Saturday, April 11, 2015

Xu thế ghét Trung Quốc: Vài lời ngỏ cùng Bộ trưởng Phùng Quang Thanh


Chó Bắc Kinh. Tranh Babui.


Imagehttp://namvietnetwork.files.wordpress.com/2011/07/babui_062011_131.jpg


Xu thế ghét Trung Quốc: Vài lời ngỏ cùng Bộ trưởng Phùng Quang Thanh

Nguyễn Đăng Quang

Trong bài phát biểu của mình tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2014 của Chính phủ, ông Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng tỏ vẻ bất an và bực bội về hiện tượng tâm lý trong xã hội Việt Nam ta, đó là hiện tượng mà ông ta gọi là xu thế “ghét Trung Quốc”.
Bản tin của Infonet đưa tin, nguyên văn như sau: “Trong phần cuối bài phát biểu của mình, người đứng đầu Bộ Quốc phòng cũng lưu ý, hiện nay trong dư luận xã hội, từ người trẻ đến người già, đang hình thành một xu thế “ghét Trung Quốc”. Theo ông, đây là một việc nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước cũng như quan hệ giữa hai quốc gia.”
Trước hết, xin nói rõ phát biểu trên của ông Phùng Quang Thanh không phải nêu ra ở chỗ riêng tư, mà đây là phát biểu chính thức của ông với tư cách là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2014 của Chính phủ ngày 29/12/2014. Phần đầu phát biểu của ông PQT không có gì đáng nói, vì ông chỉ nêu lên một thực tế khách quan. Song, điều đáng bàn là phần thứ hai, khi ông cho rằng “xu thế GHÉT TRUNG QUỐC là một việc nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước cũng như quan hệ giữa hai quốc gia.” Tôi cho rằng đây là một ý kiến non nớt,rất nông cạn, thiếu hiểu biết và thiếu biện chứng của một vị tướng đứng đầu một bộ quan trọng có thể nói vào bậc nhất của đất nước ta lúc này!
Đã có nhiều bài viết phê phán quan điểm lệch lạc và cách phát ngôn “phò Tầu” của Bộ trưởng PQT, nhưng cho đến nay ông vẫn im lặng, chưa thấy ông thanh minh, cải chính hoặc phản bác lại các ý kiến phê phán này. Ngay cả lực lượng DLV đông đảo của ngành Tuyên giáo, cho đến nay cũng chưa một ai dám lên tiếng tán đồng và ủng hộ vị Đại tướng họ Phùng! Tôi không muốn tranh luận thêm nữa, nhưng với tư cách là một công dân Việt Nam, tôi không thể đồng tình với ý kiến như vậy của ông PQT, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, một tướng lãnh có cấp hàm cao nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay!
Dưới đây, tôi mạn phép ngỏ cùng ông đôi lời như sau:
Trước hết, phải khẳng định tâm lý hay xu thế “ghét Trung Quốc” là rất thật, không chỉ “hiện nay” mới có, mà nó là một thực tế khách quan, nó hình thành và tồn tại trong lịch sử nước ta hàng ngàn năm nay rồi. Hiện tượng này không phải do một tổ chức hay một đảng phái nào chủ trương hoặc cổ súy, mà nó hình thành một cách tự nhiên và tất yếu bởi thực tiễn khách quan của lịch sử qua hơn một ngàn năm nước ta bị xâm lược và đô hộ bởi các thế lực cầm quyền phong kiến phương Bắc! Một điều nữa cần khẳng định rõ là Trung Quốc ở đây không phải là nhân dân Trung Quốc hay đất nước Trung Hoa! Không, nhân dân và đất nước Trung Hoa không phải là kẻ thù của Việt Nam mà chúng ta phải căm ghét! Mà Trung Quốc ở đây chính là “nhà cầm quyền và giới lãnh đạo chóp bu Trung Quốc cùng tham vọng bành trướng bá quyền và ý đồ đen tối hàng ngàn năm qua của họ” đối với đất nước Việt Nam chúng ta! Nếu ông Phùng Quang Thanh phát biểu với tư cách cá nhân, tôi chẳng cần bàn đến. Ông có thể yêu ai hoặc ghét ai là do trái tim ông xui khiến, điều đó là tùy ở nơi ông. Thậm chí ngay cả, với tư cách cá nhân của riêng ông, ông có thể yêu và thích cách hành xử của nhà cầm quyền Đại Hán hoặc của bọn tướng lĩnh Trung cộng, điều đó cũng có thể tùy ở nơi ông. Nhưng một khi ông phát biểu như vậy với tư cách là một vị bộ trưởng, một thành viên của Chính phủ, thì cần phải nhìn nhận và xem xét một cách thấu đáo! Tôi tin rằng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có thể đã nhắc nhở ông sau khi ông nêu lên ý kiến sai trái và quá lố nói trên.
Ở đây, tôi chỉ muốn đề cập đến khía cạnh mà ông cho rằng: “…trong dư luận xã hội, từ người trẻ đến người già, đang hình thành một xu thế ghét Trung Quốc”. Vâng, nói như vậy tức là ông đã khẳng định những người ghét Trung Quốc ở nước ta chính người dân, là nhân dân! Vâng, điều đó là rất đúng, rất chính xác và là một thực tế hiển nhiên đấy, ông ạ! Là một trong 16 Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN – Đảng vẫn tự nhận là đại diện cho ý chí, quyền lợi và nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam – sao ông lại nói ngược với ý chí và tình cảm của người dân? Phải chăng, ông muốn bắt nhân dân phải chuyển từ xu thế ghét Trung Quốc sang “xu thế phải yêu Trung Quốc” ư? Ông không thấy rằng trong vấn đề này, Ý Đảng trái hẳn với Lòng Dân”, hoặc nói cách khác là “Lòng Dân khác hẳn với Ý Đảng sao, thưa ông? Tôi xin cam đoan và chắc ông cũng buộc phải đồng ý với tôi là một khi Nhân Dân đã yêu ai hoặc ghét ai thì điều đó là không bao giờ sai, nó luôn luôn đúng và luôn luôn chính xác! Vậy, hà cớ chi ông lại bảo “điều đó là nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước và quan hệ giữa hai quốc gia” để từ đó ông định điều chỉnh lại cái YÊU và cái GHÉT của nhân dân theo cách mà ông muốn ư ? Không, không nên và ông cũng không thể bắt nhân dân phải yêu, phải chuộng, phải tôn thờ cái mà vốn xưa nay họ đã rất không ưa và rất căm ghét!
Điều thứ hai, có thể ông đã biết, song tôi muốn nêu thêm để ông rõ, trên thế gian này đâu chỉ có dân Việt Nam chúng ta là ghét Trung Quốc. Không nói rộng đâu xa, mà chỉ nói riêng 14 quốc gia có đường biên giới chung với Trung Quốc thôi, có dân tộc nào ưa Trung Quốc đâu, ngay cả đất nước và người dân Bắc Triều Tiên cũng vậy! Tôi tin rằng người dân cũng như chính phủ 14 quốc gia trên, nếu có thể di dời được lãnh thổ của họ đi nơi khác, thì có lẽ tất cả đều muốn rời đi, không một ai hoặc nhà nước nào muốn sống cạnh cái anh vừa tham vừa thâm vừa xấu tính này!
Điều thứ ba, không kể lại lịch sử xa xôi, chỉ tính riêng từ khi 2 Đảng Cộng sản ra đời ở Trung Quốc và Việt Nam (năm 1921 và 1930) đến nay thôi, đất nước và dân tộc Việt Nam ta đã trải qua nhiều kinh nghiệm đau xót và “suýt” phải trả giá cho việc đặt nhầm lòng tin vào cái gọi là tinh thần “quốc tế vô sản” của ông bạn láng giềng “4 tốt và 16 chữ vàng ma giáo” đó sao? Giữa những năm 1960’s, nếu Chủ tịch HCM và TBT Lê Duẩn không cảnh giác, cứ nhắm mắt làm theo lời khuyên nham hiểm của Mao Trạch Đông là “Các đồng chí cứ tập trung toàn lực cho giải phóng miền Nam đi, để miền Bắc đấy cho chúng tôi đưa PLA vào bảo vệ cho!” thì có lẽ nay toàn bộ miền Bắc nước ta đã trở thành một địa danh có tên là tỉnh Nam Quảng hay gì gì đó của Trung Hoa cộng sản rồi! Rất may là chúng ta vẫn còn tỉnh táo và đã không bị sập bẫy với ông “bạn vàng khốn kiếp” này. Cũng cách đây nửa thế kỷ, thế giới đã vạch rõ cho chúng ta biết mưu đồ hiểm độc của Trung Quốc là “Quyết đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng!” đó sao? Đúng là họ có giúp ta trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhưng động cơ của họ không trong sáng như họ tuyên truyền! Họ giúp ta là do nhu cầu tự bảo vệ họ là chính, họ muốn có một “khu đệm làm phên dậu” ở biên giới để các cường quốc phương Tây không tiến sát đến biên cương để có thể đe dọa họ! Điều này càng thấy rõ qua cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Cũng như đối với Việt Nam, họ muốn bán đảo Triều Tiên phải là “phên dậu” bảo vệ cho họ là chính chứ chẳng phải do tinh thần “quốc tế vô sản” gì đâu! Lợi dụng tham vọng thống nhất đất nước bằng vũ lực của Kim Nhật Thành, năm 1950, Mao Trạch Đông đã ngầm bật đèn xanh cho họ Kim rạng sáng ngày 25/6/1950 bất ngờ ào ạt tấn công qua vĩ tuyến 38 nhằm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”! Chỉ trong vòng hơn 2 tháng, quân Bắc Triều Tiên có Trung Quốc yểm trợ phía sau, đã chiếm được 80% lãnh thổ Nam Triều Tiên ( ngoại trừ thành phố Busan và vùng phụ cận). Tình hình thật nguy ngập, quân đội Mỹ dưới danh nghĩa LHQ buộc phải nhảy vào cứu Nam Triều Tiên, và trong vòng chưa đầy 2 tháng đẩy quân BTT tháo chạy ngược lên phía Bắc! Quân BTT không chỉ rút chạy về vĩ tuyến 38 mà còn bị liên quân Mỹ – Nam Hàn đánh cho phải tháo chạy tít lên bờ sông Áp Lục, sát với biên giới Trung Hoa! Lúc này, Mao Trạch Đông thấy nguy quá, vội phát động chiến dịch “Kháng Mỹ viện Triều”, huy động 1,5 triệu “chí nguyện quân” Trung cộng, dồn toàn lực vuợt sông Áp Lục đẩy quân Mỹ và Nam Hàn trở lại vĩ tuyến 38 như cũ rồi 2 bên ký Hiệp định Đình chiến ở đó! Cuộc chiến tranh vô nghĩa này đã cướp đi sinh mạng của trên 2,5 triệu dân lành vô tội của cả 2 bên Triều Tiên, cộng với 36.516 lính Mỹ chết và khoảng gần 400.000 chí nguyện quân TQ “hy sinh”, mà đến tận hôm nay – 62 năm đã trôi qua – hàng trăm ngàn trong số này vẫn chưa tìm được hài cốt!
Điều sau cùng tôi muốn nói với ông là, một thực tế không thể bác bỏ là qua 2 cuộc Kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) và Kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1973), nhân dân và đất nước ta vẫn bảo vệ vẹn toàn đất đai của Tổ quốc trên toàn lãnh thổ Việt Nam – trên đất liền cũng như ngoài biển đảo – không một chút suy suyển! Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chẳng kẻ nào lấy đi được của ta dù chỉ một mét vuông đất cũng như một mét vuông biển của chúng ta! Ấy vậy mà, kể từ năm 1974, đặc biệt là từ sau khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, giang sơn đất nước ta đã thu về một mối, thế mà đất đai, biển đảo của Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta cứ mỗi ngày một nhỏ đi, một co lại, mất dần vào tay kẻ tham tàn phương Bắc! Là con dân đất Việt, không ai là không biết những thực tế đau buồn này: Đầu tiên là Trung cộng lợi dụng thời cơ Mỹ vừa rút khỏi Nam Việt Nam cuối năm 1973 theo Hiệp định Paris, thì ngay đầu năm 1974 (ngày 19/1/1974), họ cho quân đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa lúc đó dưới sự quản lý của chính phủ miền Nam Việt Nam, giết hại 74 chiến sỹ Hải quân VNCH! Rồi 14 năm sau, ngày 14/03/1988, chính chúng lại cho Hải quân đổ bộ chiếm đảo đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa của ta và nổ súng sát hại 64 chiến sỹ công binh của Hải quân Nhân dân Việt Nam! Ngày 7/5/2009, Nhà nước cộng sản Trung Quốc, bất chấp công pháp quốc tế, ngang ngược trình lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc bản đồ Đường 9 đoạn (hay còn gọi là đường Lưỡi bò hay đường Chữ U) bao gồm trên 80% diện tích Biển Đông (trong đó có toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hàng trăm ngàn dặm vuông thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt nam) chính thức tuyên bố không úp mở đấy là “Lãnh thổ đã 2.000 năm nay của chúng”! Bắt đầu từ đó, biết bao tầu, thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam bị đâm hỏng, đánh chìm; nhiều ngư dân của chúng ta bị bắt bớ, giết hại; các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trên vùng đặc quyền kinh tế của ta ở Biển Đông bị Trung cộng cản trở và phá hoại! Trong vòng hơn một năm qua, chúng đã âm thầm xây dựng và biến đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành một cứ điểm quân sự của chúng để trước mắt khống chế biển Đông, thứ đến là làm cơ sở cho việc thiết lập Vùng Cấm Bay hay gọi là Vùng Nhận diện Hàng không (ADIZ) ở đây, và sau này dùng làm bàn đạp quân sự, khi cần có thể dễ dàng tấn công đến tận Tp HCM của Việt Nam!
Chưa hết, đầu tháng 5/2014, bất chấp luật pháp quốc tế và dư luận thế giới, họ ngang ngược hạ đặt trái phép dàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của ta, ngang nhiên khoan thăm dò dầu khí ngay trên thềm lục địa của ta! Hãy nhớ lại, Chính phủ các nước nào, Quốc Hội các nước nào đã thể hiện thái độ kiên quyết và mạnh mẽ nhất buộc bọn cộng sản Trung Quốc phải tháo lui? Ấy vậy mà trong bài phát biểu của ông tại Hội nghị đối thoại Shangri La ngày 31/5/2014, ông đâu dám có một lời lên án hoặc tố cáo hành vi xâm lược nói trên của Trung cộng? Ông coi bọn xâm lược đó như “anh em trong gia đình” để rồi muốn “đóng cửa bảo nhau” với lũ kẻ cướp đó ư?
Còn trên đất liền, bắt đầu từ sau năm 1975, dọc suốt trên 1350km chiều dài biên giới của 6 tỉnh phía Bắc giáp ranh với Trung Quốc, hỏi có lúc nào đất đai của ta được yên ổn với nhà cầm quyền bên kia biên giới không? Địa danh lịch sử thiêng liêng ở tỉnh Lạng Sơn là Hữu Nghị quan (Mục Nam quan) đâu còn nữa? Nó đã nằm sâu gần 300m bên trong lãnh thổ Trung cộng từ sau năm 2000 rồi! Một địa danh văn hóa-thắng cảnh nổi tiếng ở tỉnh Cao Bằng là thác Bản Giốc đâu còn của riêng ta! Một nửa con thác xinh đẹp này từ tháng 12/2000 bằng giấy trắng mực đen đã buộc phải nhường cho “người anh em cộng sản” bên kia biên giới rồi! Gần một trăm cây số vuông dưới chân Cao điểm 1509 (núi Lão Sơn) ở Hà Giang trong trận chiến năm 1988, mà trong đó có hàng ngàn phần mộ của bộ đội ta hy sinh để bảo vệ cao điểm này, thì từ sau tháng 12/2000 đã mặc nhiên thuộc lãnh thổ của Tầu cộng! Những tội ác dã man “đất không dung, trời không tha” mà quân xâm lược Trung cộng đã gây ra với nhân dân ta ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc trong cuộc chiến tranh xâm lăng nước ta tháng 2/1979 sẽ mãi mãi là một vết nhơ ngàn năm khó rửa của bọn cầm quyền bành trướng Bắc Kinh đối với dân tộc và đất nước Việt Nam ta! Thế mà tại Hội nghị Thành Đô tháng 9/1990, chúng lại ngang nhiên đòi chúng ta hãy vì “đại cục”” mà quên đi, không được kỷ niệm thậm chí cấm nhắc đến cuộc chiến tháng 2/1979 cùng tội ác mà chúng đã gây ra cho đất nước và dân tộc này! Vậy ai là kẻ đồng tình với chúng mà muốn quên đi và không muốn người khác nhắc đến tội ác này của nhà cầm quyền Trung Quốc? Họ muốn mọi người im lặng nhằm mục đích và với động cơ gì?
Được biết mấy ngày nữa ông sẽ tháp tùng TBT Nguyễn Phú Trọng đi thăm Trung Quốc. Nhân dịp này, tôi mong ông hãy dũng cảm và khẳng khái nói lên“Xu thế ghét Trung Quốc” của nhân dân Việt Nam ta cho giới cầm quyền Bắc Kinh biết, để qua đó chứng tỏ ông vẫn là con dân đất Việt! Chúc ông khỏe và không bị trói buộc bởi bất cứ nỗi sợ hãi nào. Xin trân trọng chào ông!
Hà Nội, ngày Thanh Minh 5/4/2015.
N.Đ.Q.
Tác giả gửi BVN

__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Lò đốt rác VN gây nhiễm dioxin: chuyên gia

Lò đốt rác VN gây nhiễm dioxin: chuyên gia

RFA
2015-04-10
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
incinerator
Một hệ thống lò đốt rác y tế của công ty ATI trang bị cho Việt Nam
ati.com
Những lò đốt rác công nghiệp và y tế tại Việt Nam là mối nguy ô nhiễm chất dioxin cho người dân. Nhiều chuyên gia trong nước hôm qua đồng ý với kết qủa nghiên cứu được đưa ra cho thấy tỷ lệ dioxin nguy hiểm lâu  nay vẫn thải ra từ các lò đốt rác công nghiệp và y tế tại nhiều nơi trên cả nước.
Hãng tin Đức DPA trích phát biểu của bác sĩ Nguyễn Tiến Bình, nguyên giám đốc Vụ Y tế Dự Phòng thuộc Bộ Y Tế rằng hầu hết các lò đốt rác tại Việt Nam không đạt chuẩn hiện đại. Một khi nhiệt độ được chỉnh ở mức quá cao có thể thải ra dioxin.
Nghiên cứu do Bộ Tài Nguyên- Môi trường tiến hành qua điều nghiên chú trọng vào 18 lò đốt xử lý rác thải công nghiệp và rác thải y tế. Người đứng đầu công trình nghiên cứu là ông Lê Kế Sơn nói với báo chí trong nước rằng nghiên cứu cho thấy đây là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận có dioxin thải ra từ hoạt động công nghiệp ngoài lượng dioxin sót lại sau thời kỳ chiến tranh.
Lâu nay Hà Nội cho rằng chính chất diệt cỏ Da Cam có chứa dioxin mà Hoa Kỳ sử dụng trong cuộc chiến là nguyên nhân gây bệnh và sinh quái thai tại Việt Nam.



__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Friday, April 10, 2015

Niềm tin vào cái ác



Niềm tin vào cái ác


Tuấn Khanh
Những người thân của anh Nguyễn Đức Duân bức xúc kéo lên Trung tâm y tế huyện Khoái Châu.

Trong cùng một buổi sáng đầu tháng 4, khi ông Lê Đức Hoàn, phó thủ trưởng cơ quan Cảnh sát đều tra TP. Tuy Hoà nhìn nhận "chúng tôi đã sai rồi" trước vành móng ngựa về vụ 4 công an đánh đập, tra tấn và bức tử công dân Ngô Thanh Kiều, thì cũng là lúc ở Hưng Yên lại tái diễn một sự kiện tương tự.

Anh Nguyễn Đức Duân, 34 tuổi, khi bị đưa về phòng tạm giam của công an huyện Khoái Châu (Hưng Yên) đã bất ngờ đột tử, dĩ nhiên, trên người xuất hiện nhiều vết đánh đập. Một kiểu chết mà rất nhiều phòng tạm giam, đồn công an trên toàn cõi Việt Nam vẫn nói mình vô can, bất chấp trong 3 năm (2011 đến 2014) có đến 226 người đã chết tương tự như anh Kiều, anh Duân vậy.

Những công dân chưa bị kết án này, được tìm thấy có nhiều chứng cứ đã bị một hoặc nhiều người đánh đến chết, ở khu vực chính quyền quản lý. Trong trường hợp anh Kiều, giám định viên thi thể cho biết họ không thể đếm hết các vết thương tích trên người của nạn nhân. Điều làm người ta kinh sợ là một bộ mặt khác trong đời sống đã lộ diện: có những nơi đã gây nên tội ác và tin cái ác là cần thiết, người dân chỉ còn biết ngửa mặt lên trời cất lên tiếng khóc bi phẫn.

Lời của một công an viên đánh chết đồng bào của mình, nói rằng họ chỉ muốn "giải quyết mọi việc cho nhanh". Cái "nhanh" đó chưa biết đã đem lại được bao nhiêu đáp án đúng của công lý nhưng đã cướp đi mạng sống của con người, thoả mãn những thú tính và gieo rắc sự sợ hãi trong nhân dân về những nhân vật mặc sắc phục, sẳn sàng bóp chết những người cùng màu da, tiếng nói với mình.

Mới đây (ngày 9-4) thông tin quốc tế cho biết, Dzhokhar Tsarnaev, 21 tuổi, sẽ phải ra toà để chịu phán xét về vụ khủng bố trong cuộc đua marathon ở Boston (Mỹ) vào năm 2013. Tsarnaev đã cùng anh mình nổ bom, làm chết 3 người và hàng trăm người bị thương mà mọi chứng cứ nay đã rõ ràng. Thế nhưng toà án và cảnh sát Mỹ đã phải mất đến 2 năm để điều tra và thu thập dữ liệu, để đưa ra toà một kẻ khủng bố còn khoẻ mạnh và xét xử. Trả lời Q.News, văn phòng công tố nói rằng họ đã tận lực cố gắng để "nhanh" đưa vụ này ra toà.

"Nhanh" của chính quyền ở những nơi khác nhau, rõ ràng cũng khác nhau. Có nơi làm tất cả để trình bày về cái ác. Có nơi thì chính nhân viên công quyền giành nhau để vào vai cái ác, thậm chí tin vào cái ác.

Cũng có ý kiến tiếc thương cho thanh niên 21 tuổi Dzhokhar Tsarnaev, với lý luận rằng "người chết thì đã chết rồi, thôi thì hãy dành chút cơ hội cho người còn sống". Lập luận này cũng được nghe quanh phòng xử án anh Ngô Thanh Kiều, rằng như thế nào chuyện cũng đã "lỡ" rồi, có xử nặng thì cũng không giúp anh Kiều sống lại. Quả đúng vậy, người chết thì đã chết rồi, nhưng cái ác vẫn nhởn nhơ sống và còn được những cơ hội đẹp, như một dẫn chứng mạnh mẽ cho niềm tin vào cái ác.

3 năm và 226 công dân chết trong nhiều khu vực của chính quyền có nhiều không? Và con số này vẫn không dừng lại. Nếu công lý không được lập lại. Nếu sự nguỵ biện và dung dưỡng cho cái ác vẫn còn mạnh mẽ, người dân chỉ còn có thể suy ra rằng đã có những nơi trên đất nước này, như Phú Yên hay Hưng Yên... công an đã trở thành những bộ phận cát cứ hoành hành trên tính mạng con người. Lịch sử nhân loại vẫn ghi lại rằng việc im lặng gieo rắc sự sợ hãi trong tâm lý dân chúng là một phép tính cai trị, đời đời bị nguyền rủa, như bạo chúa Nero (54-68) khi không còn đủ khả năng đồng hành cùng người dân La Mã đi đến tương lai.

Xã hội Việt Nam có quá nhiều ví dụ cho thấy những kẻ phạm tội trong chính quyền, dù trên danh nghĩa là bị kỷ luật, nhưng sau đó lại được chuyển vào những vị trí bù đắp khác, vị trí có thể còn cao hơn, thậm chí thong dong hơn. 

Mọi thứ đang đảo lộn. Lẽ phải bị thử thách như với những người cần phải tử đạo. Cái ác có đang là thứ để tin, để chọn, như một cách để khác biệt với đồng loại mong manh của mình?

Ngày xưa, các bậc cha mẹ vẫn mong con mình thành đạt trong đời, để là bác sĩ, kỹ sư... Nhưng thời nay, không ít gia đình chạy vạy cho con mình vào ngành công an như một bước đi vững chắc và an toàn trong đời. Mọi ngành nghề đều bình thường, và là điều công chính đáng tự hào biết mấy trong xã hội an sinh. Nhưng nếu từ những câu chuyện như của anh Kiều, anh Duân... mà công lý và pháp luật không thể thượng tôn, cái ác trở thành một loại niềm tin, dù chỉ là của một phần rất nhỏ trong dân chúng, thì cũng đó là ngày bất hạnh của dân tộc Việt Nam đã điểm.


CỐ NHÂN



Bóng trăng vẫn soi nghiêng bờ hiên cũ
Gió an nhiên đồng vọng những âm xưa
Đêm mặc nhiệm màu đen mà quyến rũ
Ta ngồi đây gom lại mấy âm thừa..


Có một gã lang thang chiều sương bạc
Rượu một bầu say lất mấy canh thâu
Em xuất hiện khuấy tan mùa hoan lạc
Rồi bay đi- tặng ta mấy cung sầu

Ta chợt tỉnh- đêm tàn thu khép kín
Vẫn bơ vơ vẫn thui thủi một mình
Ta như gã tình hờ luôn mặc định
Một cuộc tình hư hỏng lẫn phiêu linh

Ta vẫn gã lang thang chiều sương bạc
Rượu vẫn nồng vẫn đốt cháy đời nhau
Ta còn lại với nỗi buồn ngơ ngác
Trả lại em- kỷ niệm mới hôm nào..

Bay lượn đi- hỡi loài chim tu hú
Tìm suốt đời cho được tổ diều hâu
Ta cảm ơn một cuộc tình vừa đủ
Để cho ta đốt cháy những men sầu

Bay lượn đi hỡi loài chim bói cá
Tìm cho mình một ốc đảo hoang sơ
Tha hồ nhắm những món mồi xa lạ..
Hãy xem ta – như một cuộc tình hờ…


Hai kẻ cựu thù sau 60 năm rồi cũng phải ngồi lại với nhau để nói chuyện, còn người Việt chúng ta 40 năm chưa đủ thời gian để có thể ngồi lại với nhau để  tìm hướng đi cho dân tộc?
Tổng thống Obama, Chủ tịch Cuba ‘gặp nhau’ thứ Bảy này
Tổng thống Barack Obama (giữa), bên cạnh là Tổng thống Guatemala Otto Perez Molina (trái) và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (R), phát biểu khi ông gặp các tổng thống những quốc gia thuộc Hệ thống Hòa nhập Trung Mỹ SICA ở Panama, 10/4/2015.
Tổng thống Barack Obama (giữa), bên cạnh là Tổng thống Guatemala Otto Perez Molina (trái) và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (R), phát biểu khi ông gặp các tổng thống những quốc gia thuộc Hệ thống Hòa nhập Trung Mỹ SICA ở Panama, 10/4/2015.
Luis Ramirez

VOA -  11.04.2015

Tòa Bạch Ốc cho biết Tổng thống Mỹ Barack Obama và người tương nhiệm của Cuba, Chủ tịch Raul Castro, dự kiến sẽ "gặp nhau" vào ngày thứ Bảy, trong một cuộc gặp gỡ lịch sử tại Hội nghị Thượng đỉnh châu Mỹ ở Panama.
Phó cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ Ben Rhodes nói với báo giới ở thành phố Panama hôm thứ Sáu rằng hai nhà lãnh đạo sẽ hội kiến trong lúc diễn ra hội nghị thượng đỉnh, nhưng không có cuộc đàm phán song phương chính thức nào được lên kế hoạch vào thời điểm này.

Nhắc đến cuộc điện đàm giữa ông Obama và và ông Castro hôm thứ Tư, ông Rhodes cho biết hai nhà lãnh đạo đã duyệt xét những nỗ lực khôi phục hoàn toàn quan hệ ngoại giao Mỹ-Cuba, nhưng vẫn còn những "khác biệt" tồn tại giữa đôi bên. Ông Rhodes cho biết Tổng thống Obama thừa nhận xã hội dân sự của Cuba vẫn còn đối mặt với sự quấy rối, nhưng tin rằng một chính sách giao tiếp với chính phủ Cuba có thể có một tác động tích cực.

Cuộc điện đàm giữa ông Obama và ông Castro được tiết lộ chỉ sáng ngày thứ Sáu. Hai nhà lãnh đạo đã nói chuyện với nhau trước khi ông Obama rời Washington đến vùng biển Caribe. Họ cũng đã có một cuộc điện đàm ngắn vào tháng 12 năm ngoái, trước khi ông Obama công bố sự chuyển dịch trong chính sách của Mỹ đối với Cuba.

Tổng thống Barack Obama đã tới thủ đô của Panama vào tối hôm thứ Năm để dự Hội nghị Thượng đỉnh châu Mỹ, lần đầu tiên có sự hiện diện của Cuba.

Bên lề hội nghị thượng đỉnh, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tối thứ Năm đã gặp người đồng cấp của Cuba, trong cuộc gặp gỡ trực tiếp cấp cao nhất từng diễn ra vào thời điểm đó giữa hai nước nhiều thập niên qua.

Một giới chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Mỹ nói cuộc thảo luận với Ngoại trưởng Cuba Bruno Rodriguez “rất có tính rất xây dựng,” và nói thêm rằng cả hai bên “đồng ý rằng họ đã đạt tiến bộ.”

Giới chức này không nêu rõ chi tiết, nhưng nhấn mạnh rằng cả hai bên sẽ “tiếp tục làm việc để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng.”
Bộ Ngoại giao Mỹ đăng lên trang Twitter hình ảnh Ngoại trưởng Kerry đang bắt tay với ông Rodriguez, cả hai đều mỉm cười.



Lời sám hối muộn màng



---------- Forwarded message ----------
From: Van-Nghe
Lời sám hối muộn màng

Hôm nay ngày 3 tháng 3 năm 2015, tôi quyết định viết bài sám hối này để dứt khoát với những sai lầm trong quá khứ và nhân dịp chính thức xin lỗi tất cả người dân miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở xuống) cùng với hàng triệu người Việt Nam di tản trốn ngục tù cộng sản, đã hy sinh hay đang sinh sống khắp nơi trên thế giới.
Trước hết tôi xin tự giới thiệu. Tôi tên là Lê Quốc Trinh, sinh năm 1948 cư ngụ tại Canada từ năm 1967, là kỹ sư cơ khí về hưu, gia đình gốc Việt Nam, nuôi dưỡng con cái theo truyền thống Việt Nam. Cha mẹ tôi là người miền Bắc, 1945 di cư vào Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam, tại Saigon thân yêu; tôi được hấp thụ một nền giáo dục cao thượng, nhân bản, nồng nàn yêu nước dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa; vì thế, tôi không thể nào quên công ơn của toàn thể nhân dân và chính phủ miền Nam đã góp phần đào tạo tôi thành một con người lương thiện, biết tư duy và có tình cảm.
Lời xin lỗi
Trước hết tôi thành thật xin lỗi cố tổng thống Ngô Đình Diệm vì hành động theo đuôi phong trào Phật giáo xuống đường chống đối chính phủ trong lúc không hiểu rõ nguồn cơn và sự thật của vấn đề. Năm 1963 tôi còn là một thanh niên trẻ tuổi bồng bột; là một học sinh trường trung học Võ Trường Toản, sát cạnh dinh tổng thống nên tôi dễ dàng bị lôi cuốn theo những đoàn biểu tình một cách thiếu ý thức. Qua đến Canada tôi tìm, hiểu được thêm nhiều chi tiết lịch sử, được nghe các nhân chứng kể lại về phong trào Phật giáo, và tôi truy ra được nguồn gốc của sự kiện. Tôi sẽ trình bày rõ thêm về vấn đề sau này.
Thứ hai, tôi thành thật xin lỗi gần hai triệu người tị nạn miền Nam Việt Nam đã vượt biển, vượt biên đi tìm tự do(1), vì những hành vi khi tôi sinh hoạt và đóng góp tích cực cho Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada (HVKYNTC), từ năm 1973 đến năm 1990. Tôi đã vô tình tiếp tay cho một tổ chức ủng hộ và phục vụ cho Đảng Cộng sản và Nhà Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là CHXHCN Việt Nam, làm những việc góp phần xây dựng cho một chế độ phi nhân bản, phản khoa học tại quê nhà. Tôi sẽ tiếp tục trình bày cặn kẽ những sự kiện xảy ra ở trong tổ chức này này để tất cả bạn đọc có thể thấy rõ bộ mặt thật của một nhóm người gọi là trí thức thân Cộng trong thời gian Hội còn hoạt động (1969-1990) và cho đến ngày nay.
Thứ ba, tôi thành thật xin lỗi các bác, các anh chị, công chức chính phủ và toàn thể các chiến sĩ, sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh để bảo vệ tự do – trong gần 21 năm, 1954-1975 – và đời sống của người dân miền Nam Việt Nam. Tôi rời Sài Gòn, du học từ cuối năm 1967, nên không có công lao gì trong công cuộc chiến đấu đầy xương máu chống cộng sản xâm lược từ phía Bắc. Có quá nhiều tấm gương hy sinh quả cảm của sĩ quan và binh sĩ quân lực Việt Nam Cộng hòa mà tôi không biết đến, đó là lỗi lầm và thiếu sót của tôi. Đến nay nhờ thông tin quảng bá trên mạng lưới Internet và qua thông tin cặn kẽ từ nhiều trang báo mạng hải ngoại mà tôi mới thực sự hiểu nỗi thống khổ và hy sinh của các anh chị, các bác trong hàng ngũ quân cán chính Việt Nam Cộng hòa.

Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ
Thật tình mà nói, tôi đã hoạt động tích cực ở đủ mọi lĩnh vực trong một tổ chức thân cộng hơn 17 năm ròng nhưng không hề bị tư tưởng Mác Lê ảnh hưởng vì những yếu tố sau:
- Là người suy nghĩ độc lập, bướng bỉnh, không a dua và không quỵ luỵ từ nhỏ;
- Thích đọc sách, truyện, bị lôi cuốn theo lối sống miền Nam ngày trước, chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hoá miền Nam dân chủ tự do.
- Gần 40 năm hoạt động trong ngành công nghiệp khai khoáng và hoá dầu của Canada tôi đã học được nhiều điều hay về cách tổ chức, tư duy, cách làm việc trung thực của hệ thống tư bản Bắc Mỹ. Điều này đã giúp tôi đã gạn bỏ đi nhiều tàn dư rơi rớt trong lối học từ chương của Việt Nam thời xưa cũng như tinh thần bảo thủ phương Đông; kinh nghiệm làm việc đã giúp tôi hiểu rõ xã hội tư bản hơn và tránh được cạm bẫy dụ dỗ của ý thức hệ cộng sản Mác Lê, và đã giúp cho tôi có cái nhìn chính xác về những con người trí thức thiên tả tháp ngà trong Hội VKYNTC.
- Tôi cũng có được những tấm gương yêu nước dưới thời thực dân Pháp từ những bậc tiền bối của gia đình. Ông ngoại tôi, cụ cử Nguyễn Hữu Cầu, ông bác tôi, cụ Từ Long Lê Đại, là hai trong số những sáng lập viên Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, đã từng bị thực dân Pháp bắt giam đầy ra đảo hơn 17 năm trời. Bác tôi, cư sĩ Phật học nổi tiếng Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, người soạn ra bộ Hán Việt Tự Điển lừng danh, cũng từng bị Việt Minh đem ra đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất 1954 khiến ông đã phải trầm mình tự tử để minh oan. Tôi sẽ có dịp nói nhiều đến những kỷ niệm khó quên về mặt tâm linh với bác Hai Kha Thiều Chửu cùng con cháu hậu duệ đã giúp tôi lần dò tìm lại truyền thống yêu nước của giòng giõi nhà Nguyễn Đông Tác ở Hà Nội.
- Là một trong những thành viên tích cực hoạt động giúp HVKYNTC vì tôi nghĩ rằng mình đang góp phần giúp ích cho quê hương; với kinh nghiệm của một kỹ sư cơ khí thích thiết kế và sáng tạo, tôi là người phụ trách chính về công cuộc cải tạo xây dựng lại Hội quán, số 1450 đường Beaudry, Montreal, giúp cho Hội đoàn này có cơ sở vật chất vững mạnh để phát triển thịnh vượng từ năm 1984 đến 1990. Và tôi cũng có một số hiểu biết nhất định về nhiều vấn đề liên quan đến những công ty kinh doanh do một số nhân vật trong ban lãnh đạo Hội đứng đầu. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở những bài sau.

- Mẹ tôi là một hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, tận tuỵ tần tảo hy sinh xây dựng gia đình, nuôi nấng con cái. Nhà in Hưng Long, ở Chợ Cũ Saigon, do mẹ tôi thành lập từ 1960, đã từng in ấn rất nhiều kinh sách nhà Phật. Tôi là thầy cò, có trách nhiệm kiểm tra văn tự, lỗi chính tả trước khi lên khuôn. Do đó tôi có cơ duyên tiếp xúc với triết lý nhà Phật sớm; sau này, qua nhiều tác phẩm của bác Thiều Chửu tôi lại có dịp tìm hiểu nghiên cứu thâm sâu về đạo Phật. Mạng lưới Internet cùng với nhiều diễn đàn đã giúp tôi hiểu rõ phong trào Phật giáo thời 1963, cùng với kinh nghiệm sống trong xã hội tự do dân chủ tư bản ở Bắc Mỹ đã khiến tôi đã phải tự thay đổi tư duy để có quan điểm đúng đắn về lĩnh vực tôn giáo tâm linh;
- Tôi là người thích âm nhạc từ nhỏ, tự học thổi sáo, chơi khẩu cầm, đánh đàn mandoline, và tôi đã đi vào thế giới tân nhạc Việt Nam với cả trái tim nồng nhiệt. Tôi đã từng mời nhiều em khiếm thị ở trường Mù Saigon đến nhà giúp tôi học thêm về lý thuyết và thực hành âm nhạc. Tôi biết đến nhạc tiền chiến rất sớm, thưởng thức nhiều bản nhạc xa xưa ngay tại miền Nam trong những năm 1960, những tác phẩm mà chính quyền cộng sản miền Bắc đã nghiêm cấm. Tôi sưu tầm những bản hùng sử ca Việt Nam từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp để hiểu rõ thêm bối cảnh lịch sử và tâm tư của nhiều nhạc sĩ dân gian nổi tiếng. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ thêm sau này.
Đối tượng của lời sám hối
Tôi biết trước những hậu quả khó tránh khỏi khi viết bài đăng tải rộng rãi trên các trang báo Mạng. Trước tiên là tình bạn hữu có thể sẽ bị sứt mẻ trầm trọng với những người tôi từng sát cách sinh hoạt trong HVKYNTC; sau nữa là những thay đổi có thể có trong quan hệ gia đình từ Canada cho đến Việt Nam. Tôi chấp nhận tất cả và xem như đó là cái giá có thể phải trả; tôi sẽ chấp nhận, chịu đựng mọi hệ quả để lương tâm được thanh thản không còn bị giầy vò.
Tuy nhiên, tôi xin phép có đôi lời nhắn gởi đến với tất cả các anh chị bạn bè quý mến trong Hội.
Thân gửi các anh chị em quý mến trong Hội,
Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của các anh chị em hơn hai năm qua, từ khi tôi viết và đăng trên Mạng bài “Sự thật nằm sau bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”(2). Tôi đã gửi riêng cho các anh chị bài viết đó qua e-mail để giúp các anh chị tìm hiểu rõ hơn nội dung bức công hàm và bối cảnh lịch sử xung quanh sự kiện rất quan trọng này. Thế nhưng tôi đã hoài công và vô cùng thất vọng, vì không được một câu trả lời dù đồng ý hay phản đối lập luận của tôi. Tôi xin phép được nhắc lại bài viết đó để anh chị đọc lại và cho cộng đồng người Việt hải ngoại cùng xem và phê phán.
Hai năm trôi qua, những gì xảy ra ở Biển Đông, xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã đủ để chứng minh cho những lập luận, phân tích và nhận định của tôi. Trung Quốc càng ngày càng hung hăng, xâm lấn ngang ngược. Trong khi đó thì tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà Nước CHXHCN Việt Nam lại càng co vòi, lép vế, ngậm miệng nín khe. Họ cùng ngồi yên, nhìn ngư dân Việt Nam bị cướp phá uy hiếp. Tất cả đều chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam chỉ là một bè lũ bù nhìn, bán nước. Họ đã lấy giang san lãnh thổ đem bán – bằng văn tự – cho lũ láng giềng hung tợn phương Bắc, để nhận được viện trợ vũ khí đạn dược, nhiên liệu thực phẩm, hầu thực hiện mưu đồ chiếm nốt miền Nam trù phú phì nhiêu. Trong khi đó, ngay sau khi Trung Quốc đưa Tuyên bố về Lãnh hải ngày 4 tháng 9, 1958 chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, bằng hành động, đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ ở đảo Quang Hòa(3) và ở quần đảo Hoàng Sa bằng trận hải chiến năm 1974, cũng như những công văn gởi đến Liên Hiệp Quốc phản đối CHNDTH vi phạm trắng trợn chủ quyền Việt Nam(4).

Công văn của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi Chủ tịch HĐ Bảo an LHQ, Gonzalo Facio, phản đối CHNDTH trắng trợn vi phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, trang 1/5 (New York, 18/01/1974).
Các anh chị theo dõi sát tình hình Biển Đông từ lúc dàn khoan HD-981 lừng lững đi vào lãnh hải Việt Nam và ngang nhiên cắm sào thăm dò dầu khí của Việt Nam. Các anh chị cũng đã xuống đường phản đối theo đúng chỉ thị… rồi sau đó mọi việc, một cách êm thắm, lại đâu vào đó. Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang nhiên xâm phạm biển đảo Việt Nam, và anh chị vẫn im hơi lặng tiếng. Đó có phải là hành động và tư cách của những con người trí thức hải ngoại, những người đã từng hấp thụ một nền giáo dục nhân bản, khai phóng của miền Nam Việt Nam, những người từng vỗ ngực tự xưng là Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada?
Tôi rất mong các anh chị suy nghĩ lại, đặt quyền lợi đất nước và con người Việt Nam lên trên tất cả mọi quan hệ lợi nhuận riêng tư với chế độ cộng sản đương quyền, để cùng nhau lên tiếng sám hối vì an nguy của cơ đồ tổ quốc. Cơ hội để cứu nguy cho đất nước không còn nữa đâu! Hơn 60 năm qua, chủ nghĩa cộng sản ngấm quá sâu vào não trạng người dân miền Bắc, toàn thể Bộ Chính trị đảng cộng sản và tập đoàn lãnh đạo Nhà Nước Cộng sản Việt Nam đã và đang bị thế lực từ phương Bắc uy hiếp, mua chuộc, ly gián. Bài học lịch sử về tình báo, nội gián Trọng Thủy-Mỵ Châu vẫn là tấm gương lớn cho hậu thế luận cổ suy kim. Giặc bên ngoài và bè lũ tay sai nội gián bên trong đã và đang gặm nhấm, bào mòn truyền thống yêu nước chống xâm lược của dân tộc, các anh chị chưa thấy sao? Nếu quả thật văn kiện bí mật từ Hội Nghị Thành Đô năm 1990(5) có thật, vì Đảng và Nhà Nước Việt Nam vẫn còn ngậm miệng nín khe trước sức ép dư luận trong nước [xem thêm Kiến Nghị của 61 vị nhân sĩ tướng tá QĐND Việt Nam năm 2014], thì chúng ta chỉ còn không tới 5 năm để lên tiếng phản kháng và để nuôi hy vọng dân tộc Việt Nam sẽ thoát khỏi ách thống trị Đại Hán. Các anh chị không cảm thấy quan tâm, áy náy và trăn trở trước vấn đề nghiêm trọng này hay sao?
Nguyện vọng tương lai
Nghĩ lại thời gian đã qua, tôi thầm tiếc nuối cho một đời thanh niên đã bị lừa dối, bị đánh cắp, và cảm thấy rất ăn năn vì đã không trực tiếp góp phần với cuộc đấu tranh đòi lại công lý cho toàn thể nhân dân miền Nam. Tôi cảm thấy xấu hổ khi có lúc đã sử dụng ngôn ngữ tuyên truyền của chủ nghĩa cộng sản một cách vô ý thức. Nay là lúc cần phải phân tích và tìm hiểu cặn kẽ, nhận định rạch ròi xem ai mới chính là những kẻ “phản động, phản quốc, bù nhìn, tay sai ngoại bang”. Như thế là một phần nhỏ góp vào việc viết đúng sự thực lịch sử Việt Nam cận đại, đặt quân cán chính và người dân miền Nam Việt Nam cũng như hàng triệu người tị nạn cộng sản khắp nơi vào đúng vị trí trong lịch sử nước nhà. Lời sám hối của chúng ta có thể là những nhúm lửa nhỏ đốt cháy những ngôn từ tuyên truyền của tập đoàn cộng sản đang tiếp tục lừa bịp nhân dân Việt Nam và cả những thế hệ tiếp nối của chúng ta.

Tôi rất mong được đứng nghiêm, chào lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa và cất cao tiếng, hát bài Tiếng Gọi Thanh Niên (Quốc Ca Việt Nam Công hòa) ngày trước. Tôi rất mong được trở về quê hương như một kỹ sư đã nghỉ hưu, đem 40 năm kinh nghiệm ở xứ người góp phần phục vụ đất nước trước khi chết.

Đường Hàm Nghi – Sài Gòn 1967, ngày ấy tôi đi.
Lê Quốc Trinh
Montréal, Canada 4 tháng 3, 2015
(1) 1,642,179 người đã rời bỏ Việt Nam (kể cả người gốc Hoa và người miền núi) đi tị nạn khắp thế giới trong giai đoạn 1975 – 1997. Canada đã nhận định cư cho 163,415 người. Nguồn: Robinson, W. Courtland, Terms of Refuge,United Nations High Commissioner for Refugees, London: Zed Books, 1998 p. 270, 276, Appendix 2; Far Eastern Economic Review, June 23, 1978, p. 20.
(2) Lê Quốc Trinh, Sự thật nằm sau “Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”, Dân Làm báo, 30/04/2013.
(3) Năm 1957, hãng thông tấn Tân Hoa (New China News Agency) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa tin “quân đội miền Nam Việt Nam của Ngô Đình Diệm” đã chiếm đóng các đảo Hữu Nhật (Robert), đảo Hoàng Sa (Pattle), đảo Quang Ánh (Money) thuộc quần đảo Hoàng Sa. (Nguồn: South Vietnam Troops Illegally Occupied Chinese Island, NCNA, New China News Agency Peking, March 6, 1957 in SCPM, no. 1486 (March 11, 1957), p.22  trích dẫn lại trong Hungdah Chiu & ChoonHo Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28).
Ngày 4 tháng 9, 1958 chính phủ nước CHNDTH công bố Tuyên bố Lãnh hải 12 hải lý kể cả các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như Bãi Macclesfield (quần đảo Trung Sa). Ngày 22 tháng Hai, 1959, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã trả lời Trung Cộng bằng hành động, Hải quân VNCH đã đến đảo Quang Hòa bắt 82 ngư dân Trung Hoa (sau đó đã trả tự do) và một tháng sau đó lại khẳng định chủ quyền của Việt Nam một lần nữa, cũng tại đảo Quang Hòa. (Nguồn:Statement of the Ministry of Foreign Affairs on the Encroachment upon Our Territorial Sovereignty and the Capture of Our Fishermen by the South Vietnamese Authorities, February 27, 1959, in Chung-hua jen-min kung-ho-kuo tui-wai kuan-hsi wen-chien-chi, vol. 6, 1959, pp. 27-28; Further Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China Protesting the Illegal Acts of the South Vietnamese Authorities on the Encroachment of Our Territorial Sovereignty, Capture and Mistreatment of Our Fishermen, April 5, 1959, ibid., pp. 37-38 trích dẫn lại trong Hungdah Chiu & ChoonHo Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28).
(4) Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông Gonzlio Facio, Chủ tịch HĐ Bảo an LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp Quốc, Số 2142 UN/VN và 2143 UN/VN. Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông Kurt Waldheim, Tổng thư ký LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp Quốc, Số 2144 UN/VN.
(5) Nguyễn Trọng Vĩnh – Mặc Lâm (RFA), Hậu quả sau hội nghị Thành Đô? RFA, 2012-10-09


__._,_.___

Posted by: truc nguyen

BBC, chiếc loa rỉ đầu làng của VC!


Xin chuyễn đọc bài viết của Hữu Nguyên và trích đoạn một bài viết khác như hai giòng tư tưởng hợp lưu của hai tác giả về một vấn đề thời sự.
Paul Vân

...Các anh hãy đoàn kết chặt chẽ với Đảng và nhân dân để đánh bại bọn xâm lược Bắc Kinh[Câu nói này đã được Lê Phát Minh, cánh tay phải của Chủ Tịch Đảng LMDC Ngô Thanh Hải dỏng dạc lập lại  lời tuyên bố của cán bộ VC như câu chuyện đọc được phổ biến dưới đây ] 
Và cán bộ hô to:
- Đả đảo bọn bành trướng bá quyền xâm lược Bắc Kinh!
- Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!
Cả hội trường vổ tay hoan hô, đả đảo ầm ĩ.
Một người ghé miệng vào tai Tám Biền nói nhỏ:
- Chắc lúc đó, mình hết phải ăn củ mì rồi anh Tám. Mười lăm năm nữa tha hồ mà ăn thịt há?
Tám Biền nổi máu nóng:
- Đ.M. Nghe Cộng Sản nói thì có mà ăn cứt!

PQTrinh

---------- Forwarded message ----------
From: Huu Nguyen <
Date: 2015-04-09 9:33 GMT-07:00
Subject: Hữu Nguyên: BBC, chiếc loa rỉ đầu làng của VC!
To: Huu Nguyen <>




​Phỏng vấn giả tưởng
BBC, chiếc loa rỉ đầu làng của VC!
Hữu Nguyên (huunguyen@saigontimes.org)

LGT: Internet có trang web, chuyên phỏng vấn những người nổi tiếng đã chết (Interviews with the Famously Departed) cả trăm năm như Charles Dickens (1812-1870), Mark Twain (1835-1910), Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln (1809-1865), Tổng Thống Mỹ Thomas Jefferson (1743-1826); hay đã qua đời hơn 2 ngàn năm như những triết gia Socrates (470-399 BC), Plato (437-347 BC), Aristotle (384-322 BC). Đặc biệt, Art Buchwald (1925-2007), một nhà văn nhà báo nổi tiếng thế giới, tác giả của 30 tác phẩm, và hàng ngàn bài viết trên 550 nhật báo, tuần báo, tạp chí trên thế giới, là Tổng biên tập nhật báo New York Herald Tribune ở Paris, từng được trao giải thưởng Pulitzer vào năm 1982, được phong tặng là bậc thầy về phỏng vấn giả tưởng (the master of fictional interviews), cũng có những bài phỏng vấn giả tưởng các nhân vật nổi tiếng, kể cả Tổng Thống Barack Obama... Noi gương các bậc tiền bối, chúng tôi mở mục phỏng vấn giả tưởng (fictional interview), thuần tuý do trí tưởng tượng của người viết. Mọi kết luận đúng sai, có lý hay vô lý... hoàn toàn thuộc quyền độc giả.

Trước 1975, chương trình Việt ngữ của đài BBC rất có uy tín đối với người Việt khắp thế giới. Sau 1975, cùng với việc xâm lăng và chiếm đóng trọn vẹn Miền Nam, VC cũng dần dần thâm nhập và biến BBC thành chiếc loa rỉ đầu làng của VC. Vì vậy, mấy chục năm qua, không biết bao nhiêu lần, người Việt hải ngoại lên tiếng góp ý, phản đối những chương trình tuyên truyền cho VC của BBC. Rồi mới đây, chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Trung Cộng của TBT VC Nguyễn Phú Trọng, suốt hai tháng qua, BBC vội vã đăng những tin o bế VC một cách lố bịch như, "Tổng Bí thư VN sẽ thăm TQ hay Mỹ trước?" (13.2.15), "TBT Nguyễn Phú Trọng có sang Mỹ năm nay?" (16.2.15), "Ông Trọng được mời gấp thăm Trung Quốc" (4.4.15), "TQ lo sợ chuyến thăm Mỹ của ông Trọng" (4.4.15)...

Đọc những tin đó, độc giả đều dễ dàng nhận thấy, BBC không đưa ra được những sự kiện thực tế (fact) có giá trị và khả tín, mà chỉ là những giả thuyết vu vơ. Không những thế, những giả thuyết đó cũng nghèo nàn một cách tội nghiệp, vì nó chỉ dựa trên căn bản suy diễn, của những cán bộ VC được mệnh danh là "nhà quan sát", nhưng thiếu chất xám và nói như vẹt, để cùng tung hứng với chiếc loa rỉ đầu làng BBC, phục vụ cho đường lối tuyên truyền của VC: Tạo cho độc giả của BBC có ảo tưởng, VC hiện đang rất có giá, cả Mỹ và Trung Cộng đều cố gắng ve vãn VC; Thái độ của VC đối với Mỹ và TC sẽ đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến bang giao giữa hai quốc gia Mỹ và TC.

Đọc nhan đề của bản tin, "Ông Trọng được mời gấp thăm Trung Quốc""TQ lo sợ chuyến thăm Mỹ của ông Trọng", một người bình thường cũng nhận ra cái què quặt, tự mâu thuẫn của BBC. Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí Thư đảng, chức vụ cao nhất trong chế độ CS; vậy mà Trung Cộng bất chấp nghi lễ ngoại giao, thể diện quốc gia, "mời gấp thăm Trung Quốc". Như vậy, rõ ràng TC đã coi NPT là một tên đầy tớ, gọi dạ bảo vâng. Và khi được gọi gấp, NPT cũng vâng lời vội vã sang thăm. Như vậy, rõ ràng NPT cũng ngoan ngoãn chấp nhận thân phận khuyển mã đối với quan thầy TC. Trước thái độ hiển nhiên của cả chủ lẫn tớ như vậy, cộng với hàng loạt sự kiện lịch sử trong thời gian qua, chứng minh mối quan hệ nô bộc của VC đối với TC, vậy mà BBC vẫn coi thường độc giả, đăng một bản tin với cái tựa đề ngây ngô: "TQ lo sợ chuyến thăm Mỹ của ông Trọng"!!! Phải chăng, BBC đã tệ hại đến độ trở thành bồi bút cho VC, đúng như mấy câu thơ của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện:

Các loại bồi đều vô cớ bị ô danh
Bởi ông bạn cùng nghành
Có học có hành hẳn hoi là bồi bút.

Bài phỏng vấn giả tưởng dưới đây, dựa vào những sự thật nêu trên.

Thân phận nô bộc của VC Nguyễn Phú Trọng đối với TC qua cái nhìn âu yếm của ​Tập Cận Bình

HỎI: Ông nghĩ gì về bản tin của BBC, "Ông Trọng được mời gấp thăm Trung Quốc"?
VC NPT: Bản tin đó... đúng là giấu đầu lòi đuôi, rất bất lợi cho VC chúng tôi. Nhưng lỗi không phải tại BBC mà tại chúng tôi. BBC chỉ biết nhận lệnh rồi cắm đầu vội vã làm chứ đâu có suy nghĩ gì.
HỎI: Tại VC các ông?

VC NPT: Đúng vậy. Đầu đuôi nó thế này. Xưa nay, chuyện viếng thăm các quốc gia bao giờ cũng được chúng tôi lên kế hoạch trước đó từ sáu tháng đến một năm, chứ có bao giờ nước đến chân mới nhảy. Mấy chục năm trước, nguyên tắc viếng thăm của chúng tôi bao giờ cũng Liên Xô trước, rồi đến Trung Cộng, sau đó mới tới các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Khoảng hai chục năm gần đây, Liên Xô và các nước CS Đông Âu sụp đổ, thì chúng tôi bắt buộc phải viếng thăm Trung Cộng đầu tiên, rồi đi đâu thì đi. Bằng chứng, trước đây, chủ tịch VC Trương Tấn Sang phải thăm TC vào tháng 6.13, rồi mới sang thăm Mỹ vào tháng 7.13.

Dĩ nhiên, đó là chính thức, công khai. Còn bí mật đi đêm thì khi nào lãnh đạo TC gọi, lập tức chúng tôi phải có mặt.
HỎI: Nếu vậy, TC đâu cần phải "mời gấp" ông sang thăm?
VC NPT: Thì TC đầu có mời mà gấp mới không gấp. Chẳng qua, TC cho gọi đột xuất như vậy là TC muốn cho thế giới, nhất là Hoa Kỳ thấy rõ sự thật, VC chúng tôi là đầy tớ, gọi gấp là chúng tôi phải sang hầu. Nói đúng hơn, TC muốn làm nhục chúng tôi. TC biết, làm nhục vậy chứ nhục nữa, chúng tôi cũng phải cắn răng chịu và răm rắp vâng lời.

HỎI: Nếu vậy tại sao VC các ông phải giật dây cho BBC đăng tin ông "được mời gấp thăm Trung Quốc"?
VC NPT: Thì chúng tôi tính gỡ gạc chút thể diện, bằng cách cho chạy tin đó, để thế giới hiểu, VC chúng tôi rất có giá. Thấy tôi sắp đi Mỹ, TC vội vã hoảng hốt cho "mời gấp" tôi sang thăm. Sau khi đăng tin rồi, chúng tôi mới thấy đúng là giấu đầu lòi đuôi, ai đọc cũng thấy thân phận đầy tớ của VC chúng tôi. Vì trên phương diện ngoại giao quốc tế xưa nay, đâu có khi nào một quốc gia "mời gấp" vị nguyên thủ của một quốc gia khác sang thăm trong thời gian gấp rút, để rồi ký một loạt 7 thoả ước, như tôi đã ký với Tập Cận Bình, ngay khi tôi vừa chân ướt, chân ráo tới Bắc Kinh?

HỎI: 7 thoả ước đó đã được soạn sẵn?

VC NPT: Đúng, được soạn sẵn từ lâu. Nhiều lần chúng tôi đòi ký, nhưng TC bảo từ từ, khi nào cần ký thì TC sẽ gọi.
HỎI: Như vậy, ông hoàn toàn bất ngờ khi được TC "mời gấp" sang thăm?
VC NPT: Sao ông cứ nói "mời gấp, mời gấp" hoài vậy? Phải nói là "gọi gấp" mới chính xác. Đúng, tôi hoàn toàn bất ngờ, nhưng...
HỎI: Nhưng?...
VC NPT: Nhưng chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng, chờ TC gọi...
HỎI: ???
VC NPT: [mỉm cười tinh quái] Ông không hiểu? Đơn giản, xưa nay đầy tớ nào chả chuẩn bị sẵn sàng để chủ gọi. Không những tôi, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, mà tất cả 16 uỷ viên Bộ Chính Trị, các bộ trưởng, thứ trưởng VC, đều sẵn sàng, chờ TC gọi là vâng lệnh lên đường.

Cánh tay của VC Nguyễn Phú Trọng là cánh tay của một người con yếu đuối, còn bé, ôm ba má.

HỎI: Cam phận làm đầy tớ cho TC như vậy, VC các ông không biết nhục sao?
VC NPT: Nhục lắm chứ. sự thực, VC chúng tôi đâu chỉ là đầy tớ. Chúng tôi là những kẻ cõng rắn cắn gà nhà. Vì thế, ngay cả vợ con chúng tôi cũng chửi. Nhưng vì sự sống còn của đảng, của bản thân, chúng tôi chấp nhận. Dù sao, trước kia, VN mình cũng đã có Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống... cõng rắn cắn gà nhà. Chúng tôi chỉ là những kẻ hậu sanh noi gương tiền nhân thôi.

HỎI: Ông nghĩ sao khi BBC đăng tin "TQ lo sợ chuyến thăm Mỹ của ông Trọng"?

VC NPT: Phải thú nhận, đó là một tin rất lố bịch. Tin trước đã lố bịch, giấu đầu lòi đuôi, khiến mọi người thấy thân phận VC chúng tôi là đầy tớ của TC, thì làm sao có chuyện TC lo sợ chuyến thăm Mỹ của tôi? Đúng là tin sau chửi tin trước. Nhưng đây là lỗi của BBC. Muốn cầm đèn chạy trước ô tô, nịnh bợ chúng tôi, nhưng chạy quá xa, quá lố.
HỎI: Nghĩa là TC không hề lo sợ chuyến thăm Mỹ của ông?
VC NPT: Làm sao TC lo sợ được? Dù cho VC chúng tôi có thăm quốc gia nào đi nữa, thì chúng tôi cũng không thoát khỏi thân phận cá chậu chim lồng của TC. Hơn nữa, chúng tôi cũng không muốn thoát nữa. Thoát đi đâu, với ai? Bao nhiêu lãnh đạo độc tài trên thế giới, khi còn có quyền có thế, thì thế giới bang giao. Nhưng một khi bị thất thế, là họ xúm vô làm thịt để làm vui lòng tân chế độ. Vì vậy, chúng tôi tình nguyên làm đầy tớ TC, tình nguyện làm con chó giữ vườn sau cho TC. Nhất là từ khi Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng ký kết mật ước Thành Đô vào năm 1990, thì chúng tôi càng cam tâm chấp nhận vĩnh viễn thân phận khuyển mã cho TC.

HỎI: Mật ước Thành Đô? Có phải Mật ước, VC chấp nhận VN trở thành khu tự trị của liên bang Trung Cộng?
VC NPT: [im lặng...] Sợ còn hơn thế!!!
HỎI: Như vậy, không hề có cái gọi là “hiểm hoạ Bắc phương”?
VC NPT: [cười hì hì khả ố…] Đó là cạm bẫy chính trị của chúng tôi, nhằm lôi kéo những ai dại dột tin tưởng, chấp nhận đứng dưới cờ máu để cùng VC chúng tôi chống Tàu.
HỎI: Như lời tuyên bố “Về phương diện bảo vệ tổ quốc chúng ta phải đứng cùng CSVN” của Lê Phát Minh, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam?
VC NPT: [cười hô hố…] Đúng vậy. Làm chính trị mà ngây ngô như ông LPM thì thật tội nghiệp. Chúng tôi vừa dương bẫy, cho chút mồi thơm, là ông ta chui vô liền. LPM cứ tưởng VC chúng tôi sẽ bắt tay, chia ghế cho họ để họ chống Tàu cùng với chúng tôi. Nhưng Tàu cộng với chúng tôi là tình đồng chí, tình chủ tớ, còn gấp bội tình cha con, làm sao chúng tôi chống. Hơn nữa, ông LPM chỉ có loe ngoe vài chục người, tuổi ai cũng trên sáu bó, thì chống ai? Thú thiệt, Liên Minh Dân Chủ VN thời còn GS Nguyễn Ngọc Huy, thì chúng tôi kiêng nể và lo sợ. 

Chứ sau này, trong LMDCVN, người thì mượn cớ protocol của Úc để không chịu chào cờ VNCH trong Đại Hội Phụ Nữ, người thì dại dột đòi bắt tay VC chúng tôi để chống Tàu, người thì núp dưới bình phong “hành trình tìm tự do” để xoá Ngày Quốc Hận 30.4… thì đâu có gì để chúng tôi lo ngại nữa. Chính cộng đồng người Việt hải ngoại của các ông cũng tẩy chay họ, chống đối họ, khinh bỉ họ, thì họ lấy tư cách gì để bắt tay chúng tôi. 
Điều này, tôi phải thú thực, với những người trước sau như một chống đối VC, chúng tôi tuy coi họ là kẻ thù, nhưng chúng tôi kính trọng họ và sợ hãi họ. Còn những ai dại dột tìm cách hoà hợp hoà giải với VC, nịnh bợ VC… thì VC chúng tôi sẵn sàng dùng họ, nhưng khinh bỉ họ và nếu cần, sẽ loại bỏ họ. Nên nhớ, ngay cả những người cả đời đi theo VC như Trần Độ, Nguyễn Hộ, Ngô Bá Thành… còn bị VC chúng tôi trừ khử khi cần, huống chi những kẻ phản bội VNCH, phản bội cộng đồng người Việt đã hậu thuẫn họ, quay ra trở cờ chạy theo chúng tôi đòi chia ghế, chia quyền, thì làm sao chúng tôi tin dùng họ được.
Hữu Nguyên


__._,_.___

Posted by: Paul Van 

Cảm xúc ngày 30.4 (LS Nguyễn Văn Đài)





http://nguyentran.org/BMTT/Hinh/NgayQH4.jpg


Mỗi dịp 30-4 hàng năm, tôi lại nhận được câu hỏi của những người đồng bào Việt Nam ở hải ngoại là “anh nghĩ và có cảm xúc gì khi sắp tới ngày 30-4?”. Tôi lại có dịp kể cho họ nghe về suy nghĩ và cảm xúc của mình.

* Từ nhỏ cho đến năm mười chín tuổi, mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi đó là ngày chiến thắng và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế.

Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức (cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.

Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ cộng sản.

* Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.

Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975, trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,... và trên mọi cấp độ từ trung ương đến địa phương.

Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ và sự toàn ven lãnh thổ quốc gia đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.

* Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”
Tôi trả lời: Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.
Luật sư Nguyễn Văn Đài
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2013

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
__._,_.___

Posted by: Nhat Lung 

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link