Saturday, February 6, 2016

LẠI THÊM MỘT TẾT MONG CHỜ NÊN MAI-ĐÀO VẪN HỮNG HỜ VỚI XUÂN



--
Kính Chuyển
Và Kính Chúc TÂN XUÂN
MG/HĐ

LẠI THÊM MỘT TẾT MONG CHỜ
NÊN MAI-ĐÀO VẪN HỮNG HỜ VỚI XUÂN
MƯỜNG GIANG
           

            Những năm tháng sống tại quê nhà trước ngày 30-4-1975, năm nào tết tới cũng đều ao ước có được một cành mai vàng nho nhỏ để vui xuân nhưng đã trót làm dân xóm biển, thì làm gì dư tiền để mua Mai như thiên hạ. Bởi vậy chỉ còn ngắm Mai vô hồn trong các bức tranh têt, treo trên vách lá, phên tre. Rồi thì tới tuổi lớn, thật sự mới có dịp thưởng thức Mai thật trong rừng hay trên các vách núi cheo leo, qua những bước hành quân xuôi Nam ngược Bắc. Nhưng buổi đó chiến tranh càng ngày càng mù mịt, tuổi đời như gắn liền với tuổi lính, thân phận còi cọc lăn lộn trong khói lửa quê hương, nên còn hồn đâu mà chiêm bái, Mai vàng, Hoa đào hay Cúc tía.. thậm chí có lúc cả bọn chưa cạn xong tiệc rượu nơi quán bên đường, thì bên ngoài trống trận, đã giục giã đoàn quân lên đường. Hỡi ơi đời lính là vậy đó.


            Tết Phan Thiết vui từ những ngày cuối chạp, mà chủ đích là rủ nhau đi chợ để mua sắm và ngắm người. Bắt đầu từ ngày 25 tháng chạp, chợ trái cây và hoa đã được hình thành trên hai con đường Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt, cạnh vườn hoa nhỏ, bên hữu ngạn Mường Giang. Giáp tết, hoa từ các nơi được đổ về thành phố vô số kể, làm như người Phan Thiết, chỉ biết ăn tết bằng hoa, mặc sức mà lựa chọn. Thôi thì đủ thứ, từ các loại hoa bình dân như mồng gà, vạn thọ, trường sanh, cúc, thược dược.. cho tới các loài hoa vương giả nổi tiếng của Bình Thuận, là hoa Mai với màu vàng phớt, có năm cánh mỏng mướt như lụa , lúc nào cũng nhè nhẹ muốn chực cười trước gió xuân. Ðây là người bạn lâu đời của Phan Thiết, vì vậy mỗi độ xuân về, hầu như nhà nào cũng có một cành mai, dù mua ở chợ hay lặn lội tới rừng xa, núi cao, để chặt. Hoa bán thật nhiều, có năm thiếu người thưởng thức, nên vào chiều ba mươi tết, nhiều loại hoa ế ẵm, đã bị chủ vất bỏ, nằm phơi lạnh lùng bên vệ đường , mặc cho hoa tàn cánh rũ. Thật thảm thay cho kiếp hoa tàn.

            Tại Hà Nội, hằng năm sau ngày cúng đưa Táo quân về trời, bắt đầu từ sáng 24 kéo dài tới chiều ba mươi, suốt một tuần lễ có phiên chợ Hoa đặc biệt ở Phố Hàng Lược, chỉ bán các loại hoa, cây cảnh, đặc biệt là Hoa Ðào và Quất, rất được nhiều người ưa thích vì lâu tàn, có thể chơi suốt tháng giêng mới đem bỏ. Chợ Hoa ở Hàng Lược còn là trung tâm cung cấp hoa cho các chợ Ðồng Xuân, Cửa Nam, Mơ, Hôm, Hàng Da và nhiều hè phố khắp Hà Nội. Ðây là chốn ngàn năm văn vật của Ðại Việt, nên từ xưa kinh thành Thăng Long đã là xứ ngàn hoa đua nở, từ Hồ Tây, Nghi Tầm, Võng Thị, Trích Sài.. kéo dài tới Làng Yên Hoa trên đê Yên Phụ, Quảng Bá, Ngọc Hà, Nhật Tân.. Tất cả làm cho Hà Nội thành xứ ngàn hoa, từng được thi nhân bao đời gọi là rừng mơ với nhiều loại hoa mai, hoa đào trân quý.

            Sài Gòn những ngày gần tết, đi đâu cũng thấy toàn là hoa, làm cho mùa xuân thêm muôn màu nghìn dáng, với đủ loài hoa từ Ðà Lạt, Phương Lâm, Sa Ðét, Gò Vấp, Thủ Ðức, Phú Thọ đưa vào. Những ngày nay, đi đâu cũng thấy Sài Thành thật là thơ mộng, qua hình ảnh của những chiếc thổ mộ lăn bánh cóc cách gõ nhịp khắp đường phố, xe nào cũng chất đầy hoa như đang chở cả mùa xuân từ muôn phương đem về dâng hiến làm vui cho Sài Gòn. Tóm lại, theo tập quán của tổ tiên truyền lại , thì vui xuân đón tết, ngoài việc bầy cỗ bàn cúng kính tiền nhân. Ngoài ra hầu như nhà nào, dù giàu hay nghèo, cũng không thể thiếu các món trà, rượu, pháo và nhất là các loại hoa đào (miền Bắc), mai (miền Trung và Nam), đồng thời còn thưởng thức thêm các loại hoa cúc, hồng, vạn thọ, trường sanh, mồng gà.. Riêng các cụ xưa có phần kiểu cách hơn , nên luôn trong nhà lúc nào cũng có sẵn một chậu Lan, Cúc hay Mai tứ thời. Nhưng dù các loài hoa có khoe trăm hương, ngàn sắc , thì những ngày Tết Nguyên Ðán tại VN, đào và mai cũng vẫn là hai loài hoa trân quý, được mọi người ái mộ nhất.

1- MỖI NĂM HOA ÐÀO NỞ :

            Ngày Tết chơi hoa đào, hầu như chỉ thịnh hành trên đất Bắc. Riêng các tỉnh từ nam vỹ tuyến 17 vào tới mũi Cà Mâu, nhà nhà dùng Mai thay Hoa Ðào trong ba ngày xuân, dù Ðà Lạt được mệnh danh là xứ hoa đào. Mai và Ðào đều là hai loài hoa tinh khiết, quý hiếm trong muôn loài, tượng trưng cho sức sống kỳ diệu của hoa giữa trời xuân, lại có hương thơm nhẹ nhàng thanh thoát, hợp với không khí đầm ấm hạnh phúc của người đang rạo rực vui xuân.

            Thú chơi Ðào ngày tết đã có từ lâu rồi. Tổ tiên ta thuở bình minh dựng nước trên đất Bắc, khi chọn hoa đào để làm thú tiêu khiển trong ba ngày tết, chắc hẳn đã nghĩ tới màu đỏ thắm rực rỡ của đào, giống như viễn ảnh của một năm mới sắp tới, cũng trong sáng đẹp đẽ như màu hoa. Hơn nữa theo quan niệm của Á Ðông, màu đỏ luôn tượng trưng cho niềm hy vọng của con người. Ngoài ra theo truyền thuyết , ngoài hoa sắc nõn nường, hoa đào còn được coi như là vật trấn yêu , trừ ma quỹ. Diễn tích trên được rút từ truyện hai vị thần Uất Lũy và Trần Trà ở núi Ðộ Sơn, cai quản một đám âm binh, quỷ sứ. Ðể trị bọn chúng, hai thần đã dùng cành đào như một thứ vũ khí đặc biệt. Do trên, người VN nhất là ở miền Bắc,qua ảnh hưởng của Trung Hoa, đều tin rằng chơi hoa đào trong ba ngày tết, ma quỷ sẽ không dám vào nhà để lộng hành phá phách, làm hại mọi người.

            Tại Hà Nội, vào những ngày Tết có bán hai loại hoa đào, đó là Hồng đào và Bích đào. . Ðây là loại hoa kiểng có màu đỏ thắm rất đẹp, không có quả. Thứ hoa này có thể sống được vài ngày. Xưa nay với những người Việt di cư từ miền Bắc vào Nam năm 1954, thì mỗi lần Tết đến có trăm nhớ nghìn thương, chứ đâu phải chỉ có hoa đào, cây nêu và câu đối đỏ, như một nhà thơ nào đó đã viết :

‘ Em ở mình đây trời nắng lắm
Sài Gòn không biết có xuân sang
Xuân này xứ Bắc ra sao nhỉ
đào có hây hây, cúc có vàng
câu đối có còn ôm đỏ cột
nêu dài tiếng khách có khua vang ?

            Nói như người Hà Nội thì mùa xuân là mùa hoa, tựa như con người trên đường đi tìm hạnh phúc cho chính mình, biết gìn giữ hay thưởng thức, nói chung phải có người biết chơi hoa, yêu hoa, trân quý nâng niu thì hoa mới có ý nghĩa với đời. Bởi vậy đã có không biết bao văn nhân tài tử đất Bắc, hàng năm không thèm ghé vào chợ Hoa Tết Hàng Lược trước mắt, mà phải lặn lội trong mưa phùn gió bấc lạnh lẽo khổ sở, tìm tới các rừng Mơ ở tận Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm, Từ Liêm.. với mục đích chỉ tìm cho bằng được một hồn hoa còn trinh bạch, đang thẹn thùng e lệ núp lén đâu đó trong cảnh mưa gió phủ phàng. Ðâu đâu cũng ngổn ngang những nhánh Chi Mai, một góc Trà Thâm, nhiều giỏ Ðại Ðóa đang chen vai khoe sắc bên cạnh các chậu Mộc Lan.. tuy nhiên tất cả đềukhông phải là những thứ người nghệ sĩ đang tìm kiếm, mà là Hoa Ðào. Ðây chính là loài hoa được Thôi Hộ, Ôn Như Hầu, Nguyễn Du .. từng nhắc nhớ, loài hoa Hồ Ly Tinh trải qua bao thế kỷ, đã ru hồn các nghệ sĩ, khiến cho họ phải từng canh bâng khuâng, xao xuyến, mộng mị trong mong chờ. Vì vậy dù Tết đã qua, hoa đã thành ‘ khứ niên ‘ nhưng linh hồn của nó vẫn như đọng lại nơi tâm khảm của khách yêu hoa, khác nào nổi ngất ngư của mối tình đầu mà ta đã trải qua trong đời với người yêu dấu ái.

            Bao đời Hà Nội ngày xuân tươi thấm qua màu đỏ chói của Bóch Ðào, Mộng Tự lẫn Ðào Thăng Long. Ngoài ra còn loại Bạch Ðào cực hiếm khó có được, nên trong phút giao thừa đêm cuối chạp, thường làm cho người yêu hoa phải ngẩn ngơ thao thức, đứng với hoa trong ánh bạch lạp chập chờn trên bàn thờ, mà tưởng như hồn đã hóa thành đá, giữa cõi mênh mang trống vọng biển đời, thực ảo, hơn thua, biết đâu mà mộng mị.

            Nhưng nhắc tới hoa Ðào, ta không thể không nhớ tới Vũ Ðình Liên với thi phẩm tuyệt tác ‘ Ông đồ già ‘ :

Mỗi năm hoa đào nở
lại thấy ông đồ già
bày mực Tàu giấy đỏ
bên phố đông người qua
năm nay đào lại nở
không thấy ông đồ xưa

             Hỡi ơi mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân đi, bạn bè người thân may mắn còn sống sót sau cuộc chiến, nào Nhật Trường, Huyền Vũ, Hồ Tài, Trần Tác, Phùng Thế Xương, kể cả Võ Thị Thanh Tâm, tuổi đời mộng mơ đang chớm, cũng đã trở thành người tram năm củ, dù Tết nào hoa Ðào cũng vẫn nở, mà bóng người xưa đã khuất nẻo mây ngàn. Tóm lại, Hoa Ðào ngoài công dụng làm vật trang trí cho người tiêu khiển, cũng đã đi vào kho tàng văn chương, tục ngữ của nhiều dân tộc. Trong ‘ Cung oán ngâm khúc ‘ , Ôn Như Hầu đã viết :

‘ Áng đào kiểm đâm hoa não chúng
khóc thu ba dợn sóng khuynh thành ‘

            Qua hai câu thơ trên, tác giả đã mượn màu sắc tươi thắm , nõn nường của hoa đào, để diễn tả nhan sắc chim sa, cá lặn của những người đàn bà đẹp. Nhưng tình là gì , nếu không phải là những uẩn khúc thương tâm và càng xa xót đối với người đẹp. Bởi vậy thi nhân đã hạ bút viết thêm ‘ Mà xui phận bạc nằm trong má đào ‘.

            Má đào cũng được dùng để chỉ ngưởi đẹp. Danh từ trên được rút từ điển tích Thội Hộ đời nhà Ðường, nhân tiết Thanh Minh ngoạn cảnh, đi lạc vào một vườn hoa đào . Sau đó đã gặp và yêu một người con gái đep tên Ðào Phụng Trinh . Cả hai đã gắn bó, thề hẹn và chàng hứa sẽ trở lại thăm nàng . Năm sau, Thôi Hộ lại đếnvườn đào nhân buổi đầu xuân, nên khắp nơi hoa đào rực rỡ khoe hương sắc đầy trời. Nhưng cảnh cũ còn đây , hoa đào còn đó, mà bóng người xưa đã biền biệt phương trời. Não lòng, Thôi Hộ đặt bút viết một bài thơ tứ tuyệt, dán nơi cửa vườn hoa năm ngoái, mà hai người đã gặp gỡ :

‘ Khứ niên kim nhật thử môn trung
nhân diện đào hoa tương ánh hồng
nhân diện bất tri hà xứ khứ
đào hoa y cựu tiếu đông phong ‘

            Năm sau nữa cũng độ xuân về, lòng thương nhớ không nguôi, Thôi Hội lại lần mò đến vườn xưa , chợt nghe tiếng khóc than thảm thiết, hỏi ra mới biết, đó là tiếng khóc của cha Ðào Phụng Trinh. Nàng vì thất tình nên mang bệnh trầm kha,trong cơn hấp hối, sau khi được đọc qua bài thơ tỏ tình của Thôi Hộ. Cảm xúc trước cảnh đau lòng, nên chàng mong được gặp Ðào Phụng Trinh lần cuối. Nhờ vậy nàng đã sống lại khi nghe tiếng chàng gọi mình, thế là hai người đẹp duyên cầm sắc, giữa vườn đào đang nở rộ đón xuân sang. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tiên sinh cũng đã viết :

‘ Trước sân nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông ‘

            Tóm lại danh từ ‘ má đào ‘ dùng để chỉ những người đàn bà đẹp. Ngoài ra ‘ hoa đào ‘ còn tượng trưng cho tuổi thanh xuân, của các cô gái sắp về nhà chồng , như Kinh thi đã viết :

‘ Ðào chi yên yên
thước thước kỳ hoa
chi tử vu quy
nghi kỳ thất gia ‘

            Ý nói ‘ mơn mởn đào non, rực rỡ màu hoa, cô đi lấy chồng, hạnh phúc trăm năm ‘.

2- MAI VÀNG :

            Tự ngàn xưa, Mai đã được xếp vào loại hoa quý nhất trong ngàn hoa. Trong nhiều bức tranh cổ còn lưu truyền như tranh Tứ Bình, vẽ bốn loại hoa cực quý là Mai, Lan, Cúc, Trúc. Ngoài ra còn có tranh tứ thời, cũng vẽ bốn loại hoa cảnh nổi tiếng là Tùng, Cúc, Trúc, Mai hay Lan, Sen, Cúc, Mai. Tóm lại dù con người qua các thời đại có thay đổi quan niệm thưởng ngoạn thế nào chăng nữa, thì ta vẫn thấy có sự hiện diện của hoa Mai :

‘ Ðua chen thu cúc, xuân đào
lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông ‘
(Bích Câu kỳ ngộ )

            Tại VNCH trước ngày 30-4-1975 có rất nhiều hoa Mai nhưng nhiều nhất là hai tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận. Ở thủ đô Sài Gòn vào những ngày sắp tết, Mai từ các tỉnh miền Trung như Ðà Lạt, Phương Lâm (Lâm Ðồng) hay Nam Phần tại Sa Ðéc , đổ vào hàng trăm loại hoa. Giữa muôn hồng ngàn tía, khoe hương sắc rực rỡ nhưng thiên hạ vẫn nườm nượp ùa tới những gian hàng bán Hoa Mai, để tha hồ nhìn ngắm, lựa chọn những cành mai vàng năm cánh mỏng như lụa, đang rung rung nhè nhẹ trước cơn gió thoảng. Ðây là người bạn lâu đời nhất của Miền Nam, quanh năm sống heo hút trong rừng sâu, núi cao, chỉ những ngay sắp Tết mới hiện diện vui xuân với mọi nhà. Ngày nay theo thời thượng, nên nhân sinh đã tạo ra rất nhiều loại mai mới, có giống tới mười cánh, hai mươi cánh với các màu sắc loè loệt trắng, vàng hay ghép đũ màu sặc sỡ lố bịch. Ðây là sản phẩm tự chế của xã nghĩa thiên đàng, quen xét đời qua giá trị của sản phẩm vật chất mà không cần biết tới cỏi hồn tinh khiết bên trong, dù đó là hồn nước, hồn người hay hồn hoa thắm đượm.

            Mai có thân hình khẳng khiu nhưng cứng rắn mà vẫn ẻo lã duyên dáng , còn cánh hoa thì màu sắc thắm tươi, mỏng manh cho đến khi lìa cành mà màu sắc vẫn không thay đổi. Mai được xếp đầu trong muôn hoa, nở rộ trong những ngày đầu xuân ‘ tiên hưởng bạch hoa đầu thượng khai ‘.Mai cũng là đề tài muôn thuở, làm mê say đắm lụy tâm hồn văn thi sĩ, họa sĩ, nghệ nhân bao đời. Nhờ vậy đã lưu truyền cho hậu thế nhiều tác phẩm nghệ thuật, nói về Mai rất đặc sắc và trữ tình. Có điều tuy cùng ngâm vịnh hoa Mai nhưng âm hưởng đã hoàn toàn khác biệt giữa giống Mai mà các văn nghệ sĩ VN ngâm vinh và loài Mai Trúc trong nghệ thuật hội hoa, điêu khắc và ca tụng trong nền văn học Trung Hoa

+ Hoa Mai Trong Văn Chương Cổ Điển :

            Loài Mai này hoàn toan khác biệt với giống Mai vàng đã có từ lâu đời tại Miền Nam VN. Giống Mai này có tên khoa học là Prunus Mume, thuộc ho Hoa Hồng (Rosaleal). Mai này tương cận với cây Mơ, có tên khoa học Prunus Armeniaca Lin, cũng như cây Ðào ( Prunus Persica Stokes). Mai này có hoa năm cánh, màu trắng, hồng hay đỏ thắm, mùi thơm. Quả Mai lúc sống màu xanh và biến thành màu vàng khi chín. Người Trung Hoa miền Quý Châu , đem sấy khô thành quả Ô Mai hay Ô Môi và đem bán ở các thị thành VN mà chúng ta gọi trại là Xí Muội. Những chữ Mai trúc trong văn chương cổ điển Trung Hoa, chính là loại Mai này.

+ Mai Vàng Tại Miền Nam VN :

            Giống Mai này có tên khoa học là Dohna Harman, thuộc ho Hoàng Mai (Ochnaceae ). Mai vàng không thơm, quả chỉ nhỏ bằng hạt đậu, khi còn tươi có màu xanh và biến thành màu đen lúc cây chết., không ăn được. Ngoài ra còn có một giống Mai thuộc họ Tre, thân dài thẳng đứng, vỏ cây rất dày có nhiều đốt, lá to. Loại Mai này được đốn với tre đem về làm nhà, ống đựng nước uống, nó hoàn toàn khác biệt với hai loài hoa Mai trên..

‘ Miệng ăn măng trúc, măng mai
những tre cùng nưa lấy ai bạn cùng ‘
(Phong dao VN)

            Nhưng cho dù thuộc giống Mai nào chăng nữa, thì Mai vẫn là một loài thực vật có thể chịu đựng được tuyết giá đông hàn, luôn ngạo nghễ nở hoa, để chào đón chúa xuân, trong phút giây giao thời. Chính cái bản sắc cuồng ngạo đó, đã lôi cuốn nhân sinh vào cuộc chơi. Ðó cũng vì Mai chính là hiện thân của hàng Kẽ Sĩ, Trượng phu, anh hùng mã thượng, chịu đựng tất cả dâu biển của cuộc đời, kể cả phong ba bão táp, để đạt cho được mục đích cuối cùng ‘ lợi dân, ích nước, làm đẹp cho người ‘.Và cũng chỉ có Mai mới đủ thực chất để đại diện cho lớp người chọc trời khuyấ nước, coi thường danh lợi phú quý như phù vân, xem vua quan thối nát thua loài cỏ rác, coi bọn khoa bảng trí thức xu thời, bợ thế, dua mị, nhắm mắt chạy theo lợi nhuận, chẳng khác nào sâu bọ., cầm thú đội lớp người. Ðiển hình nhất trong lớp người, có Chu Thần Cao Bá Quát, ông đã viết “

‘ Thập tái luận giao cần cổ kiếm
nhất sinh đề thủ bái mai hoa ‘

            Như Ðào, hoa Mai cũng được các thi nhân vay mượn, dùng làm đề tài , để diễn tả nét đài trang, thanh nhã của những người đàn bà đẹp trong đời, qua các thời đại, như Nguyễn Du tiên sinh đã viết trong ‘ Ðoạn Trường Tân Thanh ‘

Mai cốt cách, tuyết tinh thần
một người một vẽ, mười phân vẹn mười .

            Yêu quí mai, trân trọng mai tới độ bái phục mà các văn thi nhân còn chưa thấy là đủ, nên cuối cùng đã chọn mai làm người bạn tri kỷ, để ra vào cùng đối ẩm, cận kề :

‘ nghêu ngao vui thú yên hà,
mai là bạn cũ, hạc là người quen ‘

+ Tao Nhân Mặc Khách Với Mai :

            Chơi xuân mỗi người một cách nên hầu như không giống ai cả, nhất là đối với hàng tao nhân mặc khách. Ðối với hạng bình dân chất phác, khi lựa chọn một cành mai để vui ba ngày tết , thì chỉ cần có nhiều hoa nở , đúng vào lúc giao thừa . Sau đó hoa vẫn tiếp tục nở rộ trong ba ngày xuân, thế là đủ rồi, vì đối với họ, đó là niềm vui cũng như sự may mắn. Nhưng với lớp người trưởng giả, thì khi chọn mai để thưởng thức phải là giống to, cao, hoa lá xum xê, để chủ nhà biểu lộ với hàng xóm láng giềng , về sự giàu sang sung túc của mình.. Tuy nhiên đối với hàng tao nhân mặc khách,nhất là giới nghệ sỷ, thì mai không phải là loài vô tri, mà là một sinh vật có linh hồn, chẳng thế mà thiên hạ đã cùng đồng tâm chấp nhận ‘ Mai là hoàng hậu của muôn hoa ‘ .

            Ái mộ, nưng niu, chiều chuộng nên thi nhân bao đời đã nhân cách hóa và đặt tên cho Mai nhiều mỹ danh vô cùng diễm le. Do đó với loài Mai có màu trắng như ngọc tuyết tinh khôi, thì gọi là Bạch Mai, Chi Mai hay Mai Ngự Sử. Với loài Mai có màu xanh, thì được đặt tên là Mai Thanh Ðài. Còn Mai có màu vàng thì gọi là Hoàng Mai hay Lạp Mai , vì loại mai này chỉ nở vào những ngày cuối đông mà thôi. Ngoài ra còn nhiềi loại Mai khác như Hồng Mai (màu đỏ), Mai Thanh Ðài Lục Ngạc (Hoa mai có 6 cánh đan chéo vào nhau như sừng nai, màu xanh), Mai Chuỗi (màu tóm có hoa và trái kết thành chuỗi), Mai Chiếu Thủy (màu trắng, cánh nhỏ, thường rũ nghiêng xuống mặt nước), đầy là loại mai quý hiếm.Cuối cùng là Mai tứ Thời có hoa suốt năm, bốn mùa.

            Hiện không có tài liệu nào xác nhận thời gian đầu tiên loài Mai xuất hiện trên trái đất. Nhưng cái tên Mai lại được giải thích rằng : có một loài hoa rất gai gốc chịu đựng cảnh băng giá mưa đông, để kịp nở hoa vào buổi giao thời , giữa năm cũ và năm mới. Hoa có năm cánh , kết thành một vòng tròn , biểu tượng ánh thái dương đang tỏa nắng ấm tới nhân gian vào buổi sớm đầu xuân. Với các đặc tính đó, loài hoa này mới được gọi là Hoa Mai. Ngoài ra liên quan tới giống hoa này, xưa nay đã có rất nhiều điển tích liên hệ như :

+ Trúc Mai  Vì bán mình để có tiền chuộc mạng cho cha mẹ, nên Thuý Kiều phải theo gã Mã Giám Sinh về Lâm Tri. Ðêm đó một mình nàng ôm mặt khóc với bóng đèn khuya, , nhớ đến người tình đang ngoài muôn dặm là Kim Trong, mà đứt ruột nát hồn. Ðể diễn tả hoàn cảnh bi thiết đó, Nguyễn Du tiên sinh đã mượn điển tích ‘ Trúc Mai ‘ và viết :

‘ Tái Sinh chưa dứt hương thề
làm thân trâu ngựa đền bù Trúc Mai ‘

            Trúc-Mai là hai loại cây vẫn xanh tốt trong mùa đông băng giá. Ðặc tính của hai loại cây này là ‘ Trúc bất chỉ thiên, Mai bất chỉ địa ‘, đó là một sự hòa hợp âm dương rất tuyệt diệu. Ngoài ra rheo sách ‘ Lưỡng bạn thư vũ tùy bút ‘ có viết câu chuyện Trúc Mai như sau : Vào mùa đông, các tao nhân mặc khách thường tới Ðầm Long Môn tại tỉnh Quảng Ðông để thưởng ngoạn, vì tại đây có rừng Trúc-Mai vẫn tươi tốt trong cảnh tuyết băng giá buốt lạnh lẻo. Tại đây, có hai giai nhân tài tử tên Hoàng Kỳ Mai và Lam Bá Trúc được dịp quen biết rồi yêu nhau tha thiết. Nhưng rồi cũng phải chia tay, trước giờ phân kỳ Lam Bá Trúc đã bẻ một cành Mai còn Hoàng Kỳ Mai thì dùng một nhánh trúc, để làm kỷ vật trao đổi, thệ nguyện nên cuối cùng đã toại nguyện. Từ đó để nói tới tình yêu trai gái, vợ chồng, người đời sau hay lấy điển tích ‘ Trúc Mai ‘ để diễn tả.

+ Nhất Chi Mai :  Ðiển tích này được trích từ tập ‘ Kiến Văn Tiểu Lục ‘ của Lê Quý Ðôn, nói về đời tư của Hồ Quý Ly. Theo sách cho biết tổ phụ ông là người Tàu, vì loạn lạc nên mới di cư sang Ðại Việt. Lớn lên đi tìm công danh, nên Quý Ly đã bỏ làng quê tới kinh đô Thăng Long. Trên đường vô tình ông lượm được một quyển sách tên ‘ Quảng Hàn Cung Lý Nhất Chi Mai ‘ nên mở msng được nhiều kiến thức chính trị quân sự. Về sau Ông được vua Trần Nghệ Tông trọng dụng , nên thăng quan tiến chức rất nhanh. Một hôm nhân các triều thần hội họp trong cung vua, Nghệ Tôn mới chỉ vào rừng quế, quanh điện Thiên Thủ, ra một câu đối :

‘ Thanh thủ điện tiền thiên phụ quốc ‘

            Trong lúc các quan chưa kịp ứng đối, thì Quý Ly chợt nhớ tới nhan đề của cuốn sách mà trước đây mình đã vô tình lưọm được, nên dối ngay :

‘ Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai ‘

            Nhà vua cho đó là duyên kỳ ngộ, nên đã đem công chúa gả cho Quý Ly. Từ đó họ Hồ mới có cơ hội xây dựng thế lực và vây cánh, cướp ngôi nhà Trần sau khi Thượng Hoàng Nghệ Tông mất.

+ Mai Trường An : Còn có tên là Mai Tứ Quý là giống Mai nở hoa bốn mùa. Ðiển tích ‘ Mai Trường An ‘ được rút ra từ câu chuyện nàng TâyThi, cô gái nước Việt, đã giúp cho Vua Việt Câu Tiễn, đánh bại Ngô Phù Sai, rửa nhục và thu hồi lại đất nước đã mất. Ðiển tích trên, đồng thời cũng nhắc tới câu chuyện nàng Dương Thái Chân, tức là Dương Quý Phi ái thiếp của vua Ðường Minh Hoàng. Thời đó có Lục Khải làm quantại Giang Nam, nhân lính trạm mang thư tín về kinh đô Trường An, nên ông đã bẻ một cành Mai, để gửi về tặng bạn là Phạm Việp, trong đó có kèm theo một bài thơ :

‘ Chiết Mai phùng dịch sứ
Ký dữ lũng đầu nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liễu tặng Nhất Chi Mai ‘

            Quá cảm động và càng thương quý bạn nên Phạm Việp đã đem cành mai đó trồng và sau đó Mai có hoa nở cả bốn mùa. Sau này các văn thi sĩ thường mượn loài Mai trên, tức Mai trường An, để nói về nhan sắc chim sa cá lặn của các giai nhân nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa, nhất là Tây Thi và Thái Chân.

3 - MAI VÀ THƠ VĂN :

                        Xưa nay, những người thoát tục ngoại hạng, thường ưa thích hoa Mai, vì cho đó là một biểu tượng cao quý của hạng Sĩ phu, Quân tử. . theo quan niệm của Nho giáo. Thật vậy, với thái độ sừng sững giữa trời mưa gió. Trong cõi trời đất gần như hư vô bát động này, Mai đã rụng hết lá, chỉ còn lại thân cây trơ trọi . Thế rồi những ngày cuối chạp sắp Tết, bỗng dưng khắp thân Mai, tràn đầy lá xanh và búp nở. Tất cả như đợi chờ một khoảnh khắc giao mùa của trời đất, mới chịu mãn khai.

            Ðứng trước nổi thế thái biển dâu của nhân tình và vạn vật, Mãn Giác Ðại sư (1045-1096) , một cao tăng thời Lý, đã viết bài kệ ‘ Cáo Tật Thị Chúng ‘, rất nổi tiếng nên được lưu truyền tới ngày nay :

‘ Xuân qua trăm hoa rụng
xuân tới trăm hoa tươi
trước mắt việc đi mãi
trên đầu già đến rồi
chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
đêm qua sân trước nở cành mai ‘

            Ðây cũng chính là một thông điệp vô cùng trân quý, mà Thiền sư đã gởi lại cho hậu thế VN, với lời nhắn nhủ thật chân thành, khuyên bảo mọi người ‘ phải kiên trì để mà sống, không cần sợ hãi bất cứ một nghịch cảnh nào, giống như đêm qua sân trước nở cành mai, dù ai cũng nghĩ rằng xuân tàn hoa rụng hết ‘.

            Còn nhà sư Tế Kỷ sống vào thời Nhà Ðường, đã mượn cớ ‘ Tảo Mai ‘, để làm một bài thơ, cũng có ý tưởng rất cao siêu như THiền sư Mãn Giác, khuyên mọi người phải sống kiên trì, giống như Hoa Mai, mới mong thành tựu :

‘ Vạn mộc đông dục chiết
cô căn noãn độc hồi
tiền thân thâm tuyết lý
tạc nhật nhất chi khai ‘
           
            Bài thơ cho biết là trong lúc muôn cây sắp chết cóng, riêng có Mai thì rể đang trở mình, giữa cảnh tuyết băng giá lạnh, chợt đêm qua Mai nở hoa.

            Trong văn chương cổ điển Trung Hoa, Ðại Ðường và Bắc Tống là hai thời đại rát thịnh hành về lối thơ Thất Ngôn ngâm vịnh. Ðặc biệt thời Bắc Tống, có rất nhiều tao nhân mặc khách nổi tiếng, cũng không thua kém gì các thi thần, thi bá Lý Bạch, Ðổ Phủ, Bạch Cư Dị.. đời nhà Ðường. Cũng vì vậy, họ đã lưu lại chohậu thế rất nhiều bài thơ ‘ Vịnh Mai ‘ vô cùng đặc sắc. Trong số này đáng kể nhất có Lam Pha, suốt đời chỉ mê đắm Hoa Mai mà thôi, chứ không hề ngó tới đàn bà, dù đó là những người đẹp nổi tiếng tại kinh đô Biện Kinh (Khai Phong). Với Vương An Thạch (1021-1086) , tể tướng thời Tống Thần Tông, chủ trương Tân Ðảng, lừng lẫy một thời trên trường chính trị cũng như trong văn đàn, đã lưu lại cho hậu thế nhiều trước tác giá trị, trong đó có bài thơ ‘ Mai Hoa ‘, rất được nhiều người ưa thích :

‘ Tường dốc sổ Chi Mai
Lăng Hàn độc tự khai
dao tri bất thị khuyết
dữ mai tinh tác thập phần xuân ‘.

            Ý thơ muớn nói, nơi góc tường mấy nhánh mai, tự nở hoa trong rét, xa nhìn không phải tuyết vì có hương thầm bay.

            Riêng Lư Mai Pha, thì chẳng những ca tụng Mai, mà ông còn đề cao cả tuyết và thơ. Theo quan niệm của ông, cho rằng người đời, bất cứ là ai, nếu đã sẵn có trong tay ba thứ trên, coi như họ đã có một trời xuân hạnh phúc :

‘ Nhật mộ thi thành, thiên hữu tuyết
dữ Mai tinh tác, thập phần xuân ‘

            Ý ông nói là vừa làm xong bài thơ thì đêm tới, trong lúc ngoài trời đầy tuyết, còn nơi góc nhà Mai cũng nở hoa, coi như ta đã hưởng trọn vẹn mời phần xuân rồi.

            Mao Ngọc Long là con gái quan Ngự sử Mao Phụng Thiều, có chồng đã hy sinh ngoài sa trường, nên ở vậy thủ tiết làm người sương phụ. Một mùa đông nọ, ngồi bên song cửa, nhìn tuyết đang rơi lã chã ngoài sân, chợt thấy cành mai lẻ loi đang khép nép dưới mái hiên lạnh, vừa nở rộ một cánh hoa trong cơn buốt giá. Nhìn cảnh sinh tình, thêm tủi phận cô đơn góa bụa của mình, nên nàng đã viết bài thơ ‘ Ðông Dạ ‘, để gửi gấm tâm sự u hoài của đời người sương phụ :

‘ Thùy liêu tịch mịch, thư song hạ
Ðấy ảnh Mai Hoa, loạn dạ đăng ‘.

            Sau này các Họa sĩ cũng theo gót các văn nhân thi sĩ nhập cuộc. Trong số này có Trọng Nhân, đã dùng mực nước, vẽ môt cành Mai với hai màu đen trắng, ai cũng khen là Hoa có hồn. Ðời nhà Minh có Vương Ðiệu ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, chuyên vẽ Hoa Mai Tây Hồ, với những nét u hoài lãng mạn nhưng cũng không kém phần mạnh mẻ, với nụ hàm tiếu đang mãn khai vô cùng duyên dáng, trữ tình. Hàng Châu từ lâu đời đã kinh đô của Nhà Nam Tống, vùng đất nổi tiếng về Trà và sản xuất tơ lụa. Vì vậy các nghệ nhân đã đem Mai in trên tơ lụa, mà nổi tiếng nhất vẫn là những hình vẽ vè loài ‘ Ẩn Mai ‘, do Vương Ðiệu sáng tạo, với khung cảnh như không như có, hấp dẫn lạ lùng.

            Nhưng người nổi tiếng nhất khi vẽ Hoa Mai, trong nền hội họa cổ điển Trung Hoa, từ xưa tới nay vẫn được công nhận, vẫn là Vua Tống Huy Tông (1100-1125), thời Bắc Tống vì ham vẽ, mê chơi, lại tin nghe bọn nịnh thần như Sài Kính, Trương Ban Xương.. làm cơ nghiệp nhà Tống đổ nát vào giặc Kim ở phương Bắc. Năm 1127, vua lúc đó là Thượng Hoàng, cùng với vua Khâm Tôn và nhiều triều thần, đã bị nước Kim bắt đem về giam giữa tại Nội Mông và chết ở đó. Tuy vua Huy Tông chỉ sống rất ngắn ngủi (1108-1135) nhưng ông đã lưu lại cho hậu thế rất nhiều tranh vẽ giá trị, trong số này có bức danh họa ‘ Kết năm màu trên nhành Mai ‘, hiện được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Boston (Hoa Kỳ).

            Bây giờ mọi người mới hiểu tại sao thời Nhà Tống, ai cũng thích Hoa Mai hơn các thời đại khác trong lịch sử Trung Hoa. Theo sử liệu, cho thấy nhà Tống rất yếu về quân sự , so với các nhà Hán, Ðường và Minh. Do trên đất nước Tàu, từ thời Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) lập quốc năm 916, cho tới đời Vua cuối cùng là Ðế Bình, thị bị Mông Cổ tiêu diệt năm 1279, luôn luôn bị các nước Liêu, Kim, Tây Hạ, Thổ Phồn, Mông Cổ, Ðại Lý và Ðại Việt .. tấn công, xâm lấn. Do trên các bậc văn nhân, thi sĩ kể cả họa sĩ và nhất là giới sĩ phu trí thức, thường lấy Hoa Mai làm biểu tượng tinh thần của người anh hùng trong thời loạn ly lửa khói, để đề cao dũng khí, sự tinh khiết cùng lý tưởng cứu dân, giúp nước của mọi người. Do trên, thời nhà Tống mới có nhiều thơ văn và họa phẩm nổi tiếng về Hoa Mai.

            Tóm lại hiện có hai loài Mai, một của Trung Hoa đã xuất hiện từ thời thượng cổ, mà kinh thi đã từng đề cập. Riêng về giống Mai Vàng nổi tiếng của VN, tới nay vẫn chưa truy tìm được xuất xứ, cũng như thời gian ban đầu Mai xuất hiện. Tuy nhiên Mai vàng chỉ mọc ở Miền Nam VN, nhiều nhất trong hai tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận. Theo Vương Hồng Sẻn, viết trong ‘ Sài Gòn năm xưa ‘, thì miệt Sài Gòn chỉ có giống Mai Trắng, mọc rất nhiều tại Thứu Lãnh Tự (Chùa Cây Mai), Gò Mai và Phụng Sơn Tự (Chùa Gò). Cũng theo tác giả, thì giống Bạch Mai này, được đem từ Cao Mên về trồng.

            Tương truyền khi còn cầm quyền, vua Chế Mân đã lập vườn Mai Uyển ở Cà Ná là ranh giới giũa hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận hiện nay. Tại đây Vua cùng với Hoàng hậu Paramervan (Công chúa Trần Huyền Trân của Ðại Việt), tới dạo chơi và thưởng ngoạn các loại hoa quý trong vườn, nhất là Mai. Tại đậy Hoa Mai có nhiều loại, từ Hồng Mai, Bạch Mai hai tầng có cánh rất lạ, cho tới loại Hoàng Mai có cánh vàng, mỏng mà ta thường thấy trong dịp Tế. Hiện chiến tranh đã tàn phá tất cả, dù cảnh vẫn còn đó.

            Giờ thì lặng yên trong những ngày tết sắp tới nơi xứ người, bổng thèm một cành Mai, để bắt chước người dân nước Tống thuở nào, mượn Mai dục hồn người vong quốc, xa nhà, sống đời lưu vong buồn sầu đứt ruột. Nhưng hỡi ơi tất cả các loài hoa ở đây, như đã bỏ ta đi trốn. Càng não nùng hơn là những con đường thơ mộng của Hạ Uy Di ngày nào, nay chỉ còn đầy gió và lá rụng, làm thêm đau điếng khi nhớ tới những ngày xuân thơ ấu ở quê làng. Ở đây tết người đã tan đêm hội, nên chỉ còn lại có những cơn mưa năm mới, làm nhớ tới ngày nào cũng trong cơn mưa, ta đã vuốt tóc em ướt sũng nước mưa, mà cứ tưởng đó là ngàn vạn đoá mai vàng mừng mùa xuân diễm tuyệt của hai đứa mình.

            Lại thêm một tết quê người -/-

Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2016
MƯỜNG GIANG



           

__._,_.___

Posted by: Ho Dinh 

Ngày xưa làm báo Tết


 
   Văn Quang - Viết từ Sài Gòn ngày 05.02.2016
                                 
                                    Ngày xưa làm báo Tết

Hàng năm cứ đến ngày giáp Tết Âm Lịch, mọi người đều thấy các cửa hàng bán báo rực rỡ hẳn lên bởi hình bìa của những tờ báo xuân. Đủ thứ màu sắc của những tờ báo khổ lớn treo toòng teng trên những chiếc dây trước sạp báo phay phất phới, không khác gì những cái lồng đèn Trung Thu. Những tờ báo khổ nhỏ, hầu hết là những tờ tuần báo hoặc đặc san nằm dưới kệ hàng cũng được tô điểm sặc sỡ báo hiệu mùa xuân đang về.
 
                                     
                                                              Một sạp bầy bán Báo Xuân ngày xưa

Mùa xuân dường như bắt đầu từ đấy. Và mỗi nhà thường mua một tờ báo Xuân, đôi khi đợi Tết trưng ra trong phòng khách cho vui cửa vui nhà. Điều đó không hẳn là một tục lệ mà chỉ là thói quen, một thứ thói quen đáng yêu của hầu hết người Việt chúng ta dù bất cứ ở đâu. Nó cũng như cái hình ảnh của nhà thơ Vũ Đình Liên:

                                               
                                                
                                                                      ÔNG ĐỒ GIÀ

                                                 “Mỗi năm hoa đào nở
                                                  Lại thấy ông đồ già
                                                  Bày mực Tàu giấy đỏ
                                                  Bên phố đông người qua...”

Hình ảnh ông đồ già có thể mất dần theo năm tháng, nhưng những tờ báo thì vẫn còn y nguyên từ thời xa xưa cho tới thời nay, chắc chắn nó sẽ còn mãi mãi, cho dù nhiều bạn lo xa rằng báo in có thể “chết dần” bởi thời đại internet.

Nhưng internet không thể bày ra bàn, không thể trang trí cho phòng khách của ngôi nhà, không thể mang linh hồn của mùa xuân đến từng người đọc, không thể mang hương vị ấm cúng cho cả gia đình bạn và cũng không thể mang cả mùa xuân tô điểm cho phố phường của bạn.

Hình bìa những tờ báo thường bao giờ cũng có những người đẹp, những giai nhân đủ loại từ ca sĩ đến tài tử màn ảnh, từ cô gái nông thôn đến thành thị uốn lượn đủ kiểu trên sạp báo còn hơn là một cuộc thi sắc đẹp. Bạn không thích thú sao? Ngắm free mà. Và chỉ có năm hết Tết đến mới có cái cảnh ấy.

                                                
                                                                       Một tờ bìa báo Xuân

Tất cả những thứ đó khiến tôi nhớ đến cái không khí làm báo Tết thời xa xưa. Hồi đó bạn làm được một tờ báo ra hàng ngày hay hàng tuần đã khó khăn lắm rồi chứ chưa nói đến làm báo Tết. Ngày nay làm báo chỉ cần đánh máy cho lên máy in, nó chạy rèn rẹt ra luôn ba bốn năm màu và hàng chục ngàn số trong một vài giờ, được đóng sẵn sàng đưa ra thị trường. Nhưng ngày xưa thì khác.

Cái thời đại typo

Vâng, phải nói chính xác đó là thời đại mời ra lò của những tờ báo, thời đại in typo. Trước hết là những con chữ được đúc bằng kẽm hay bằng chì, từng chữ một, mỗi chữ xếp vào một cái bát hay một ngăn dưới tay người thợ, gọi là thợ sắp chữ.
Phải sắp từng chữ một và chữ in nghiêng phải được tác giả viết bài hay anh Tổng thư ký tòa soạn phải gạch dưới bản thảo đánh máy hay viết tay hàng chữ “ital” chữ viết tắt của italic.

Đấy chỉ là một thí dụ. Còn có hàng chục ký hiệu như thế nữa dành cho hàng chữ in đậm, sửa dấu sắc huyền hỏi ngã, thêm chữ vào dòng, bớt chữ đi. Anh thợ “cả” được gọi là chef typo chịu trách nhiệm chung cho trang báo đó, phải xem lại từng trang.

Còn muốn đưa một tấm hình vào trang báo, phải làm bản kẽm. Tôi nhớ hồi đó ở Sài Gòn có Cliché Dàu là nơi cung cấp những bản kẽm cho các nhà in và các báo. Khuôn khổ bức hình ra sao để nó nằm gọn lỏn trong trang báo phải được tính toán trước hết. Đến lúc thợ lên khuôn mới đưa vào bài báo được.
Trước khi in, thợ nhà in phải làm một bản vỗ, tức là lấy tờ giấy thấm nước như loại giấy bản, đặt lên khuôn trang có dính chút mực, vỗ nhẹ để mực thấm vào giấy, chúng tôi gọi là morasse, người làm việc sửa morasse được gọi là “thầy cò”. Thường morasse phải sửa đến lần thứ hai thứ ba, lần cuối cùng do anh Tổng Thư Ký tòa soạn sửa và ký vào tờ dernière morasse đó chịu trách nhiệm nếu có sai sót.
Sau thời kỳ in typo là thời kỳ “vàng son” của kỹ thuật in offset. Cả trang báo 4 màu chỉ cần đưa lên máy in 1 lần. Nhưng nói về thời kỳ này nữa thì quá dài dòng. Xin trở với thời đại báo in typo.

Tôi suýt bị tù vì mất chữ T.

Nói sơ qua như thế để bạn có thể hình dung ra phần đầu của công việc làm báo, đấy là báo thường chưa nói đến số Tết còn “ly kỳ rùng rợn” hơn. Đúng là một công việc bỏ ăn bỏ ngủ chứ không đùa. Tôi đã từng làm ở tòa soạn báo từ anh viết bài đến anh “thầy cò” rồi nhảy lên làm Trưởng ban biên tập và làm Chủ bút báo Chiến Sĩ Cộng Hòa của Quân Đội VNCH. Hồi đó báo ra bán nguyệt san, mỗi kỳ 200.000 số. Một con số xuất bản lớn nhất vào thời đó.

Báo được Bộ Quốc Phòng tài trợ và gọi đấu thầu, nhà in tư nhân đảm trách việc in ấn. Tôi là người chịu trách nhiệm sửa và ký tên vào bản dernière morrase tức là bản vỗ cuối cùng. Sau này làm thêm tờ Thông Tin Chiến Sĩ ra hàng tuần nữa càng vất vả hơn. Tòa soạn chỉ vỏn vẹn có chừng chục người .

Năm nào báo Chiến Sĩ Cộng Hòa cũng ra báo Xuân như thường lệ. Có một năm, có lẽ là vào năm 1960, khi đó Đại Tướng Lê Văn Tỵ  làm Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (đến năm 1963 Ông mới được vinh thăng Thống Tướng, vị Thống Tướng duy nhất của VN). Mỗi năm thường có một Thư chúc tết của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng được đăng trên báo Xuân CSCH.

Khi báo ra, chúng tôi đưa lên trình văn phòng Đại Tướng. Không hiểu tại sao cuối thư đó lại ký tên Đại Tướng Lê Văn Ỵ.  Thì ra tên của Người bỗng mất biến đi chữ T.
Ông Đại Tá Hoàng Ngọc Tiêu tức thi sĩ Cao Tiêu làm chánh văn phòng Đại Tướng gọi điện thoại cho tôi nói ngay: “Phen này ông đi tù là cái chắc”, tôi tưởng ông nói dỡn chơi, nhưng ông nghiêm giọng nói: “Anh cứ xem lại Thư chúc Tết của Đại Tướng đi là biết ngay, tôi không nói nhiều”.

Tôi mở tờ báo ra xem, quả nhiên là chữ Tỵ mất biến chữ T ở trước, thành ra là Đại Tướng Lê Văn Ỵ. Tôi choáng người, cầm chắc đi tù rồi còn gì. Tôi gọi nhà in, đòi xem bản vỗ cuối cùng. May quá, bản vỗ cuối cùng còn nguyên chữ T. Đây là một lý do “giảm khinh” cho một phần lớn tội của tôi. Nhưng tôi vẫn là người chịu trách nhiệm chính khi tờ báo đưa lên trình và gửi đi khắp các đơn vị trong toàn quốc. Tôi đã không kiểm soát lại.

Về phía nhà in, điều tra cũng chẳng ra, bởi khi bản vỗ đưa lên máy in vẫn còn nguyên,  nhưng vì là thợ xếp từng chữ nên khi bê lên bê xuống có thể nó rơi mất chữ T. Rơi ở đâu, khi nào hay có kẻ phá hoại không ai biết. Mà làm sao kết tội là phá hoại khi không có bằng cớ chắc chắn, luật pháp là luật pháp thời đó rất nghiêm minh. Tôi đã chuẩn bị sẵn tư tưởng để từ giã quân ngũ hay ít ra cũng bị “hạ tầng công tác” đi đến một đơn vị khác, rất có thể là binh nhì vì cái tội quá nặng “bôi bẩn thanh danh Đại Tướng”.

Nhưng ông Cao Tiêu chánh văn phòng Đại Tướng lại gọi điện thoại ngay cho tôi nói là chưa kịp trình Đại Tướng vì sáng đó ông bận đi dự lễ. Ông Cao Tiêu cũng là bạn tôi nên ông đã hủy ngay tờ báo, ông nói tôi phài lấy chữ Tỵ khác đóng lên trên chữ Ỵ để ông mang vào trình.
Tôi cấp tốc làm ngay. Nhưng làm 1 tờ thì dễ, còn 200 ngàn số đưa đến các đơn vị cũng phải làm như vậy. Thế là cả cánh thợ nhà in tư nhân và toàn phòng báo chí của chúng tôi phải cùng làm suốt một đêm một ngày mới xong. Lúc đó tôi mới hoàn hồn.

Và cũng từ đó tôi có thêm kinh nghiệm “xương máu” về nghề làm báo cũng như sau đó sang làm ở Đài Phát Thanh Quân Đội. Tôi cẩn thận từng chữ, từng câu trong các bản tin.

Lại chuyện ở đài Phát Thanh

Tôi nhớ hồi đó nhiều đoàn thể, nhiều giáo phái có tiếng nói trên các đài phát thanh Sài Gòn cũng như Đài PTQĐ.
Một lần vào khoảng năm 1970 hay 71, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đi dự một cái lễ ở Long Xuyên do Phật Giáo Hòa Hảo tổ chức. Sau đó tổ chức này có một bản tin gửi cho các báo trong nước. Đài PTQĐ cũng nhận được bản tin này.
Bản tin chia làm ba hay bốn phần gì đó, cả mấy phần trên đều là những lời lẽ ủng hộ chính phủ, duy đoạn cuối cùng có đề nghị chính phủ phát súng cho giáo phái để tự giữ gìn an ninh tổ quốc.
Tôi suy nghĩ mãi mới bỏ đoạn cuối cùng này. Bởi nếu phát súng cho một tổ chức khác chẳng khác nào một quốc gia có hai quân đội nên tôi sửa lại chỉ tóm tắt nội dung chứ không cho đọc nguyên văn, cuối cùng chỉ loan tin là những đề nghị khác sẽ được Tổng Thống và Chính Phủ cứu xét cẩn trọng.
Quả nhiên bí thư của Tổng Thống lúc đó là ông Hoàng Đức Nhã, được gọi là “ông trùm truyền thông” thời đó điện thoại cho tôi hỏi “Anh có cho đọc nguyên văn bản tin của Phật Giáo Hòa Hảo không?”.
Tôi thẳng thắn trả lời: “Không, tôi chỉ tóm tắt nội dung chính còn đề nghị phát súng tôi không loan bởi vì…”. Ông Hoàng Đức Nhã ngắt lời tôi ngay: “Đúng rồi, anh làm vậy là đúng lắm”.
Từ đó ông Nhã nhìn tôi bằng con mắt khác. Đúng là môt câu hỏi “mẹo” rất khôn khéo của ông “trùm truyền thông”.

Đi làm phóng sự Tết

Phòng báo chí của chúng tôi có cái lệ là phải đi làm phóng sự Tết ở các đơn vị từ miền Nam đến miền Trung và Cao Nguyên. Tòa soạn quá ít người nên chính tôi cũng phải làm phóng viên. Anh em đi hết, chẳng lẽ trưởng phòng ngồi nhà nên dù mới cưới vợ cũng phải bò đi làm phóng sự Tết.
Tôi nhớ năm đó, vào ngày 28 Tết có trận đá bóng giữa đội của Tổng Tham Mưu VN với 1 đội Peru. Thế mà tôi phải rong ruổi ra miền Trung làm phóng sự. Tôi là dân mê đá bóng từ nhỏ nên mang theo cái radio transistor, đi trên xe lửa nghe anh Huyền Vũ tường thuật trận đấu cho đã ghiền.

Giao Thừa trên đỉnh đèo Hải Vân

Ra đến Đà Nẵng tôi vào chào Trung Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh Phó Quân Khu 2, tôi còn một mục đích khác là lôi Thanh Nam mới bị tái ngũ học ở trường Huấn luyện ra cùng đi. Tướng Trí ra lệnh cho Thanh Nam ra đi cùng tôi ngay hôm đó.
Chúng tôi đi qua đèo Hải vân vào buổi chiều sắp tàn. Nhìn thấy một tiền đồn đóng tuốt trên ngọn núi Hải Vân nằm lẫn trong mây. Tôi thấy sinh hoạt ở đơn vị nằm cao tít tắp chín từng mây này chắc là đặc biệt nên tôi cho xe jeep theo đường mòn leo lên đỉnh đèo.
Anh lính gác ở đồn canh cho tôi biết đây là một trung đội Địa Phương Quân trấn giữ mỏm núi. Phía sau còn 2 trung đội khác.  Tôi và Thanh Nam quyết định ăn Giao Thừa cùng anh em trong đơn vị này.

Một buổi tối khác hẳn mọi buổi tối, chúng tôi nằm giữa những đám mây mỏng không nhìn thấy lưng đèo. Giao thừa thật thú vị với những màn lửa trại và thi hát, thi nói chuyện vui.

Có một anh tân binh nói chuyện tình yêu của chính mình rất láu cá. Anh em chất vấn tại sao mày lấy được vợ giàu và đẹp thế? Anh ta kể rằng bị gia đình nhà vợ phản đối, hai đứa bàn nhau “ăn cơm trước kẻng”. Em bị con vợ em nó tát cho một cái nên thân, tưởng em lợi dụng nó. Em nói chúng mình chỉ giả vờ thế thôi mà. Em cứ giả vờ thú nhận với mẹ em là có bầu rồi. Con vợ em nó đồng ý.

Thế là nhà nó bắt em phải làm đám cưới ngay. Cưới xong vài tháng thì em vào địa phương quân rồi lên đây. Thanh Nam khoái chí bèn tặng ngay cái khăng quàng mà cô bồ là ca sĩ trẻ đẹp vừa gửi tôi mang ra tặng chàng làm quà Tết. Trong đời tôi sẽ không bao giờ có được một đêm giao thừa như thế nữa.

Nhưng làm báo ngoài thì sướng

Hồi đó tôi thường viết khá nhiều feuilleton cho các báo. Mỗi dịp xuân về, chẳng cần biết các ông ở tòa soạn bận rộn ra sao, chúng tôi chỉ việc gửi bài rồi ung dung chờ lãnh tiền lương tháng 13 và dự tiệc tất niên của chủ báo.
Có lẽ làm với báo Truyện Phim của ông Nguyễn Ngọc Linh vào khoảng những năm 58- 60 là khoái hơn cả. Tờ báo lớn đầu tiên về điện ảnh quốc tế và VN do anh em ông Linh sáng lập ở đường Ký Con. Cái tòa soạn bé tẹo nhưng rất… Ăng Lê.
Chủ nhiệm ngồi một mình trong phòng kính. Bên ngoài là bàn giấy của Tổng Thư Ký tòa soạn, hồi đó là ông Quốc Phong nên chúng tôi gọi là “ông Tổng Cóc”, cạnh đó là chiếc bàn nhỏ xíu cùa biên tập viên Gia Tuấn đeo kính trắng, gọi là “Gia Tuấn Sì Cốp”.
Tờ báo được hầu hết các bạn trẻ, học sinh, sinh viên đón đọc hàng tuần. Tất nhiên năm nào cũng có báo xuân và đặc biệt khán giả mua báo được tặng một cuốn lịch thật đẹp của hãng Paramount Pictures, in màu trên giấy couché trắng nõn với 12 tấm hình tài tử thượng thặng quốc tế như Marilyn Monroe, Ava Gardner, Audrey Hepburn, Grace Kelly… cũng nõn nà chết người.

Riêng anh em cộng tác, cuối năm còn được tặng một tập báo đủ 12 tháng đóng gáy da mạ chữ vàng cẩn thận. Sau đó lại là một chầu ăn uống nhảy nhót tưng bừng tại một nhà hàng lớn, tăng 2 có thể đi có thể không tùy thích. Tôi chưa bao giờ quên được những kỷ niệm đó.

Nhật báo Chính Luận và ông chủ nhiệm đáng yêu của tôi

Đó là phía tuần báo còn phía nhật báo có tờ báo lớn là Chính Luận, do bác sĩ Đặng Văn Sung làm chủ nhiệm. Cuối năm cũng có chầu tất niên tưng bừng nhưng ông chủ nhiệm đứng đắn nên không cho anh em “múa tay múa chân” ở vũ trường. Ông tổ chức đánh phé ở nhà ông thủ quỹ Lê Tâm Việt.

Tôi nhớ năm đó vừa lãnh lương xong, về chơi phé với anh em trong tòa soạn. Chẳng may thua nhẵn túi. Tôi đứng dậy ra về thì ông chủ nhiệm hất đầu cho anh thủ quỹ Lê Tâm Việt ra lệnh “Phát cho cậu ấy lương tháng 13 đi”. Lê Tâm Việt nói em phát rồi. Ông BS Sung cười hiền lành “Nó thua hết rồi, lấy gì cho nó ăn Tết, phát cho cậu ấy ngay đi”.
Thế là tôi lãnh thêm 1 tháng lương nữa rồi ra về. Lương tháng viết feuilleton cho báo Chính Luận tôi nhớ mang máng là 12.000 VNĐ. Hồi ấy đó là một khoản tiền khá lớn, dư sức có “thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh ở nhà”.

                                     

Thật thú vị cho một năm mệt nhoài người vì viết, nhưng hồi đó viết là viết chứ không phải lách như bây giờ.
Bạn đã thấy công việc của dân làm báo hay nói chung làm truyền thông xã hội không hề dễ dàng chút nào. Nhưng tôi vẫn nhớ, vẫn chưa bao giờ từ bỏ được cái “nghiệp” của tôi.

Tính ra bây giờ là hơn 60 năm rồi, cuộc đời tôi vẫn chẳng làm được nghề ngỗng gì ngoài viết và viết. Tết cũng chẳng bao giờ được nghỉ vì “báo bà nghỉ thì báo ông ra” cho nên cứ phải có đủ bài cho báo. Năm nay cũng vậy thôi. Nhưng đã trở thành thói quen, tôi chưa bao giờ ân hận vì cái nghề này.

Đấy cái nghề làm báo nó long đong như thế, nhưng các bạn trẻ vào nghề rồi khó lòng dứt áo ra đi cho đành. Nó có ma lực quyến rũ đấy các bạn ạ.
Văn Quang (ngày giáp tết Bính Thân 2016)
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

                                                                     ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
.
 
This email has been sent from a virus-free computer protected by Avast.
www.avast.com
__._,_.___

Posted by: "Nhat Lung" <

Featured Post

Bản Tin buổi sáng 12/3/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link