trong một tài liệu, loại sách Niên giám, ghi nhận về Chiến Tranh Việt Nam (2):
* 27-1-73, là ngày ký kết Hiệp định Hòa đàm Ba-lê của tất cả thành viên thuộc 4 phe, sau hơn 4 năm trời thảo luận và bàn cãi (từ năm 69 đến 27-1-73).
Cuộc ngưng bắn tại chỗ tức khắc được áp dụng. Tuy nhiên
riêng điều khoản rút hết các lực lượng tham chiến khỏi VN, thực tế chỉ được áp dụng cho Hoà-kỳ và các nước đồng minh (Canada, Úc, Phi luật Tân, Đại hàn.v..v);
Vì thế trong khi Mỹ và đồng minh rút quân khỏi lãnh thổ VNCH; thì lúc đó
vẫn còn thấy một lực lượng gần 300,000 lính CS Bắc việt (3) đang hiện diện tại miền nam Vĩ tuyến 17. Lực lượng này của cộng quân, đáng nhẽ cũng phải rút ra khỏi VNCH sau ngày ngưng bắn, như đã từng được thảo luận. Nhưng không may, vì bị áp lực do ảnh hưởng của nội tình chính trị tại Thủ đô Hoa thịnh Đốn, cộng thêm những khúc mắc khác đặc biệt liên quan đến vấn đề tù binh Mỹ…Thành thử điều khoản “buộc ngụy quyền VC Hà-nội phải rút hết bộ đội chính quy về phía bắc vĩ-tuyến 17”, đã bị Lê đức Thọ, Xuân Thủy …(đại diện phe VC) và
chính Kissinger (phiá Hoà-kỳ) bỏ qua một cách bí mật; mờ ám; Cho nên không hề thấy ghi nhận trong văn bản chung quyết của Hiệp định thư, tức bản văn chính thức dùng để ký kết.
Vào ngày kết thúc Hiệp định Ba-lê (27-1-73), đặc biệt về khía cạnh quân sự, những tin tức đã ghi nhận được như sau (2):
– Theo phần thống kê được xác nhận, chính phủ của TT Nguyễn văn Thiệu (73), kiểm soát hơn 75% lãnh thổ bao gồm 85% tổng số dân chúng tại miền nam.
Ngoài ra, sau ngày ngừng bắn, quân đội VNCH hiện trong điều kiện trang bị đầy đủ và tiếp tục nhận viện trợ Hoa kỳ. Đặc biệt về Không Quân, sự tổ chức và khả năng tác chiến của Không lực VNCH lúc đó
(1973) được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới.
Các hoạt động quân sự của cộng quân xẩy ra ở miền nam lúc đó, chứng tỏ sự vi phạm trắng trợn Hiệp ước Hoà đàm Ba-lê 73. Hơn nữa còn tự tố cáo trước dư luận quốc tế âm mưu xâm lược miền nam VNCH của Lê Duẩn và ngụy quyền VC Hà-nội :
1/-: Theo Hồ sơ giải mật của Hoa kỳ, Ngoại trưởng Mỹ Kissinger mới đây tố cáo phe đã từng ngồi thương thuyết với ông ta là: “Mỹ muốn thoả hiệp (nhưng) Hà-Nội muốn
chiến thắng” (4).
Nội trong năm (1973), tập đoàn CS Bắc việt gồm Lê-Duẩn (Tổng bí thư) và Phạm văn Đồng (Thủ tướng) vẫn tiếp tục van xin thêm “viện trợ quân sự” từ hai nước Cộng sản đàn anh; Nhưng đã bị cả Nga sô lẫn Trung cộng thẳng thắn từ chối.
2/- Đúng 7 tháng sau
(24-8-73), khi Hoa bình được vãn hồi; Nguồn tin tình báo tiết lộ chi tiết sau đây:
CS Bắc việt đã lén lút di chuyển thêm 70,
000 lính, 400 xe tăng thiết giáp, 200 cỗ pháo (tối thiểu), 15 cỗ đại bác phòng không. Đồng thời hoàn thành 12 sân bay, cộng thêm một đường tiếp tế, giao thông được thiết lập có thể chạy thẳng từ miền bắc vào đến Tỉnh Tây Ninh (VNCH).
3/- Một năm sau ngày Hiệp định Ba-lê được công bố, kết quả dựa trên số tổn thương về nhân mạng của đôi bên, đã chứng tỏ các cuộc giao tranh ở mức cao độ vẫn còn được phe CS Bắc việt chủ động, tiếp tục gây tang tóc tại miền nam VN:
(a) VNCH: Số tử vong: 1/- binh sĩ 13, 788; 2/- thường dân: 2159.
(b) CS Bắc việt và MTGP: 45, 057 thương vong (gồm binh lính và.thường dân)
Đó là kết quả phải trả giá cho cái lý do “Hà Nội muốn chiến thắng”!! chứ không hề muốn Hòa đàm, như Kissinger đã tiết lộ (ghi nhận trong đoạn dẫn chứng nêu trên).
4/- Khoảng ba (03) tháng (25-1-75) trước Tháng 4 Đen, tức trước ngày Thủ đô Sàigòn bị cưỡng chiếm; Tổng thống Hoa kỳ G. Ford cho biết, vào thời kỳ đó tại miền nam VN hiên đang có 289, 000 quân lính CS Bắc việt cùng hàng trăm thiết giáp, đại pháo lẫn súng phòng không…
Qua các diễn tiến vừa nêu, chứng tỏ trong thời kỳ thương thuyềt, VNCH gặp phải bất lợi vì sự phản bội (do nội tình chính trị) của đồng minh; Vì thế nguồn tài trợ bị cắt giảm, dưa đến sự chấm dứt hỗ trợ quân viện từ Hoa kỳ. Trong khi đó phe CS Bắc việt vẫn tiếp tục được “bơm” đầy đủ quân viện từ Nga sô, Trung cộng và khối CS quốc tế.
Hơn nữa, căn cứ vào cách đối thoại, mặc cả gian xảo của Lê đức Thọ, phía CS Bắc việt, đã để lộ mưu đồ “xâm lăng miền nam” không thể chối cãi, được hoạch định từ thời kỳ Hồ chí Minh; Thì nay lại do đám hậu duệ đem ra thi hành, gồm: Duẩn, Chinh, Đồng, Thọ, Giáp..v…v, và đồng bọn CS Bắc việt.
Đó là lý do đã khiến các quan sát viên quốc tế tiên đoán được sự xụp đổ nhanh chóng,
không thể tránh khỏi, của nền Đệ Nhị Cộng Hoà tại miền nam vào thời kỳ “hậu” Hiệp định Hòa Đàm năm
73, trong đó có phe CS Bắc việt vừa đặt bút ký và vết mực vẫn còn chưa kịp ráo !!!.