Thursday, June 8, 2017

Tưởng niệm Cố TT.Reagan, ân nhân của Cựu Tù Nhân Chính trị VN (HO)




Tưởng niệm Cố Tổng Thống Ronald Reagan, 
vĩ nhân của thế giới, thần tượng của Hoa Kỳ, 
ân nhân của Thuyền Nhân Tỵ Nạn và Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam

Inline image 1

Little Saigon ngày 7 tháng 6 năm 2017

Kính thưa Quý Đồng Hương,

Cách đây 13 năm, Cố Tổng Thống Ronald Reagan đã tạ thế vào trưa thứ Bảy, ngày 5 tháng 6 năm 2004 tại Bel Air, California, cả nước Mỹ để tang, nhân dân Mỹ kính phục tư cách và ngưỡng mộ khả năng lãnh đạo của Ông, vì dưới thời Ông cầm quyền, chính sách hòa bình qua sức mạnh đã lấy lại sự tự tin cho nước Mỹ. Chỉ trong 8 năm làm Tổng Thống, Ông đã thực hiện được kỳ công vô cùng lớn lao trong việc kết thúc mau chóng cuộc Chiến Tranh Lạnh kéo dài từ năm 1947 đến 1989, thúc đẩy mau chóng sự sụp đổ của thế giới cộng sản từ Đông Âu đến Liên Xô, làm thay đổi cục diện thế giới, và phục hồi kinh tế nước Mỹ trong giai đoạn suy trầm, lạm phát, phi mã. 

Là Tổng Thống uy dũng thứ 40 của Hoa Kỳ, có quyết tâm, có tầm nhìn viễn kiến, khiến cho cả thế giới kiêng nể, và nhân dân hãnh diện về những thành tựu trong sự nghiệp chính trị của vị nguyên thủ quốc gia của họ. Sự kiện khó quên là vào năm 1983, ngay thủ đô Liên Xô, Cố Tổng Thống Ronald Reagan đã thẳng thắn gọi Liên Xô là "Đế Quốc Ma Quỷ" (Evil Empire,) và một năm sau đó, trong bài diễn văn đọc trước Nghị Viện Anh, Ông đã phát biểu mạnh mẽ rằng " Bước tiến của tự do và dân chủ sẽ để chủ nghĩa Mác Lê nằm lại trên đống tro tàn của lịch sử," và một sự kiện lịch sử rúng động cả thế giới khi đọc diễn văn ngay bức tường ô nhục ngăn đôi nước Đức ở Bá Linh, Ông đã dõng dạc kêu gọi "Ông Gorbachev, hãy đập bỏ ngay bức tường này."

Bởi hội chứng chiến tranh Việt Nam, nước Mỹ mất tinh thần, khuynh hướng chủ bại lan rộng khiến uy tín sức mạnh quân sự Hoa Kỳ bị xuống dốc và bị thế giới khinh thường dưới thời cựu Tổng Thống Jimmy Carter, trong đó có cả sự kiện Iran bắt cóc con tin Hoa Kỳ, thế mà ngay sau khi Cố Tổng Thống Ronald Reagan vừa mới đắc cử thì Iran thả tự do các con tin Mỹ tức khắc. Với chủ trương vực dậy sức mạnh quốc phòng, Ông tăng cường ngân sách để quân đội tự tin hơn. Ông ủng hộ việc chi phí để sản xuất các loại vũ khí tân tiến, các loại phi đạn có thể tiêu diệt các hỏa tiển liên lục địa từ trên không trước khi chúng đến nước Mỹ. Kế hoạch "chiến tranh hành tinh" còn gọi là Star Wars do cố Tổng Thống Ronald Reagan cổ võ đã làm cho lãnh tụ Liên Xô thời đó là Ông Mikhail Gorbachev phải lo ngại vì quá tốn kém, khiến từ bỏ cuộc chạy đua võ khí, đi đến chỗ Ông Mikhail Gorbachev cùng Cố Tổng Thống Ronald Reagan ký một số thỏa hiệp tiêu hủy võ khí chiến lược.
Riêng đối với miền Nam Việt Nam trước khi Sài Gòn sụp đổ vào tay cộng sản xâm lược, lúc đang làm Thống Đốc Calilifornia, Ông Ronald Reagan là người bạn chí tình và là chính khách duy nhất mạnh mẽ lên tiếng ủng hộ lập trường chống cộng sản Việt Nam của chính phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi cả nước Mỹ quay lưng đối với Việt Nam, chỉ muốn quên đi nỗi nhục thua trận, bỏ rơi đồng minh, thì Cố Tổng Thống Ronald Reagan nhân dịp Đài Kỷ Niệm Chiến Tranh Việt Nam được khánh thành, Ông đã gọi cuộc chiến tranh Việt Nam chống cộng sản là chính nghĩa cao cả. Ông đã để lại một lời nói bất hũ liên quan đến trận chiến Việt Nam rằng: "Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong, bởi vì cái giá phải trả cho loại hòa bình đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Việt Nam về sau." (Ending a conflict is not so simple, not just calling it off and comming home. Because the price for that kind of peace could be a thousand years of darkness for generation's Vietnam borned."


Kính thưa Quý Đồng Hương,


Dù giữa tôi và Cố Tổng Thống Ronald Reagan không cùng huyết thống, nhưng đứng trước sự tài ba lỗi lạc của Ông, và với sự lạc quan, vui tính, thích nói đùa, nói chuyện đầy thuyết phục, khiến tôi cảm kích và ái mộ Ông vô cùng. Với tư cách là người Mỹ gốc Việt Nam, tôi biết ơn Ông đã lãnh đạo quê hương thứ hai này một cách sáng suốt và tốt đẹp. Điều quan trọng và thực tế hơn hết là trong thời gian Ông đang làm Tổng Thống Hoa Kỳ, đích thân Ông và luôn cả trưởng nữ Maureen Reagan của Ông đã quan tâm và đáp ứng những lời yêu cầu của tôi và cộng đồng, trong việc Chính Phủ Ông đã hết lòng giúp đỡ tiếp nhận các Thuyền Nhân Tỵ Nạn được nhập cư Hoa Kỳ, cũng như Ông và Phó Tổng Thống George Bush đã đưa ra chính sách đón nhận các Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam và gia đình được qua Mỹ định cư. Công ơn của Ông tôi không bao giờ quên được.

Kính thưa Quý Đồng Hương,

Đốt nén hương lòng tưởng nhớ đến Cố Tổng Thống Ronald Reagan, vị ân nhân của cá nhân tôi, của cộng đồng người Việt Tỵ Nạn Hải Ngoại, của các Thuyền Nhân Tỵ Nạn, của các Cựu Tù Nhân Nhân Chính Trị Việt Nam, của đất nước Việt Nam. Trong bài viết này tôi có đính kèm theo một số tài liệu, phim, ảnh liên hệ đến sự nghiệp chính trị của Cố Tổng Thống Ronald Reagan để quý vị tham khảo. Tôi cũng có chia sẻ cùng quý vị một số hình ảnh giữa tôi và Ông như là một kỷ niệm đẹp trong đời.

Trân trọng,

Ngô Kỷ


 rg2_zps394a46a7.jpg

Thống Đốc California Ronald Reagan gặp Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ngày 15 tháng 10 năm 1971

15 Oct 1971, Saigon, South Vietnam --- Reagan Confers with Thieu. Saigon, South Vietnam:
Ronald Reagan of California, who is touring Asia as President Nixon's emissary, confers with
South Vietnamese president Nguyen Van Thieu, October 15. Reagan told a news conference
that he brought Thieu a message from the chief executive saying there would be "no change in
the course of policy of our nation" toward South Vietnam. --- Image by © Bettmann/CORBIS 


 

Năm 1988, Tổng Thống Ronald Reagan viết thư gởi Ngô Kỷ, Giám Đốc Văn Phòng Trung Ương 
Á Châu Đảng Cộng Hòa. Trong thư, Tổng Thống Ronald Reagan lên án cộng sản khi viết rằng: 


"Kể từ năm 1975, hơn 800,000 người Việt tỵ nạn chính trị đã định cư tại Hoa Kỳ"

"Giống như các nhóm di dân khác khi đi tìm dân chủ, người Việt Nam đã "bỏ phiếu
bằng chân" để trốn thoát sự bức hại của cộng sản"


Ngô Kỷ, Giám Đốc Asian American Republican Headquarters


Tổng Thống Ronald Reagan và Phó Tổng Thống George Bush

photo1dh7_zps87b62048.jpg
photo 1bs1_zps7e902355.jpg


Tòa Bạch Ốc sắp xếp Ngô Kỷ có cơ hội tiếp xúc và trao Kiên Nghị Cộng Đồng Việt Nam cho Tổng Thống
 Ronald Reagan và Phó Tổng Thống George Bush ngay tại Đại Hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc 1988

Trưởng nữ Maureen Reagan, Tổng Thống Ronald Reagan, và Đệ Nhất Phu Nhân Nancy Reagan

photo 1dh17_zps0e5e8134.jpg
Ngô Kỷ và Bà Maureen Reagan, trưởng nữ Tổng Thống Ronald Reagan, và cũng là Đồng Chủ Tịch
Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc, thay mặt cho Tổng Thống Ronald Reagan 
 về tận Little Saigon đón nhận nguyện vọng cộng đồng Việt Nam. Bên trái là ông Frank Visco, Chủ tịch 
Đảng Cộng Hòa California, bên phải là Thượng Nghị Sĩ Bill Campbell và "Bé Nguyễn"



Đại Biểu Ngô Kỷ và Bà Maureen Reagan, trưởng nữ Tổng Thống Ronald Reagan tại Đại Hội 
Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc 1988. Bà luôn tiếp tay Ngô Kỷ đạo đạt nguyện vọng của Cộng Đồng Người Mỹ
Gốc Việt đến thân phụ bà, trong việc yêu cầu giúp đỡ các Thuyền Nhân và Tù Nhân Chính Trị VN được vào Hoa Kỳ

 

Xin bấm vào các Links dưới đây để xem rất nhiều hình ảnh cố Tổng Thống Ronald Reagan: 









Tóm lược tiểu sử Cố Tổng Thống Ronald Reagan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Ronald Wilson Reagan (phát /ˈrɒnəld ˈwɪlsən ˈr ɡən/; 6 tháng 2 năm 1911 – 5 tháng 6 năm 2004) là tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981–1989). Trước đó, ông là thống đốc thứ 33 của California (1967–1975), và từng là diễn viên truyền hình, truyền thanh và điện ảnh.
Ông sinh tại thành phố Tampico, Illinois, và lớn lên ở Dixon. Ông học Đại học Eureka và có bằng cử nhân về kinh tế và xã hội học. Sau khi tốt nghiệp, đầu tiên ông chuyển đến tiểu bang Iowa để làm việc trong vai trò phát thanh viên, sau đó vào năm 1937, ông đến thành phố Los Angeles nơi ông khởi nghiệp trong vai trò diễn viên điện ảnh và sau đó là diễn viên truyền hình. Một số bộ phim nổi bật nhất của ông gồm có Knute Rockne, All American (1940), Kings Row (1942), và Bedtime for Bonzo (1951). Reagan làm chủ tịch liên đoàn lao động Screen Actors Guild và sau đó là người phát ngôn cho công ty General Electric (GE). Ông bắt đầu tham gia chính trị trong thời kỳ làm việc cho công ty GE. Ban đầu ông là đảng viên Dân chủ. Thiên hướng của ông bắt đầu chuyển đổi sang cánh hữu vào thập niên 1950 và sau đó ông đổi sang đảng Cộng hòavào năm 1962.[1] Sau khi đọc một bài diễn văn mạnh mẽ ủng hộ ứng cử viên tổng thống Barry Goldwater năm 1964, người ta thuyết phục ông chạy đua vào chức thống đốc tiểu bang California. Ông thắng cử thống đốc tiểu bang California hai năm sau đó và tái đắc cử lần nữa vào năm 1970. Ông thất bại trong các lần chạy đua tìm sự đề cử của đảng Cộng hòa ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ vào các năm 1968 và năm 1976 nhưng sau đó ông thắng cả sự đề cử của đảng Cộng hòa và cuộc tổng tuyển cử năm 1980, đánh bại đương kim tổng thống Jimmy Carter.[1]
Trong vai trò tổng thống, Reagan thực hiện các đề xướng kinh tế và chính trị mới có tầm cỡ. Các chính sách kinh tế trọng cung của ông, được gọi là "Reaganomics", chủ trương giảm tỉ lệ thuế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát nguồn tiền để giảm lạm phát, bãi bỏ kiểm soát kinh tế, và giảm chi tiêu của chính phủ. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông thoát chết trong một vụ ám sát; ông kiên quyết chống lại các công đoàn lao động, và ra lệnh xâm chiếm Grenada. Reagan tái đắc cử tổng thống một cách vang dội vào năm 1984 và tuyên bố rằng đây là "bình minh tại Mỹ". Nhiệm kỳ thứ hai của ông để lại với những vấn đề còn gây tranh cãi, chủ yếu vì các vấn đề đối ngoại, thí dụ như sự kết thúc Chiến tranh lạnh, vụ không kích Libya năm 1986, và vụ tai tiếng Iran-Contra bị phơi bày. Công khai mô tả Liên Xô là một "đế quốc ma quỷ",[2] Reagan ủng hộ các phong trào chống cộng trên toàn thế giới và dành ra nhiệm kỳ đầu tiên của mình hủy bỏ chiến lược giảm thiểu tối đa căng thẳng giữa phương Tây và khối Xô Viết, thường được gọi là chiến lược détente, bằng cách ra lệnh tăng cường mạnh mẽ sức mạnh quân sự trong cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô. Reagan thương thuyết với Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô là Mikhail Gorbachev và kết quả đỉnh điểm là sự ra đời của Hiệp ước Lực lượng Hạt nhân tầm trung và việc giảm thiểu kho vũ khí hạt nhân của cả hai nước.
Reagan rời chức tổng thống vào năm 1989. Năm 1994, cựu tổng thống tiết lộ rằng ông bị mắc bệnh mất trí nhớ; ông mất 10 năm sau đó ở tuổi 93. Là một hình tượng bảo thủ, Reagan được xếp cao trong các cuộc thăm dò ý kiến công chúng và được công nhận vì đã tạo ra cuộc phục sinh ý tưởng chính trị cánh hữu Mỹ.
Xin bấm vào Link dưới này của Wikipedia để đọc tiếp đầy đủ tất cả chi tiết về tiểu sử 
và sự nghiệp của cố Tổng thống Ronald Reagan bằng Việt ngữ:




Xin bấm Link dưới xem hình và chi tiết Siêu Hàng Không Mẫu Hạm USS Ronald Reagan




VIDEO:

Siêu Hàng Không Mẫu Hạm - USS Ronald Reagan - YouTube




Siêu Hàng Không Mẫu Hạm USS Ronald Reagan (CVN76) được hạ thủy vào tháng 7 năm 2003 là một hàng không mẫu hạm hạt nhân, được đặt tên theo tên Tổng Thống thứ 40 Hoa Kỳ. Phương châm hoạt động của tàu là "Hòa bình thông qua sức mạnh,"  là thông điệp, chủ trương và đường lối dưới thời Tồng Thống Reagan.
USS Ronald Reagan chứa khoảng 60 chiến đấu cơ tối tân đủ loại, cùng hàng ngàn thủy thủ đoàn, và vũ khí tinh vi nhất thế giới.



Những câu nói đáng nhớ của Tổng Thống Mỹ Ronald W. Reagan


"Trust, but verify."
Tin tưởng nhưng phải minh chứng. 

"How do you tell a communist? Well, it's someone who reads Marx and Lenin. And how do you tell an anti-Communist? It's someone who understands Marx and Lenin."
Làm sao biết ai là Cộng Sản? - Đó là người đọc về Marx và Lenin. Làm sao biết ai chống cộng? - Đó là người hiểu về Marx và Lenin
.
"Socialism only works in two places: Heaven where they don't need it, and hell where they already have it." 
Cộng sản chỉ thành công ở hai nơi: Thiên đàng thì không cần cộng sản, còn Địa ngục thì cộng sản sẵn rồi
"The years ahead will be great ones for our country, for the cause of freedom and the spread of civilization. The West will not contain Communism, it will transcend Communism. We will not bother to denounce it, we'll dismiss it as a sad, bizarre chapter in human history whose last pages are even now being written."
Những năm trước mắt tôi là những năm vĩ đại cho đất nước cho chúng ta, cho lý tưởng tự do và việc phát triển nền văn minh. Phương Tây không chứa cộng sản, mà vượt qua cộng sản. Chúng ta không cần tuyên bố gì cả, chúng ta bỏ qua nó như bỏ qua một chương sách buồn chán, kỳ cục trong lịch sử loài người mà chương cuốu cũng chưa được viết ra
"In an ironic sense, Karl Marx was right. We are witnessing today a great revolutionary crisis – a crisis where the demands of the economic order are colliding directly with those of the political order. But the crisis is happening not in the free, non-Marxist West, but in the home of Marxism-Leninism, the Soviet Union ... [Communism will be] left on the ash heap of history."
Trong cảm giác khôi hài thì Karl Marx đúng. Ngày hôm nay chúng ta chứng kiến một cuộc khủng hoảng cách mạng trong đó yêu cầu về trật tự kinh tế xung đột với trật tự chính trị. Nhưng cuộc khủng hoảng đó không xảy ra ở các nước phương Tây không cộng sản, nhưng lại xảy ra trong ngôi nhà Marxist-Leninist ở liên bang Xô Việt... Cộng sản chỉ để lại đống tro tàn của lịch sử.
“The Soviet Union is an Evil Empire, and Soviet communism is the focus of evil in the modern world.” 
 Liên Bang Sô Viết là một đế quốc ma quỷ, và Cộng sản Liên Xô chỉ chú trọng điều ác trong thời đại mới.
"If we love our country, we should also love our countrymen." 
Nếu anh yêu nước thì phải yêu dân.
Xin bấm vào Link dưới để vào trang Thư Viện Tổng Thống Ronald Reagan với đầy đủ tài liệu, phim, ảnh v.v..

Source: Bài diễn văn bằng Anh ngữ bài diễn văn bằng Anh ngữ:

http://www.historyplace.com/speeches/reagan-tear-down.htm

http://www.au.af.mil/au/awc/awcgate/speeches/reagan_berlin.htm

 

Link hình ảnh bức tường Bá Linh: https://www.google.com/ search?newwindow=1&rlz= 1C1OPRB_enUS535US535&espv=2& biw=1536&bih=783&tbm=isch&sa= 1&q=reagan+berlin+wall&oq= Reagan+Berlin+Wall&gs_l=img.1. 0. 0l3j0i7i30l3j0i7i5i30l3j0i5i30 .2737529333.0.32565.7.7.0.0. 0.0.96.582.7.7.0....0...1c.1. 64.img..0.7.577.5qXBQGE3g8I# imgrc=g-ckrYYXtMmUlM%253A% 3BEB3ejmMbAPuscM%3Bhttp%253A% 252F%252Fwww.nysun.com% 252Fpics%252F1070.jpg%3Bhttp% 253A%252F%252Fwww.nysun.com% 252Farts%252Fronald-reagans- world%252F78821%252F%3B765% 3B500

 

 Bài diễn văn lịch sử của Tổng Thống Ronald Reagan tại Brandenburg Gate ngày 12 tháng 6 năm 1987

  

VIDEO:  

 "Berlin Wall" Speech - President Reagan's Address at the Brandenburg Gate - 6/12/87

 

"Berlin Wall" Speech - President Reagan's Address at the Bran...

President Reagan's remarks on East-West relations at the Brandenburg Gate in West Berlin, Germany on June 12...

 

http://www.youtube. com/watch?v=5MDFX-dNtsM

 

 


Ronald Reagan - "Tear Down this Wall"





HÃY GIẬT SẬP BỨC TƯỜNG NÀY – RONALD REAGAN

Chancellor Kohl, Governing Mayor Diepgen, ladies and gentlemen: Twenty-four years ago, President John F. Kennedy visited Berlin, speaking to the people of this city and the world at the City Hall. Well, since then two other presidents have come, each in his turn, to Berlin. And today I, myself, make my second visit to your city
Ngài Thủ Tướng Kohl, Thị Trưởng Diepgen, và quý vị thân mến: Cách đây 24 năm, Tổng Thống John F. Kennedy đã đến thăm Berlin, nói chuyện với người dân thành phố này và cả thế giới tại Toà Thị Chính. Và kể từ đó, hai vị Tổng Thống khác đã đến, từng người một trong nhiệm kỳ của họ, đã đến Berlin. Và hôm nay, tôi, chính tôi, đã đến đây lần thứ hai để thăm viếng thành phố này.
We come to Berlin, we American presidents, because it’s our duty to speak, in this place, of freedom. But I must confess, we’re drawn here by other things as well: by the feeling of history in this city, more than 500 years older than our own nation; by the beauty of the Grunewald and the Tiergarten; most of all, by your courage and determination. Perhaps the composer Paul Lincke understood something about American presidents. You see, like so many presidents before me, I come here today because wherever I go, whatever I do: Ich hab noch einen Koffer in Berlin. [I still have a suitcase in Berlin.
Chúng tôi đến Berlin, chúng tôi những người Tổng Thống Hoa Kỳ, bởi vì trách nhiệm của chúng tôi là phải nói, tại nơi này, về tự do. Nhưng tôi phải thú nhận rằng chúng tôi bị thu hút về nơi này bằng những thứ khác nữa: bởi cảm giác về lịch sử của thành phố này, hơn hẳn đất nước chúng tôi những 500 năm tuổi; bởi vẻ đẹp của Grunewald và Tiergarten ; và trên tất cả bởi lòng dũng cảm và sự quyết tâm của các bạn. Có lẽ nhà soạn nhạc Paul Lincke đã hiểu đôi điều về các vị Tổng Thống Mỹ. Các bạn thấy đó, giống như rất nhiều vị Tổng Thống tiền nhiệm trước tôi, tôi đến đây hôm nay bởi vì cho dù tôi đi đâu, cho dù tôi làm gì: Ich hab noch einen Koffer in Berlin. [Tôi vẫn còn để hành lý của mình ở Berlin]
Our gathering today is being broadcast throughout Western Europe and North America. I understand that it is being seen and heard as well in the East. To those listening throughout Eastern Europe, a special word: Although I cannot be with you, I address my remarks to you just as surely as to those standing here before me. For I join you, as I join your fellow countrymen in the West, in this firm, this unalterable belief: Es gibt nur ein Berlin. [There is only one Berlin.]
Sự kiện chúng ta đứng cùng nhau ở đây hôm nay sẽ được truyền thông khắp Tây Âu và Bắc Mỹ. Tôi biết nó cũng sẽ được thấy và nghe ở phía Đông. Xin gửi tới những người đang lắng nghe phát thanh này ở khắp Đông Âu, một lời đặc biệt: Mặc dù chúng tôi không thể ở cùng với các bạn, tôi xem trọng các bạn ở nơi đó cũng như mọi người đang đứng đây, trước tôi. Vì tôi ở cùng với các bạn, khi tôi ở cùng với những người đồng hương của các bạn ở phía Tây trong một niềm tin mãnh liệt không dời đổi: Es gibt nu rein Berlin [Chỉ có một Berlin duy nhất]
Behind me stands a wall that encircles the free sectors of this city, part of a vast system of barriers that divides the entire continent of Europe. From the Baltic, south, those barriers cut across Germany in a gash of barbed wire, concrete, dog runs, and guard towers. Farther south, there may be no visible, no obvious wall. But there remain armed guards and checkpoints all the same–still a restriction on the right to travel, still an instrument to impose upon ordinary men and women the will of a totalitarian state. Yet it is here in Berlin where the wall emerges most clearly; here, cutting across your city, where the news photo and the television screen have imprinted this brutal division of a continent upon the mind of the world. Standing before the Brandenburg Gate, every man is a German, separated from his fellow men. Every man is a Berliner, forced to look upon a scar.
Đằng sau lưng tôi đứng sừng sững bức tường bao quanh khu vực tự do của thành phố này, một phần rất lớn của bức tường ngăn đôi toàn thể lục địa của châu Âu. Từ biển Baltic, ở phía nam, bức tường này băng ngang qua nước Đức thành một vết cắt rất sâu với kẽm gai, bê tông, chó bảo vệ và các đồn canh. Đi xa hơn nữa về phía nam, không nhìn thấy một bức tường cụ thể nào ngay trước mắt. Nhưng những đồn kiểm tra và lính gác trang bị vũ khí quân sự ở đó cũng tương tự vậy thôi – vẫn là sự hạn chế quyền tự do đi lại, vẫn là phương tiện để bắt buộc những người dân bình thường hứng chịu một tình trạng chuyên chế. Nhưng chính là ở đây, Berlin, là nơi bức tường đứng sờ sờ ra đó rõ ràng nhất; ở đây, nó cắt ngang qua thành phố của các bạn mà tất cả các hình ảnh trên báo chí và ti vi đều chìa ra cho cả thế giới thấy sự chia cắt lục địa một cách nghiệt ngã. Đứng trước Cổng Brandenburg, tất cả mọi người Đức đều bị chia cắt bởi những người anh em cùng tổ quốc với mình. Tất cả mọi người Berlin đều bị ép buộc phải ngước nhìn lên một vết cắt.
President von Weizsacker has said, “The German question is open as long as the Brandenburg Gate is closed.” Today I say: As long as the gate is closed, as long as this scar of a wall is permitted to stand, it is not the German question alone that remains open, but the question of freedom for all mankind. Yet I do not come here to lament. For I find in Berlin a message of hope, even in the shadow of this wall, a message of triumph.
Tổng Thống von Weizsacker từng nói, “Chừng nào Cổng Brandenburg còn đóng, khi đó vấn đề của người Đức vẫn còn để ngỏ”. Hôm nay tôi nói rằng: Ngày nào cánh cửa này còn đóng chặt, ngày đó vết cắt – bức tường – vẫn còn được phép ở đó, không phải chỉ là vấn đề của người Đức vẫn cứ còn để mở ngỏ mà là cả câu hỏi về quyền tự do của nhân loại còn chưa được giải đáp. Nhưng tôi không phải đến đây để than van và rên rỉ. Vì tôi tìm thấy ở nơi đây, Berlin, ngay cả dưới bóng mờ của bức tường này, thông điệp của hy vọng, thông điệp của vinh quang và chiến thắng.
In this season of spring in 1945, the people of Berlin emerged from their air-raid shelters to find devastation. Thousands of miles away, the people of the United States reached out to help. And in 1947 Secretary of State–as you’ve been told–George Marshall announced the creation of what would become known as the Marshall Plan. Speaking precisely 40 years ago this month, he said: “Our policy is directed not against any country or doctrine, but against hunger, poverty, desperation, and chaos.”
Cũng mùa xuân này năm 1945, người dân Berlin đã vùng dậy từ những hầm trú ẩn tránh bom để nhin thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Và từ hàng ngàn dặm xa, người dân Hoa Kỳ đã vươn đến để trợ giúp. Rồi năm 1947, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ – như quý vị và các bạn đã được nghe – George Marshall đã tuyên bố sáng lập dự án được mọi người biết đến với tên gọi “Dự Án Marshall”. Chính xác mà nói, vào tháng này, cách đây 40 năm, ông đã tuyên bố: “Chính sách của chúng tôi không hướng đến chống lại bất cứ đất nước nào, chế độ nào mà chỉ chống lại đói, nghèo, tuyệt vọng, và mất trật tự”.
In the Reichstag a few moments ago, I saw a display commemorating this 40th anniversary of the Marshall Plan. I was struck by the sign on a burnt-out, gutted structure that was being rebuilt. I understand that Berliners of my own generation can remember seeing signs like it dotted throughout the western sectors of the city. The sign read simply: “The Marshall Plan is helping here to strengthen the free world.” A strong, free world in the West, that dream became real. Japan rose from ruin to become an economic giant. Italy, France, Belgium–virtually every nation in Western Europe saw political and economic rebirth; the European Community was founded.
Chỉ mới cách đây vài khoảnh khắc trong ngôi nhà Reichstag, tôi đã thấy một trang trí tưởng niệm 40 năm “Dự Án Marshall”. Tôi đã rất ấn tượng bởi tấm bảng treo trên một kiến trúc đã bị cháy rụi và phá hủy đang được xây dựng lại. Tôi biết rằng người Berlin ở thế hệ của tôi có thể nhớ những tấm bảng như thế xuất hiện ở rất nhiều nơi ở phần phía Tây của thành phố. Trên đó đơn giản ghi: “Dự Án Marshall đang giúp đỡ nơi này nhằm mục tiêu củng cố sức mạnh cho thế giới tự do”. Một thế giới mạnh mẽ và tự do ở phương Tây, giấc mơ đã trở thành sự thật Nhật Bản vươn lên từ đổ nát để trở thành một người khổng lồ về kinh tế. Ý, Pháp, Bỉ – rõ ràng mọi quốc gia Tây Âu đều đã nhìn thấy sự tái sinh về kinh tế và chính trị; Hội Đồng Chung Châu Âu đã được thành lập.
In West Germany and here in Berlin, there took place an economic miracle, the Wirtschaftswunder. Adenauer, Erhard, Reuter, and other leaders understood the practical importance of liberty–that just as truth can flourish only when the journalist is given freedom of speech, so prosperity can come about only when the farmer and businessman enjoy economic freedom. The German leaders reduced tariffs, expanded free trade, lowered taxes. From 1950 to 1960 alone, the standard of living in West Germany and Berlin doubled.
Ở Tây Đức và ở đây, Berlin, đã có những biến đổi kinh tế kỳ diệu như phép mầu, các nhà truyền thông hàng đầu như Wirtschaftswunder. Adenauer, Erhard, Reuter đã hiểu tầm quan trọng thực tiễn của tự do – nó cũng giống như sự thật chỉ nở rộ khi người làm báo được trao quyền tự do ngôn luận, cũng như thịnh vượng chỉ đến khi người nông dân và doanh nhân được hưởng tự do làm kinh tế. Những nhà lãnh đạo nước Đức đã giảm thuế xuất nhập khẩu, tăng cường mậu dịch tự do, giảm thuế trong nước. Chỉ từ năm 1950 đến 1960 thôi, tiêu chuẩn sống ở Tây Đức và Berlin đã tăng gấp đôi.
Where four decades ago there was rubble, today in West Berlin there is the greatest industrial output of any city in Germany–busy office blocks, fine homes and apartments, proud avenues, and the spreading lawns of parkland. Where a city’s culture seemed to have been destroyed, today there are two great universities, orchestras and an opera, countless theaters, and museums. Where there was want, today there’s abundance–food, clothing, automobiles–the wonderful goods of the Ku’damm. From devastation, from utter ruin, you Berliners have, in freedom, rebuilt a city that once again ranks as one of the greatest on earth. The Soviets may have had other plans. But my friends, there were a few things the Soviets didn’t count on–Berliner Herz, Berliner Humor, ja, und Berliner Schnauze. [Berliner heart, Berliner humor, yes, and a Berliner Schnauze.]
Ở nơi mà 4 thập niên trước đây chỉ là những hoang tàn đổ nát, ngày nay ở Tây Berlin đã xuất hiện các cơ sở dành cho công nghiệp lớn nhất đối với bất cứ thành phố nào trên nước Đức – các khu văn phòng bận rộn, những khu nhà và căn hộ đẹp đẽ, những đại lộ tràn đầy tự hào, và những bãi cỏ công viên trải dài tít tắp. Nơi mà văn hóa thành phố dường như đã bị phá hủy, ngày nay ở đó có 02 đại học lớn, các phòng hòa nhạc và nhà hát opera, không biết bao nhiêu rạp hát, và bảo tàng. Nơi mà ngày nào chỉ toàn là thiếu thốn, ngày nay đầy ắp mọi thứ – thực phẩm, quần áo, xe cộ – đầy những hàng hóa tuyệt vời ở Ku’damm . Từ tuyệt vọng, từ đổ nát hoàn toàn, các bạn – những con dân Berlin – trong tự do – đã xây dựng lại thành phố đã từng được và nay lại một lần nữa được xếp hạng trong số những thành phố vĩ đại nhất trên trái đất. Người Sô Viết có thể có những hoạch định khác. Nhưng các bạn của tôi ơi, có những thứ mà người Sô Viết không kể đến – Berliner Herz, Berliner Humor, ja, und Berliner Schnauze. [Tâm của người Berlin, sự hài hước của người Berlin, và vâng, Berlin Schnauze ].
In the 1950s, Khrushchev predicted: “We will bury you.” But in the West today, we see a free world that has achieved a level of prosperity and well-being unprecedented in all human history. In the Communist world, we see failure, technological backwardness, declining standards of health, even want of the most basic kind–too little food. Even today, the Soviet Union still cannot feed itself. After these four decades, then, there stands before the entire world one great and inescapable conclusion: Freedom leads to prosperity. Freedom replaces the ancient hatreds among the nations with comity and peace. Freedom is the victor.
Những năm 1950, Khrushchev tiên đoán: “Chúng tôi sẽ chôn vùi mấy người”. Nhưng ở Tây Đức ngày nay, chúng ta nhìn thấy một thế giới tự do đã đạt được một mức độ thịnh vượng và hạnh phúc nhất định chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Trong thế giới Cộng Sản, chúng ta nhìn thấy tình trạng khánh kiệt, lạc hậu về công nghệ, tiêu chuẩn y tế giảm sút, thậm chí thiếu thốn cả nhu cầu cơ bản nhất – có quá ít thực phẩm. Ngay cả đến giờ này, Liên Bang Sô Viết vẫn không có đủ thức ăn cho chính họ. Sau bốn thập niên vừa qua, có thể thấy trước toàn thể thế giới một kết luận hết sức rõ ràng và không thể chối bỏ: Có tự do mới dẫn đến thịnh vượng. Tự do sẽ giúp mang đến sự thân thiện và hòa bình giữa các quốc gia thay cho lòng thù hận truyền kỳ. Tự do là chiến thắng.
And now the Soviets themselves may, in a limited way, be coming to understand the importance of freedom. We hear much from Moscow about a new policy of reform and openness. Some political prisoners have been released. Certain foreign news broadcasts are no longer being jammed. Some economic enterprises have been permitted to operate with greater freedom from state control.
Và bây giờ, chính người Sô Viết, theo một cách rất hạn chế, vẫn có thể đã hiểu hơn tầm quan trọng của tự do. Chúng ta đã nghe rất nhiều từ Matx-cơ-va về một chính sách mới về đổi mới và mở cửa.. Một số tù nhân chính trị đã được trả tự do. Một số báo đài tin tức nước ngoài không còn bị giấu nhẹm. Một vài công ty và cơ sở kinh tế đã được cho phép hoạt động tự do ngoài tầm kiểm soát của nhà nước hơn.
Are these the beginnings of profound changes in the Soviet state? Or are they token gestures, intended to raise false hopes in the West, or to strengthen the Soviet system without changing it? We welcome change and openness; for we believe that freedom and security go together, that the advance of human liberty can only strengthen the cause of world peace. There is one sign the Soviets can make that would be unmistakable, that would advance dramatically the cause of freedom and peace.
Đấy có phải là bước khởi đầu cho những thay đổi lớn lao ở Liên Bang Sô Viết? Hay là đó chỉ là những động tác giả tạo, với ý định nâng cao hy vọng giả tạo ở phương Tây, hay là để củng cố sức mạnh của hệ thống Sô Viết mà không cần tiến hành một sự thay đổi nào? Chúng ta chào đón thay đổi và cởi mở; vì chúng tôi tin rằng tự do và an ninh đi cùng với nhau, rằng tự do của con người càng cao chỉ có thể làm tăng động lực cho hòa bình thế giới. Đó chính là dấu hiệu mà người Sô Viết có thể làm mà không thể nhầm lẫn vào đâu được, nó sẽ giúp đẩy mạnh một cách đáng kể động lực cho tự do và hòa bình.
General Secretary Gorbachev, if you seek peace, if you seek prosperity for the Soviet Union and Eastern Europe, if you seek liberalization: Come here to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr. Gorbachev, tear down this wall!
Tổng Thư Ký Gorbachev, nếu ông đi tìm hòa bình, nếu ông tđi tìm sự thịnh vượng cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu, nếu ông đi tìm sự giải phóng: Hãy đến cánh cổng này! Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này! Ông Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!
I understand the fear of war and the pain of division that afflict this continent– and I pledge to you my country’s efforts to help overcome these burdens. To be sure, we in the West must resist Soviet expansion. So we must maintain defenses of unassailable strength. Yet we seek peace; so we must strive to reduce arms on both sides.
Tôi hiểu sự sợ hãi chiến tranh và nỗi đau ngăn cách đã làm khổ sở phần lục địa này – và tôi cam kết với các bạn những nỗ lực của đất nước tôi để giúp các bạn vượt qua những khổ đau nặng nề này. Để chắc chắn, chúng ta ở phía Tây phải nhất định kháng cự sự bành trướng của Sô Viết. Vì vậy chúng ta phải duy trì phòng vệ với sức mạnh không cho phép bất cứ sự tấn công nào. Nhưng chúng ta đi tìm hòa bình; vì vậy chúng ta phải đấu tranh để giảm bớt vũ trang ở cả 2 bên.
Beginning 10 years ago, the Soviets challenged the Western alliance with a grave new threat, hundreds of new and more deadly SS-20 nuclear missiles, capable of striking every capital in Europe. The Western alliance responded by committing itself to a counter-deployment unless the Soviets agreed to negotiate a better solution; namely, the elimination of such weapons on both sides. For many months, the Soviets refused to bargain in earnestness. As the alliance, in turn, prepared to go forward with its counter-deployment, there were difficult days–days of protests like those during my 1982 visit to this city–and the Soviets later walked away from the table.
Bắt đầu từ cách đây 10 năm, người Sô Viết đã thách thức các đồng minh phương Tây với lời đe dọa khủng khiếp mới, hàng trăm tên lửa hạt nhân SS-20 và khả năng sát thương cao hơn, có đủ khả năng tấn công mọi thủ đô ở Châu Âu. Các đồng minh phương Tây phản ứng bằng cách cố tìm mọi cách để triển khai quân sự chống lại nếu như người Sô Viết không chịu đàm phán một giải pháp tốt hơn; thẳng ra, là kêu gọi loại bỏ những vũ khí kiểu như thế ở cả 2 phía. Nhưng nhiều tháng trôi qua, người Sô Viết vẫn từ chối thương lượng thật lòng. Và ngược lại, khi phe đồng minh chuẩn bị để tiến tới triển khai quân sự đối phó, đó quả là những ngày tháng khó khăn – ngày tháng của biểu tình kháng nghị ví dụ như năm 1982 khi tôi đến thăm thành phố này – và người Sô Viết sau đó bỏ bàn đàm phán ra đi.
But through it all, the alliance held firm. And I invite those who protested then– I invite those who protest today–to mark this fact: Because we remained strong, the Soviets came back to the table. And because we remained strong, today we have within reach the possibility, not merely of limiting the growth of arms, but of eliminating, for the first time, an entire class of nuclear weapons from the face of the earth.
Nhưng dù thế nào đi nữa, phe đồng minh vẫn giữ vững lập trường. Và tôi mời những người đã từng biểu tình kháng nghị lúc đó – Tôi mời những người biểu tình ngày hôm nay – hãy đánh dấu sự thật rằng: Vì chúng ta giữ vững lập trường một cách mạnh mẽ, người Sô Viết đã quay trở lại bàn đàm phán. Và bởi vì chúng ta giữ vững lập trường một cách mạnh mẽ, hôm nay chúng ta mới đến gần khả năng, không chỉ đơn thuần hạn chế vũ khí phát triển, mà còn lần đầu tiên loại bỏ được toàn bộ một lớp vũ khí hạt nhân ra khỏi bề mặt trái đất.
As I speak, NATO ministers are meeting in Iceland to review the progress of our proposals for eliminating these weapons. At the talks in Geneva, we have also proposed deep cuts in strategic offensive weapons. And the Western allies have likewise made far-reaching proposals to reduce the danger of conventional war and to place a total ban on chemical weapons.
Khi tôi đang phát biểu ở nơi này, các đại diện các quốc gia ở NATO đang tiến hành cuộc họp ở Iceland để xem xét tiến trình bảng kiến nghị của chúng ta về việc loại bỏ những vũ khí này. Tại bàn đàm phán ở Geneva, chúng ta cũng đã đề xuất cắt giảm rất nhiều đối với các vũ khí tấn công chiến lược Và các nước đồng minh phương Tây cũng tương tự đã đề xuất những mục tiêu rất cao để cắt giảm mối nguy xảy ra chiến tranh đánh trận truyền thống và áp đặt một lệnh cấm hoàn toàn đối với vũ khí hóa học.
While we pursue these arms reductions, I pledge to you that we will maintain the capacity to deter Soviet aggression at any level at which it might occur. And in cooperation with many of our allies, the United States is pursuing the Strategic Defense Initiative–research to base deterrence not on the threat of offensive retaliation, but on defenses that truly defend; on systems, in short, that will not target populations, but shield them. By these means we seek to increase the safety of Europe and all the world. But we must remember a crucial fact: East and West do not mistrust each other because we are armed; we are armed because we mistrust each other. And our differences are not about weapons but about liberty. When President Kennedy spoke at the City Hall those 24 years ago, freedom was encircled, Berlin was under siege. And today, despite all the pressures upon this city, Berlin stands secure in its liberty. And freedom itself is transforming the globe.
Trong khi chúng ta đang theo đuổi những đề xuất cắt giảm vũ khí vừa nêu, tôi cam kết với các bạn rằng chúng ta vẫn sẽ tiếp tục duy trì khả năng phát hiện sự tấn công của phía Sô Viết ở bất kỳ mức độ nào. Và khi hợp tác với rất nhiều đồng minh của chúng tôi, nước Mỹ đang theo đuổi Sáng Kiến Phòng Thủ Chiến Lược – một nghiên cứu ngăn chặn không dựa vào tấn công những đe dọa trả đũa mà vào phòng thủ thực sự; nói đơn giản, sẽ là những hệ thống không nhắm vào con người mà che chở cho con người. Với những phương tiện này chúng tôi mong muốn gia tăng an ninh ở châu Âu và cả thế giới. Nhưng chúng ta phải nhớ một sự thật quan trọng là: Đông và Tây không tin tưởng lẫn nhau vì chúng ta đều có trang bị vũ trang; mà chúng ta trang bị vũ trang vì chúng ta không tin tưởng nhau. Và sự khác biệt của chúng ta [với phe phía Đông] không phải là vũ khí mà chính là sự tự do. Khi Tổng Thống Kennedy phát biểu tại Tòa Thị Chính cách đây 24 năm, tự do đã bị bao vây, Berlin đã bị vây hãm. Và ngày hôm nay, bất chấp tất cả áp lực đè lên thành phố này, Berlin đứng an toàn trong sự độc lập của mình. Và chính sự tự do đang làm chuyển đổi thế giới.
In the Philippines, in South and Central America, democracy has been given a rebirth. Throughout the Pacific, free markets are working miracle after miracle of economic growth. In the industrialized nations, a technological revolution is taking place–a revolution marked by rapid, dramatic advances in computers and telecommunications.
Ở Philippines, ở Nam và Trung Mỹ, dân chủ đã được tái sinh. Khắp Thái Bình Dương, thị trường tự do đang là phép màu nhiệm sau phép màu phát triển kinh tế. Ở các nước công nghiệp, cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra – một cuộc cách mạng được đánh dấu bởi những phát triển nhanh và đầy kịch tính trong công nghệ computer và viễn thông.
In Europe, only one nation and those it controls refuse to join the community of freedom. Yet in this age of redoubled economic growth, of information and innovation, the Soviet Union faces a choice: It must make fundamental changes, or it will become obsolete.
Ở Châu Âu, chỉ có một quốc gia và những nước mà quốc gia đó kiểm soát từ chối gia nhập cộng đồng tự do. Nhưng trong thời đại phát triển kinh tế mạnh mẽ, thời đại của đổi mới và thông tin, Liên Bang Sô Viết đối diện với 1 lựa chọn: họ phải tiến hành một sự thay đổi cơ bản, hoặc là họ sẽ trở nên lỗi thời.
Today thus represents a moment of hope. We in the West stand ready to cooperate with the East to promote true openness, to break down barriers that separate people, to create a safe, freer world. And surely there is no better place than Berlin, the meeting place of East and West, to make a start. Free people of Berlin: Today, as in the past, the United States stands for the strict observance and full implementation of all parts of the Four Power Agreement of 1971. Let us use this occasion, the 750th anniversary of this city, to usher in a new era, to seek a still fuller, richer life for the Berlin of the future. Together, let us maintain and develop the ties between the Federal Republic and the Western sectors of Berlin, which is permitted by the 1971 agreement.
Do đó ngày hôm nay đại diện cho khoảnh khắc của hy vọng. Chúng ta ở phương Tây đứng lên sẵn sàng hợp tác với phương Đông để đi đến một sự cởi mở chân thành, để phá vỡ những hàng rào ngăn cách đã chia cách con người với con người, để tạo nên một thế giới an toàn hơn và tự do hơn. Và chắc chắn rằng không có nơi nào tốt đẹp hơn Berlin, nơi phương Tây gặp gỡ phương Đông, để khởi đầu cho sự hợp tác đó. Hỡi những con người tự do của Berlin: Hôm nay, cũng như hôm qua, Nước Mỹ sẽ tuân thủ chặt chẽ và đảm bảo thực hiện hoàn toàn tất cả các phần của Bản Hiệp Ước Bốn Bên năm 1971. Hãy cho phép chúng tôi nhân dịp này, kỷ niệm thành phố 750 tuổi, để mở ra một kỷ nguyên mới, để tìm đến một đời sống mới toàn hảo hơn và thịnh vượng hơn cho Berlin trong tương lai. Cùng với nhau, chúng ta hãy duy trì và phát triển mối quan hệ bền chặt giữa Cộng Hòa Liên Bang và Tây Berlin đã được Bản Hiệp Ước 1971 cho phép.
And I invite Mr. Gorbachev: Let us work to bring the Eastern and Western parts of the city closer together, so that all the inhabitants of all Berlin can enjoy the benefits that come with life in one of the great cities of the world.
Và tôi gọi mời Tổng Thống Gorbachev: Hãy để chúng tôi mang hai phía Đông Tây của thành phố này đến gần hơn với nhau, để tất cả cư dân của toàn Berlin có thể tận hưởng những lợi ích đi kèm với đời sống của một trong những thành phố lớn và tuyệt vời trên thế giới.
To open Berlin still further to all Europe, East and West, let us expand the vital air access to this city, finding ways of making commercial air service to Berlin more convenient, more comfortable, and more economical. We look to the day when West Berlin can become one of the chief aviation hubs in all central Europe.
Để mở cửa Berlin xa hơn đến toàn Châu Âu, Đông và Tây, chúng ta hãy mở rộng đường bay cần thiết đến thành phố này, tìm cách để dịch vụ hàng không thương mại của Berlin tiện lợi hơn, thoải mái hơn, và giá thấp hơn. Chúng tôi mong được có một ngày khi Tây Berlin có thể trở thành một trong những trạm vận chuyển hàng không trung tâm nhất trong khu vực trung tâm của Châu Âu.
With our French and British partners, the United States is prepared to help bring international meetings to Berlin. It would be only fitting for Berlin to serve as the site of United Nations meetings, or world conferences on human rights and arms control or other issues that call for international cooperation.
Cùng với các đồng minh Anh và Pháp của chúng tôi, nước Mỹ đang chuẩn bị giúp mang các cuộc họp quốc tế đến Berlin. Chỉ có Berlin là nơi phù hợp nhất để tổ chức các cuộc họp của Liên Hiệp Quốc, hoặc các hội nghị toàn cầu về nhân quyền và kiểm soát vũ trang hoặc các vấn đề kêu gọi hợp tác quốc tế.
There is no better way to establish hope for the future than to enlighten young minds, and we would be honored to sponsor summer youth exchanges, cultural events, and other programs for young Berliners from the East. Our French and British friends, I’m certain, will do the same. And it’s my hope that an authority can be found in East Berlin to sponsor visits from young people of the Western sectors.
Không có cách nào tạo ra niềm hy vọng cho tương lai tốt hơn là mở rộng và phát triển đầu óc cũa giới trẻ và chúng tôi rất hân hạnh tài trợ cho những chương trình trao đổi thanh thiếu niên trong mùa hè, các sự kiện văn hóa cũng như những chương trình khác cho các thanh thiếu niên Berlin ở Đông Berlin. Các bạn Anh và Pháp của chúng ta, tôi chắc chắn sẽ cũng làm những điều tương tự. Và tôi hy vọng rằng sẽ có một chính quyền phía Đông Berlin cũng tài trợ để cho phép các cuộc viếng thăm của các thanh thiếu niên ở phía Tây Berlin
One final proposal, one close to my heart: Sport represents a source of enjoyment and ennoblement, and you may have noted that the Republic of Korea–South Korea–has offered to permit certain events of the 1988 Olympics to take place in the North. International sports competitions of all kinds could take place in both parts of this city. And what better way to demonstrate to the world the openness of this city than to offer in some future year to hold the Olympic games here in Berlin, East and West? In these four decades, as I have said, you Berliners have built a great city. You’ve done so in spite of threats–the Soviet attempts to impose the East-mark, the blockade. Today the city thrives in spite of the challenges implicit in the very presence of this wall. What keeps you here? Certainly there’s a great deal to be said for your fortitude, for your defiant courage. But I believe there’s something deeper, something that involves Berlin’s whole look and feel and way of life–not mere sentiment. No one could live long in Berlin without being completely disabused of illusions. Something instead, that has seen the difficulties of life in Berlin but chose to accept them, that continues to build this good and proud city in contrast to a surrounding totalitarian presence that refuses to release human energies or aspirations. Something that speaks with a powerful voice of affirmation, that says yes to this city, yes to the future, yes to freedom. In a word, I would submit that what keeps you in Berlin is love–love both profound and abiding.
Lời đề nghị cuối cùng, lời đề nghị rất gần với trái tim tôi: Thể thao là nguồn vui và nguồn sinh lực sảng khoái, và các bạn chắc cũng đã chú ý rằng Cộng Hòa Triều Tiên – Nam Hàn – đã đưa ra đề nghị cho phép một số sự kiện nhất định trong Olympic 1988 được diễn ra ở phía Bắc. Các cuộc thi thể thao quốc tế đủ thể loại có thể diễn ra ở cả 2 phần của thành phố. Và cách nào tốt hơn để minh họa sự cởi mở của thành phố này với cả thế giới hơn là đề nghị tổ chức, trong vài năm tới, một Thế Vận Hội Olympic ở tại đây, Berlin, cả Đông và Tây?
Trong 4 thập niên vừa qua, như tôi đã nói, các bạn những người Berlin đã xây dựng một thành phố tuyệt vời. Các bạn đã làm được bất chấp những đe dọa – Sô Viết đã cố gắng để tác động mạnh lên các bạn với những dấu vết của phía Đông, sự bao vây và phong tỏa. Ngày nay thành phố vươn lên thịnh vượng bất chấp những thách thức tiềm tàng trong sự hiện diện của bức tường này. Điều gì đã giữ các bạn ở đây giờ này? Chắc chắn có rất nhiều điều để nói về sự mạnh mẽ và sự gan dạ không chùng của các bạn. Nhưng tôi tin rằng còn có thứ khác sâu thẳm hơn, thứ mà có mối liên hệ với cái nhìn và cảm xúc và đời sống của một Berlin toàn thể – không hoàn toàn chỉ là cảm tính. Không ai có thể sống lâu lại Berlin mà không hoàn toàn tỉnh thức. Thay vào cho những ảo tưởng là những điều nào đó ở các bạn, cái đã chứng kiến được những khó khăn trong đời sống ở Berlin nhưng chọn chấp nhận chúng, và tiếp tục giúp xây dựng một thành phố tốt đẹp và tự hào ngược lại với sự hiện diện của chế độ chuyên chế ở xung quanh từ chối thả tự do cho năng lượng hay khát vọng của con người. Một điều gì đó vang lên bằng một giọng khẳng định mạnh mẽ, trả lời có với thành phố này, có với tương lai, có với tự do. Chỉ 1 từ thôi, tôi dám nói đó là những gì giữ các bạn ở lại với Berlin, đó là tình yêu – một tình yêu sâu thẳm và không đổi dời.
Perhaps this gets to the root of the matter, to the most fundamental distinction of all between East and West. The totalitarian world produces backwardness because it does such violence to the spirit, thwarting the human impulse to create, to enjoy, to worship. The totalitarian world finds even symbols of love and of worship an affront. Years ago, before the East Germans began rebuilding their churches, they erected a secular structure: the television tower at Alexander Platz. Virtually ever since, the authorities have been working to correct what they view as the tower’s one major flaw, treating the glass sphere at the top with paints and chemicals of every kind. Yet even today when the sun strikes that sphere–that sphere that towers over all Berlin–the light makes the sign of the cross. There in Berlin, like the city itself, symbols of love, symbols of worship, cannot be suppressed.
Có lẽ điều này sẽ chạm đến gốc rễ của vấn đề, đến cái nền tảng riêng biệt cơ bản nhất của tất cả những gì giữa Đông và Tây. Thế giới chuyên chế tạo ra sự thụt lùi bởi vì nó cưỡng bức tinh thần, ngăn trở nhiệt huyết của con người không cho họ sáng tạo, hưởng thụ hay thờ phượng. Thế giới chuyên chế cho rằng ngay cả biểu tượng của tình yêu và sự tôn kính tôn giáo là sỉ nhục. Cách đây nhiều năm, trước khi người Đông Đức xây dựng lại các nhà thờ, họ đã dựng một kiến trúc vĩnh cửu: tháp ti vi tại Quãng trường Alexander Platz. Gần như kể từ ngày đó, các nhà cầm quyền đã cố gắng chỉnh sửa cái họ xem như 1 lỗi quan trọng của cái tháp, họ tìm mọi cách sơn và sử dụng đủ loại hóa chất lên quả cầu kính trên đỉnh Nhưng ngay cả hôm nay, khi mặt trời rọi vào quả cầu – quả cầu vượt cao lên hẳn khắp Berlin – tạo ra tia sáng mang hình thập tự. Đó chính là Berlin, giống như chính thành phố, những biểu tượng của tình yêu, biểu tượng của tôn kính tôn giáo không thể bị đàn áp.
As I looked out a moment ago from the Reichstag, that embodiment of German unity, I noticed words crudely spray-painted upon the wall, perhaps by a young Berliner: “This wall will fall. Beliefs become reality.” Yes, across Europe, this wall will fall. For it cannot withstand faith; it cannot withstand truth. The wall cannot withstand freedom.
Khi tôi ngắm vài khoảnh khắc trước đây từ Reichstag, hiện thân của một nước Đức thống nhất, tôi chú ý những chữ được phun xịt bằng sơn nguệch ngoạc trên bức tường, có lẽ bởi một bạn trẻ người Berlin: “Bước tường này sẽ sụp đổ. Niềm tin trở nên hiện thực”. Vâng, xuyên qua Châu Âu, bức tường này sẽ sụp đổ. Vì nó không thể kháng cự lại đức tin; nó không thể kháng cự lại sự thật. Bức tường không thể kháng cự được tự do.
And I would like, before I close, to say one word. I have read, and I have been questioned since I’ve been here about certain demonstrations against my coming. And I would like to say just one thing, and to those who demonstrate so. I wonder if they have ever asked themselves that if they should have the kind of government they apparently seek, no one would ever be able to do what they’re doing again.
Và tôi muốn, trước khi tôi kết thúc, phát biểu một thứ. Tôi đã đọc và tôi đã thắc mắc từ khi tôi đến đây về các cuộc biểu tình chống đối cuộc đến thăm của tôi ở Berlin. Và tôi chỉ muốn nói chỉ một thứ, và gửi đến những người biểu tình. Tôi tự hỏi nếu họ có bao giờ thử hỏi lại chính họ rằng nếu họ có được loại chính quyền mà họ đang mong muốn, liệu có ai có thể làm cái điều mà họ đang làm thêm lần nữa không.
Thank you and God bless you all.
Trân trọng cám ơn và cầu mong Thượng Đế chúc phúc cho tất cả các bạn.
President Ronald Reagan – June 12, 1987
Tổng Thống Ronal Reagan – 12 Tháng 6 Năm 1987
Post-note: Two years later, in November 1989, East Germans issued a decree for the wall to be opened, allowing people to travel freely into West Berlin. In some cases, families that had been separated for decades were finally reunited. The wall was torn down altogether by the end of 1990 upon the collapse of Communism in Eastern Europe and in Soviet Russia itself, marking the end of the Cold War era.
Ghi chú thêm: 02 năm sau, Tháng 11 Năm 1989, người Đông Đức ban ra một nghị định mở cửa bức tường, cho phép người dân đi lại tự do sang Tây Đức. Trong một số trường hợp, các gia đình đã bị ly tán nhiều thập kỹ cuối cùng đã được sum họp. Bức tường được giật sập hoàn toàn vào cuối năm 1990 theo sau sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và ngay tại Nga Sô Viết, đánh dấu kết thúc thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
(Phạm Hồng Quyên dịch)
The fruit of his labors: In 1990, former President Ronald Reagan 
got to take hammer and chisel to the Berlin Wall after the fall of the Soviet empire.
 President Reagan poses with Mikhail Gorbachev by the piece of the Berlin Wall at Library
Chuyến thăm bức tường Bá Linh (Ronald Reagan)
  Ngô Kỷ chuyển ngữ bài viết của Tổng Thống Ronald Reagan kể lại chuyến thăm bức tường Bá Linh

RONALD REAGAN
TỔNG THỐNG RONALD REAGAN, NGƯỜI HÙNG CHỐNG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN,
 NGƯỜI PHỤC HỒI DANH DỰ VÀ SỨC MẠNH CHO HOA KỲ ĐÃ TỪ TRẦN!
Ngày 5.6.2004, cả nhân dân Mỹ xúc động khi nghe tin cựu TT. Ronald Reagan từ trần và hàng triệu người trên thế giới đã thương tiếc người anh hùng chống cộng số một của Hoa Kỳ đã ra đi vĩnh viễn vào lòng đất mẹ. Để tìm hiểu tại sao cố TT. Reagan lại được mọi người cảm mến như vậy, chúng tôi xin trình bày một số dữ kiện về vị Tổng thống thứ 40 của Hiệp Chủng Quốc.
I- ĐÔI DÒNG VỀ CỐ TỔNG THỐNG RONALD WILSON REAGAN
Cố TT. Ronald Reagan sinh ngày 6.2.1911, tại Tampico, tiểu bang Illinois. Năm 1932, sau khi tốt nghiệp khoa kinh tế và xã hội tại trường Eurika, sinh viên Reagan theo nghề báo chí và thể thao. Năm 1937, nhà báo Reagan được hãng phim nổi tiếng Warner Bros mời ký hợp đồng đóng phim và ông đã đóng khoảng 50 cuốn phim. Năm 1940, tài tử Reagan kết hôn lần thứ nhất với nữ minh tinh Jane Wyman, nhưng đến năm 1947, mối tình đầu tan vỡ. Không để cho tình cảm bẽ bàng chi phối đời mình, tài tử Reagan quyết tâm tiến bước trong lãnh vực điện ảnh và trở thành Chủ tịch Hiệp hội Tài tử Điện ảnh.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, vì mắt yếu, tài tử Reagan không phải phục vụ trong các đơn vị chiến đấu. Ông được bổ sung vào đơn vị làm phim huấn luyện quân sự và xuất ngũ năm 1945 với cấp bậc Đại úy. Ngày 4.3.1952 tài tử Reagan kết hôn lần thứ hai với nữ minh tinh Nancy Davis (tên thực là Anne Frances Robbins). Nàng Nancy bước vào nghề điện ảnh năm 1949 do sự giới thiệu của người bạn cũ của mẹ là Spencer Tracy. Cha Nancy chuyên nghề bán xe cũ và mẹ cũng là một nữ tài tử. Cuộc tình xẩy ra giữa nam tài tử Reagan nổi tiếng chống phát xít, cộng sản và nữ minh tinh Nancy phản chiến, thân cộng là một sự kiện khó tin nhưng có thật! Hai người gặp nhau năm 1950, do môi giới của người bạn già là giám đốc Mervyn LeRoy. Khi tài tử Reagan làm chủ tịch Hiệp hội Tài tử Điện ảnh, thì Nancy yêu chàng. Vì vậy, Nancy đã nhờ người yêu sửa lại lý lịch của mình. Kể từ ngày "chiêu hồi về với chính nghĩa quốc gia", nàng Nancy luôn sát cánh và có ảnh hưởng khá nhiều đến sự nghiệp chống cộng của chồng. Họ yêu nhau say đắm và thường dùng tên gọi ngọt ngào. Chàng gọi nàng bằng "Mammy = má nó", nàng gọi chàng bằng "Ronnie"(tiếng lóng của Ronald). Tài tử Reagan có hai con với người vợ trước là Maureen và Mike. Nàng Nancy sinh cho chồng cũng hai người con là Patti (Patricia Ann) và Ron (Ronald Prescott). Hai người từng đóng chung trong phim "Hellcats of the Navy" vào năm 1957.
II- SỰ THÀNH CÔNG TRONG CÁC CHÍNH SÁCH CỦA CỐ TT. RONALD REAGAN
2.1- Về lãnh vực kinh tế
Khi TT. Reagan lên nhậm chức thì kinh tế Mỹ đang bị rơi vào tình trạng lạm phát gia tăng gấp hai, thất nghiệp nhiều và tiền lời vay mượn trong ngân hàng khá cao. Do đó, TT. Reagan đã thực hiện chương trình giảm thuế và giảm thiểu chi phí công quỹ. Thuế sẽ giảm 25% trong vòng 3 năm. Nhờ vậy tình trạng lạm phát ngưng lại. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ còn bị trì trệ khiến cho nạn thất nghiệp tiếp tục gia tăng và chương trình giảm thuế không thực hiện được ngay trong thời gian đầu. Để trấn an dư luận, TT. Thống Reagan đã phải kêu gọi dân chúng hãy bình tĩnh. Để tạo nên một ấn tượng tốt về tương lai, TT. Reagan đã đưa ra khẩu hiệu "Bình minh lại về trên đất Mỹ" (It’s morning again in America). Tới năm 1983 kinh tế Mỹ bắt đầu từ từ phục hồi và là nguyên nhân của sự thắng cử Tổng thống nhiệm kỳ hai, của ông già đã 73 tuổi, trên khắp các tiểu bang, ngoại trừ tiểu bang Min-nesota nơi cư trú của ứng cử viên Mondale.
2.2- Về lãnh vực chính trị và ngoại giao
Trước sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản vào thập niên 1940, một phần do ảnh hưởng của cha là đảng viên Dân Chủ, một phần được khích lệ bởi cái "anh hùng tính" của người trai thời chiến mà Tổng thống Franklin Delano Roosevelt là một biểu tượng; tài tử Reagan ngày càng có khuynh hướng thiên hữu, chống Phát-xít và Cộng-sản. Trong môi trường điện ảnh, tài tử Reagan đã khám phá ra khuynh hướng thiên tả và thân cộng ngay trong hiệp hội tài tử màn bạc của mình từ năm 1947.
Năm 1960, tài tử Reagan, nguyên là đảng viên Dân Chủ, nhưng đã vận động cho ứng cử viên tổng thống Richard Nixon thuộc đảng Cộng Hòa. Năm 1962 thì ông bỏ đảng Dân Chủ sang Cộng Hòa và liên tiếp thắng Pat Brown hai lần trong chức vụ Thống đốc tiểu bang California. Từ California, Thống đốc Reagan chuẩn bị con đường tiến vào Tòa Bạch Ốc bằøng chương trình cải tổ thiết thựïc nhất là: Giảm thuế và cắt giảm chi phí cũng như số lượng nhân viên trong guồng máy chính phủ. Một trong các hành động ưu tiên hàng đầu ngay sau khi lên nhậm chức của TT. Reagan là việc can thiệp cho các người Mỹ bị Iran bắt làm con tin. Họ được phóng thích sau khi chính quyền Iran được Hoa Kỳ thỏa mãn yêu sách mua vũ khí để chống Iraq. Một trong các hành động anh hùng chống cộng sản của TT. Reagan có thể chứng minh qua bức thư gửi Leonid Breznev, Tổng Bí thư Sô Viết, một lãnh tụ cộng sản sừng sỏ và hiếu chiến. Tháng 4/1981, sau khi bị ám sát và thoát chết, TT. Reagan đã gửi cho trùm cộng sản quốc tế một bức thư với lời lẽ cảnh cáo đanh thép mà chúng tôi xin tóm tắt ý chính như sau:
-Để cảnh cáo về cuộc xâm lược A Phú Hãn của Sô Viết, TT. Reagan viết: "…Liệu một gia đình trung bình người Nga có cuộc sống sung sướng hơn trong khi họ có hay biết gì chính phủ đã áp đặt ý đồ của mình lên nhân dân Afghanistan?"
-Để trả lời cho sự cáo buộc Hoa Kỳ cũng xâm lăng các nước khác, TT. Reagan đã trả lời Breznev một cách thẳng thắn: "…Trong thư của mình, ngài muốn nói rằng hành động của Sô Viết trở nên cần thiết vì mưu đồ và tham vọng đế quốc Mỹ là mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ, vì vậy, nó là sự đe doạ nền an ninh của Sô Viết... Nhưng, không bằng chứng nào chứng minh cho lời cáo buộc này, mà chỉ có bằng chứng rõ ràng rằng, Hoa Kỳ trong khi có khả năng bá chủ thế giới, dù không gặp nguy hiểm gì, đã không theo đuổi nỗ lực nào như Sô Viết... Khi Thế chiến II kết thúc, nước Mỹ là quốc gia duy nhất trên thế giới có nền công nghiệp không bị phá hủy. Sức mạnh quân sự đạt tới đỉnh cao và chúng tôi có cả vũ khí mạnh nhất, bom nguyên tử, cùng khả năng không cần phải tranh luận là có thể đem loại vũ khí này tới bất kỳ nước nào trên thế giới. Nếu chúng tôi muốn làm bá chủ thế giới, ai có thể chống lại chúng tôi? Nhưng nước Mỹ đã đi theo đường hướng khác - con đường độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại là chúng tôi sử dụng sức mạnh và sự phồn vinh của mình để xây dựng lại các nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, gồm cả các quốc gia đã từng là kẻ thù của chúng tôi…"
-Để nhấn mạnh về quyền làm người, TT. Reagan đã viết: "…Quả thật, các dân tộc trên thế giới, dù có dị biệt về chủng tộc và nguồn gốc sắc tộc, nhưng họ có nhiều điểm tương đồng. Họ muốn được quyền kiểm soát số phận mình. Họ muốn theo đuổi ngành nghề mình chọn và được trả công một cách công bằng. Họ muốn chăm lo gia đình trong hoà bình, không làm hại ai và cũng không muốn ai làm tổn hại mình. Các chính phủ thực tế có nhiệm vụ phục vụ lợi ích của dân chứ không phải ngược lại..."
Tuy vậy, dưới thời Leonid Breznev và Yuri Andropov vấn đề chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông và Tây vẫn còn căng thẳng. Mãi tới năm 1985, TT. Reagan mới gặp được lãnh tụ cộng sản có tinh thần hòa bình Mikhail Gorbachev. Quan hệ Mỹ-Nga được cải tiến qua cuộc họp thượng đỉnh tại Geneva. Thành quả của hội nghị đưa tới việc TT. Reagan và Chủ tịch Gorbachev ký kết hiệp ước tài giảm binh bị và hủy bỏ các loại hỏa tiễn tầm trung vào năm 1987.
Người ta còn nhớ trước đây TT. Reagan đã không ngần ngại gọi Sô Viết là "Đế quốc quỉ quái" (The Devil Empire); nay trong bài diễn văn lịch sử đọc tại cổng Brandenburg tại Bá Linh ngày 12.6.1987, ông lại nói: "Nếu ngài muốn mưu tìm hòa bình, nếu ngài muốn Liên Bang Sô Viết và Đông Âu phú cường, nếu ngài muốn tìm sự giải phóng thì hãy đến cổng này, mở cổng này và phá hủy bức tường này đi…" Lời kêu gọi này đã trở thành sự thực vào năm 1989 và nó đi vào lịch sử giống như lời tuyên bố lừng danh nói lên quyết tâm bảo vệ Tây Đức của TT. John F. Kennedy vào thập niên 1960: "Chỉ có một Bá Linh" (Es gibt nur ein Berlin).
2.3- Về lãnh vực quân sự
 - Chính sách chính yếu trong nhiệm kỳ hai của TT. Reagan là chấm dứt chiến tranh lạnh. Mở đầu cho trận cuồng phong làm sụp đổ các chế độ cộng sản Đông Âu là: cuộc chiến tranh tâm lý qua hệ thống truyền thanh của "Đài Phát Thanh Tự Do Âu Châu" (Radio Free Europe), rồi đến chương trình chiến tranh các vì sao (Star Wars). Lực lượng chủ yếu có ảnh hưởng chính trị lan ra toàn khu vực là cuộc cách mạng của Công đoàn Đoàn kết (Solidarity) của Lech Waleza ở Ba Lan có tác động mạnh trong toàn khối cộng sản Đông Âu và đưa tới sự sụp đổ của bức tường Bá Linh ngày 9.11.1989. Sự kiện này xẩy ra sau nụ hôn cuối cùng của Tổng Bí thư Gorbachev dành cho Thủ tướng Đông Đức Erich Honecker.
Để đạt thành quả trong chính sách chống cộng của mình, TT. Reagan đã sử dụng hàng trăm triệu Đô-la cho chương trình chiến tranh tâm lý bằng hệ thống phát thanh hướng về Đông Âu. Đài "Tiếng Nói Hoa Kỳ" (Voice of America = VOA), "Đài Tự Do Âu Châu" (Radio Free Europe) hay "Đài Tự Do" (Radio Liberty) đã truyền thanh các chương trình khuyến khích dân chúng dưới các chế độ cộng sản thành lập các phong trào đòi tự do dân chủ. Song song với chương trình phát thanh, TT. Reagan khuyến khích công dân, chính trị gia, doanh thương Mỹ viếng thăm Tiệp Khắc và các nước cộng sản Đông Âu để tiếp xúc với những người tranh đấu cho tự do và các tổ chức đối lập. Jiri Dienstbier, người tù lương tâm của Tiệp Khắc trước đây đã kể lại cho hãng thông tấn AP rằng, nhờ có sự hỗ trợ từ bên ngoài các phong trào đấu tranh đòi dân chủ tự do mới tự tin và mạng sống của họ được bảo đảm hơn.
Cùng với chương trình đánh địch bằng chiến tranh tâm lý, TT. Reagan không ngần ngại trực tiếp can thiệp vào cuộc chống khủng bố ở Lebanon năm 1983, dẹp tan các cuộc bạo động do cộng sản gây ra ở Grenada, Nicaragua, El Salvador; oanh kích thủ đô Libya vì TT. Muammar Quadhafi chứa chấp và hỗ trợ khủng bố giết lính Mỹ ở Tây Đức vào năm 1986 và làm nổ phi cơ dân sự ở Scotland năm 1988.
Để phát triển quốc phòng, TT. Reagan phải giảm bớt ngân sách dành cho các lãnh vực xã hội, giáo dục và y tế. Muốn mạnh, Hoa Kỳ cần nhiều loại vũ khí tối tân hơn Sô-viết. Tuy nhiên, dân chúng Mỹ lại sợ một cuộc thi đua vũ trang sẽ đưa tới thảm họa chiến tranh. Nhiều cuộc biểu tình đã xẩy ra. Nhưng TT. Reagan vẫn cứng rắn. Ngân sách dành cho chương trình phát triển quốc phòng gia tăng lên tới 35%. Chiến lược phòng thủ bằng các màn chắn phi đạn địch hay còn gọi là "chiến tranh các vì sao" được nghiên cứu và thực hiện.
Để khống chế Sô Viết trên thế thượng phong về sức mạnh quân sự, TT. Reagan đã ban hành nghị định cho phép sử dụng một ngân sách lớn lao chưa từng có, hơn một ngàn tỷ Đô-la, nhằm phát triển chương trình phòng thủ chiến lược "SDF" (The Strategic Defense Initiative) hay (Star Wars) và đưa ra hai kế hoạch:
- Thành lập màn chắn hỏa tiễn tại Âu Châu.
 Để thực hiện kế hoạch này, Hoa Kỳ sẽ xây dựng một số đài Radar tối tân tại Âu Châu. Hệ thống Radar này sẽ khám phá các hỏa tiễn của Sô Viết ngay từ khi thoát ra khỏi giàn phóng và tự động điều chỉnh hỏa tiễn chống hỏa tiễn của Mỹ phá hủy các hỏa tiễn địch ngay trên vùng trời địch. Như vậy chẳng khác nào Sô Viết tự hủy diệt bằng chính vũ khí nguyên tử của mình. (Nguyên tắc này đang được TT. George W. Bush quan tâm đối với Trung Cộng tại Á Châu. Dù Trung Cộng có mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự và dù có hàng ngàn hỏa tiễn mang đầu nổ nguyên tử đi chăng nữa, cũng sẽ rơi vào tình trạng tự hủy diệt, nếu nước này dở trò khiêu khích Hoa Kỳ và thế giới.)
- Thiết trí các dàn phóng hỏa tiễn nguyên tử tại Âu Châu.
 Kế hoạch này có lợi điểm là rút ngắn một nửa thời gian tấn công từ Hoa Kỳ vào lãnh thổ Sô Viết. Sô Viết muốn tấn công trả đũa Hoa Kỳ sẽ không kịp, vì: -các vị trí chiến lược và chiến thuật quân sự của Sô Viết bị phá hủy trước tiên -thời gian bay của các hỏa tiễn tấn công Hoa Kỳ kéo dài gấp đôi và đa số các hỏa tiễn bị chặn đánh ngay sau khi thoát ra khỏi giàn phóng. Đúng là đòn thượng sách "Gậy ông đập lưng ông!" Dù chương trình Star Wars chưa được thực hiện toàn vẹn, nhưng TT. Reagan đã thắng Sô Viết mà không cần bắn một hỏa tiễn nào. Lý do rất dễ hiểu: Đế quốc Đỏ không đào đâu ra cả ngàn tỷ Đô-la để thi đua vũ trang với Hoa Kỳ, trong khi Mikhail Gorbachev đang chủ trương xét lại về kinh tế và xã hội để chống đói giảm nghèo. Kinh nghiệm lịch sử này chứng minh cho một thực tế là "nếu không mạnh hơn cộng sản", người ta không thể nói chuyện hòa bình với họ được.
III- NHỮNG CHỐNG ĐỐI
 Thời nào cũng vậy: "nhân vô thập toàn". Chính sách cắt giảm trong lãnh vực xã hội, y tế và thi đua vũ trang là nguyên nhân đưa tới sự chống đối trong nước. Có thể vì thế mà khi xuất hiện trước khách sạn Washington, TT. Reagan đã bị John Jr. bắn gần trúng tim, nhưng thoát chết. Khi tỉnh, ông vẫn không quên cái tính khôi hài nói với bác sĩ, người đã gắp viên đạn ra khỏi lồng ngực mình, rằng: "tôi hy vọng bác sĩ sẽ là một đảng viên Cộng Hòa." Kẻ ám sát TT. Reagan sau đó khai rằng, hắn bắn ổng vì muốn được nữ minh tinh màn bạc kiều diễm Jodie Foster để ý tới mình!
-Năm 1982, TT. Reagan ban hành đạo luật Garn-St German nhằm điều chỉnh việc tiết kiệm và vay mượn trong lãnh vực kỹ nghệ, ngưng sử dụng số tiền thuế khoảng 8 tỷ Mỹ-kim vào các dự tính đầu tư. Theo một số chuyên gia thì đây là một quyết định không có lợi trong lãnh vực kinh tế.
-Năm 1985, bất chấp lời phê bình của Elie Eiesel, người được đề cử giải thưởng Nobel, TT. Reagan đến thăm Tây Đức và vẫn đặt vòng hoa tại nghĩa trang Bitburg, nơi chôn 2.000 binh lính Đức, trong đó có 49 mật vụ Đức Quốc Xã.
-Theo tường trình của ủûy ban điều tra dưới quyền thượng nghị sĩ John Tower thì TT. Reagan đã ra lệnh cho Trung tá Olivier North bán vũ khí cho Iran. Tiền lời sẽ dùng vào việc trợ giúp phong trào kháng chiến chống chính quyền thân cộng tại Nicaragua. Việc bán vũ khí cho Iran là bất hợp pháp, mặc dù để đổi lấy con tin người Mỹ.
IV- HAI LÃNH TỤ ĐỒNG MINH TRI KỶ NHẤT CỦA CỐ TT. REAGAN
4.1- ĐGH Gio-an Phao-lô II
TT. Reagan cùng với Đức Giáo Hoàng được kể là kiến trúc sư của chương trình xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản Đông Âu và ngăn chặn sự bành trướng của Sô Viết. Đức Giáo Hoàng với chiến thuật nổi dậy của Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan và TT. Reagan với chiến lược "Chiến Tranh Các Vì Sao" đã thực sự chôn vùi các chế độ phi nhân và tàn bạo tại Đông Âu.
4.2- Nữ Thủ Tướng Anh Quốc
 Bà Magret Thatcher, một lãnh tụ Đồng Minh tri kỷ của TT. Reagan đã chân thành phát biểu:
 "TT. Reagan đích thực là một anh hùng vĩ đại của Hoa Kỳ. Ông sẽ không chỉ được những người quen biết nhớ thương, vì tình yêu tổ quốc sâu xa và hãnh diện phục vụ đất nước mình, mà hàng chục triệu người ngày nay đang được sống trong tự do vì chính sách của ông. Ông có sách lượïc cao hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào trong việc đánh bại cuộc chiến tranh lạnh dành tự do mà không phải bắn một phát súng! ".
V- TT. RONALD REAGAN VÀ VIỆT NAM
 TT. Reagan đã từng phê bình chính quyền Johnson lúc đó không cố gắng giải quyết vấn đề Việt Nam theo tinh thần bảo vệ tự do của Hoa Kỳ. Với ông, tự do của VN hay HK là một, và kẻ thù cộng sản VN hay Sô Viết cũng là một. Vì thế cuộc chiến chống CSVN cũng là cuộc chiến chống cộng sản toàn cầu. Ông không đồng ý leo thang chiến tranh theo kế hoạch đơn phương tấn công chầm chậm vào đối phương. Ông muốn giải quyết cuộc chiến dứt khoát từ đầu não Trung Cộng và Sô Viết. Ông cũng phàn nàn là giới truyền thông Mỹ đã phản bội cuộc chiến VN. Sau khi chứng kiến ký giả Walter Crokite tường thuật về chiến tranh VN trên đài truyền hình CBS vào tháng 12.1972, ông nói với TT. Nixon rằng: "nếu ở vào hoàn cảnh của thời Đệ Nhị Thế Chiến, đài này đáng bị truy tố về tội phản quốc". Đến khi TT. Gerald Ford tiếp đón người tị nạn VN thì đảng Dân Chủ chống lại bằng luận điệu "đón gà nhà!" Mãi tới khi phong trào "thuyền nhân tị nạn" bộc phát mạnh nhất vào năm 1979, người Mỹ mới động lòng trắc ẩn. Với quyền lực trong tay, TT. Reagan đã ra lệnh cho Bộ trưởng Ngoại giao George Shultz tiếp nhận người VN với mức độ nhiều hơn và cứu giúp các sĩ quan QLVNCH bị cải tạo. Sau đó chương trình "Ra Đi Trong Trật Tự"(ODP) và chương trình "Nhân Đạo" (HO) dành cho quân, cán, chính của VNCH được thực hiện có hiệu quả. Vì thế, đối với các sĩ quan QLVNCH thì TT. Reagan là một vị cứu tinh đáng ghi nhớ. Thực tế chứng minh rằng, nếu TT. Reagan cầm quyền trong thời kỳ chiến tranh VN thì có lẽ cục diện sẽ thay đổi theo chiều hướng chiến thắng cho Hoa Kỳ và VNCH!
VI- VĨNH BIỆT TỔNG THỐNG RONALD REAGAN
 Trong các ngày 11, 12, 13.6.2004, hàng triệu người Mỹ đã ngậm ngùi thương tiếc cố TT. Ronald Reagan, khi viếng linh cữu tại tòa nhà Quốc hội, khi trực tiếp tham dự lễ cầu hồn tại Vương cung Thánh đường Quốc gia ở Hoa Thịnh Đốn hay chứng kiến lễ hạ huyệt tại Bel Air, California hoặc theo dõi các nghi thức tang lễ trên màn ảnh truyền hình. Những lời ca tụng sự nghiệp của cố Tổng thống Reagan nghe thật cảm động. Những điệu nhạc ai oán ngân nga trong thánh đường nghe xót xa. Những loạt đạn đại bác vĩnh biệt ròn rã vang dội trên bầu trời thủ đô Hoa Thịnh Đốn và ở khắp các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới nghe não lòng. Những giòng lệ tuôn rơi trên gò má phu nhân Nancy, của thân nhân và quần chúng chứng kiến cảnh bi ai, đã nói lên tâm tình thương mến sâu đậm đối với vị Tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ. Cả trăm triệu người trên thế giới được hít thở không khí "tự do" trong lành không khỏi ngậm ngùi nhớ thương vị anh hùng đã giải thoát họ khỏi chủ nghĩa cộng sản. TT. Ronald Reagan chắc chắn sẽ sống mãi trong tâm trí của những người chống cộng, những người yêu chuộng tự do và tôn trọng nhân quyền.
Phóng sự bằng hình về ngày 11 tháng 10 năm 2010, trưng bày bức tường Bá Linh tại thành phố Garden Grove, Nam California, nhằm vinh danh cố Tổng Thống Ronald Reagan đã "giật sập" bức tường Bá Linh, dẫn tới sự sụp đổ Liên Bang Sô Viết và khối cộng sản Đông Âu. Ngô Kỷ rất vinh dự tham dự trong ngày quan trọng và ý nghĩa này.
 gn74_zpsafc358f5.jpg  gn81_zps886c20c0.jpg
 gn44_zps396cf8e0.jpg  gn37_zpsd69110ef.jpg
Ngô Kỷ và vị cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam. 
 gn122_zps1ca5f56b.jpg
gn22_zps2670a1f7.jpg
Ngô Kỷ và Thị Trưởng Bill Dalton, là người cho phép ban tổ chức xử 
dụng công viên của Thành Phố Garden Grove để trưng bày bức tường Bá Linh.
 gn228_zps04e7c63d.jpg
Ngô Kỷ và hai vị trách nhiệm quản thủ bức tường Bá Linh 
 gn622_zps4b490b22.jpg
 gn612_zpsce0804bc.jpg 
Khách thưởng lãm bức tường Bá Linh, đa số là học sinh và sinh viên.
Tượng đài Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan tại Ba Lan
 rg1_zps0ae92472.jpg
Cựu Tổng thống Ba Lan Lech Walesa đã khánh thành tượng đài cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tại Warsaw, người được nhân dân Ba Lan xem là đã tạo nguồn cảm hứng cho việc lật đổ chủ nghĩa cộng sản tại Ba Lan.
Tại buổi lễ ở thủ đô Ba Lan hôm thứ Hai, ông Walesa khẳng định nước ông sẽ không có tự do nếu không có ông Reagan. 
Tổng thống Reagan lãnh đạo nước Mỹ từ 1981 đến 1989, người có lập trường cứng rắn với Liên Xô.
Bức tượng cao 3,5 mét ở giữa thủ đô Warsaw, đối diện đại sứ quán Mỹ. 
Tháng 6 năm 1987, khi đọc diễn văn tại Berlin, ông Reagan thách thức lãnh đạo Xô-viết Mikhail Gorbachev hãy “giật sập bức tường này,” bức tường ngăn Berlin thành hai miền đông tây. 

Ronald Reagan – Wikiquote


Ronald Reagan

Bộ sưu tập danh ngôn mở Wikiquote
Ronald Reegan năm 1981.
Ronald Wilson Reagan (phát /ˈrɒnəld ˈwɪlsən ˈreɪɡən/; 6 tháng 2 năm 1911 – 5 tháng 6 năm 2004) là tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981–1989). Trước đó, ông là thống đốc thứ 33 của bang California (1967–1975), và từng là diễn viên truyền hình, truyền thanh và điện ảnh.

Câu nói[sửa]

·         Tự do chưa bao giờ cách xa sự tuyệt chủng hơn một thế hệ. Chúng ta không thể truyền lại cho con cháu qua dòng máu. Cái cách duy nhất họ có thể thừa hưởng được sự tự do chúng ta đã hưởng là nếu chúng ta chiến đấu, che chở và bảo vệ nó và giao lại cho họ với bài học rằng họ cũng phải làm điều tương tự. Và nếu chúng ta không làm vậy, một ngày nào đó bạn và tôi trong lúc về già sẽ dùng những giây phút cuối đời để kể cho con cháu chúng ta nghe về ngày xưa đã từng có một nước Mỹ tự do.
·         Khi 54.000 người Mỹ hy sinh để bảo vệ một dân tộc của một đất nước nhỏ bé và yếu ớt ở Đông Nam Á từ chế độ cộng sản độc tài, đó, theo tôi là một hành động tập thể của sự dũng cảm, chứ không phải là sự yếu đuối.
·         Ngày hôm này chúng ta đều đồng ý rằng chúng ta đã học được một bài học rằng: những người con của nước Mỹ sẽ không bao giờ tham gia cuộc chiến nào và hy sinh trừ khi chúng ta sẵn sàng để cho họ chiến thắng.
·         Có một dấu hiệu Liên Bang Soviet có thể làm để thúc đẩy tự do và hòa bình. Ngài Tổng Bí Thư Gorbachev, nếu ông muốn tìm hòa bình, nếu ông muốn tìm thịnh vượng cho khối Liên Xô và Đông Âu, nếu ông muốn tự do: hãy đến cái cổng này! Ông Gorbachev, hãy mở cái cổng này. Ông Gorbachev, hãy phá vỡ bức tường này.
·         Dân chủ đáng giá chết để đổi lấy, bởi vì nó là một cơ chế chính phủ danh dự nhất được thành lập bởi nhân loại.
·         Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho hòa bình là ngàn năm đen tối cho các thế hệ sinh tại Việt Nam về sau.
·         Chúng ta đang chiến đấu với một đối thủ nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại, và nếu chúng ta thua trong cuộc chiến này, chúng ta sẽ mất đi sự tự do, lịch sử sẽ ghi nhận lại rằng những người có nhiều thứ để mất nhất đã làm ít nhất để ngăn chặn nó.
·         Làm thế nào để bạn biết người đó là một người cộng sản? Đó là những người đọc Marx và Lenin Và làm thế nào để bạn biết được người đó là người chống cộng sản? Đó là những người hiểu Marx và Lenin.
·         Nếu chúng ta quên rằng chúng ta là một quốc gia dưới Thượng Đế, chúng ta sẽ trở thành một quốc gia suy tồi.
·         Nếu chúng ta mất tự do ở đây (nước Mỹ), sẽ không còn một nơi nào khác để trốn. Đây là trụ cột cuối cùng trên trái đất Và cái ý tưởng rằng chính phủ phải lệ thuộc người dân, là một ý tưởng mới lạ và khác biệt nhất trong lịch sử nhân loại.
·         Đây là vấn đề trong cuộc bầu cử này: rằng chúng ta tin rằng chúng ta có đủ khả năng để tự chủ hoặc tin rằng một nhóm người trí thức nào đó ở một thủ đô xa xôi có thể xếp đặt cuộc sống của chúng ta cho chúng ta tốt hơn khi chúng ta tự làm.
·         Chúng ta đã được bảo rằng chúng ta phải chọn giữa phe cánh hữu hay phe cánh tả (cánh phải hay cánh trái), nhưng tôi muốn gợi ý rằng chẳng có tả hay hữu gì cả. Chỉ có tiến bước hoặc lùi bước. Tiến bước để bảo vệ giấc mơ của nhân loại; quyền tự do trong mỗi cá nhân – hoặc lùi bước để trở về với sự độc tài, và những ai đã bán đổi sự tự do của chúng ta để lấy một chút hòa bình đã lùi bước vào nô lệ.
·         Tôi đã không rời bỏ Đảng Dân Chủ, Đảng Dân Chủ đã rời bỏ tôi.
·         Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thành công ở 2 nơi: thiên đường, nơi mà không cần nó; và địa ngục, nơi mà đã có nó.
·         Chúng ta không thể nào mua sự an toàn, tự do từ sự đe dọa của trái bom bằng cách tiếp tay làm một việc vô đạo đức như nói với một tỷ con người đang bị giam kiềm sau bức màng thép rằng “hãy từ bỏ ước mơ tự do của mọi người đi bởi vì chúng tôi muốn tự cứu lấy bản thân, chúng tôi sẽ thỏa thuận với chủ nô lệ của mấy người.”
·         Tôi và bạn đều biết hòa bình dù có đẹp cách mấy cũng không có ý nghĩa gì nếu nó được mua với cái giá gông cùm và nô lệ.
·         Chúng ta nên làm gì để có được hòa bình? Chỉ một cách, rất đơn giản. Bạn và tôi phải có đủ can đảm để nói với địch thủ, “Có một cái giá mà chúng tôi sẽ không trả.” Có một ý nghĩa trong câu nói của Barry Goldwater, “hòa bình qua sức mạnh.”
·         Tôi có một câu hỏi cho các nhà lãnh đạo ở các nước chủ nghĩa cộng sản: nếu chủ nghĩa cộng sản có tương lai, tại sao mấy ông cần phải xây dựng những bức tường để giữ mọi người lại và quân lực và cảnh sát chìm để giữ mọi người im lặng?
·         Cái nhìn của chính phủ về kinh tế có thể nói ngắn gọn như sau: nếu nó di chuyển, hãy đánh thuế. Nếu nó tiếp tục di chuyển, hãy ra luật để điều khiển nó. Và nếu nó ngừng lại, hãy hỗ trợ nó.
·         11 chữ đáng sợ nhất trong tiếng Anh là “tôi là người của chính phủ và tôi sẽ giúp bạn.”
·         Không có một chính phủ nào tự động thu nhỏ. Các chương trình của chính phủ khi bắt đầu sẽ không bao giờ chấm dứt. Thậm chí, một cơ quan chính phủ là một thứ gì đó gần gủi với sự vô tận mà chúng ta có thể thấy được trên trái đất.
·         Bạn và tôi đều có cuộc đối mặt với đệnh mệnh. Chúng ta sẽ gìn giữ cho con cháu chúng ta điều này, niềm hy vọng cuối cùng cho nhân loại, hoặc chúng ta sẽ kết án chúng để bước cuối cùng vào một ngàn năm đen tối.
·         Chúng ta sẽ luôn nhớ, luôn tự hào. Chúng ta sẽ luôn chuẩn bị, để chúng ta sẽ mãi được tự do.
·         Trong cơn khủng hoảng hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho các vấn đề; chính chính phủ là vấn đề. Từ ngàn xưa chúng ta đều tin rằng xã hội quá phức tạp để cho phép quyền tự chủ, rằng chính phủ của một nhóm ưu tú sẽ tốt hơn một chính phủ của dân, cho dân và vì dân. Nếu không một ai trong chúng ta có đủ khẳ năng để tự chủ thì làm sao ai có đủ khả năng để tự quyết giùm người khác?
·         “Hãy tin chúng tôi” (chính phủ) đòi hỏi chúng ta phải tập trung niềm tin và ước mơ vào một người, và tin tưởng người đó sẽ làm những gì tốt nhất cho chúng ta. Quan niệm của tôi về chính phủ không đặt niềm tin vào bất kỳ một người hay đảng phái nào, mà vào những giá trị cao quý hơn cá nhân hoặc đảng phái.
·         Trên hết, chúng ta phải nhận ra rằng không có vũ khí nào lợi hại hơn ý chí và sự dũng cảm đức hạnh của những con người tự do. Đó là một vũ khí mà địch thủ chúng ta không có, nhưng đó là một vũ khí mà người Mỹ chúng ta có. Tất cả những tổ chức độc tài khủng bố trên thế giới nên nhớ điều đó.
·         Chúng ta là một quốc gia có một chính phủ, chứ không phải ngược lại. Và điều này khiến chúng ta rất đặc biệt so với các nước khác. Chính phủ chúng ta không có quyền lực gì trừ những quyền lực mà nhân dân đã giao cho họ.
·         Khi bạn bắt đầu một cuộc tranh đấu, bạn sẽ không biết nó sẽ đi về đâu. Chúng ta muốn thay đổi một đất nước, nhưng thay vào đó chúng ta đã thay đổi cả thế giới.
·         Chúng ta, những người dân” cho chính phủ biết họ nên làm gì, họ không không có quyền làm ngược lại. Chúng ta là người lái, chính phủ là chiếc xe. Và chúng ta sẽ quyết định chiếc xe đó sẽ đi về đâu, bằng đường nào, với tốc độ bao nhiêu. Hầu hết tất cả các hiến pháp trên thế giới đều viết với khái niệm chính phủ sẽ cho nhân dân biết quyền lợi của họ là gì. Hiến pháp của chúng ta được viết với khái niệm “Chúng Ta” sẽ cho chính phủ biết quyền lợi của họ là gì. “Chúng ta, những người dân” đang tự do.
·         Có một quy luật nhân quả đơn giản và dễ hiểu như luật vật lý: “chính phủ càng lớn, tự do càng bị thu hẹp.” Con người sẽ không được tự do trừ khi chính phủ bị giới hạn.
·          

Liên kết ngoài[sửa]

Wikipedia
Wikipedia có bài viết về:
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về Ronald Reaga
·          
Ông Chris Cox là cố vấn pháp lý cho Cố Tổng Thống Ronald Reagan thập niên 80

Dân Biểu Liên Bang Chris Cox và Ngô Kỷ có mối quan hệ từ lâu, và luôn hợp tác nhau trong việc vận động
chính phủ Tổng Thống Ronald Reagan giúp đở Thuyền Nhân được nhập cảnh Hoa Kỳ, đón nhận 
các Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam (HO) được qua Mỹ định cư, và ủng hộ cuộc đấu tranh dân chủ tại quốc nội.

Dân Biểu Chris Cox và Ngô Kỷ tại Đại Hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc 1996 tại San Diego, California

Thường xuyên gặp nhau
Dân Biểu Liên Bang Robert K. Dornan, Ngô Kỷ, Dân Biểu Liên Bang Chris Cox
Vào thập niên 80, Ngô Kỷ quen biết Ông Chris Cox, làm cố vấn pháp lý cho Cố Tổng Thống Ronald Reagan, 
và Ông Dana Rohrabacher viết diễn văn cho Cố Tổng Thống Ronald Reagan tại Tòa Bạch Ốc. 


Rồi vào năm 1988, hai nhân vật này đã về Orange County để tranh 2 chức Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ.
Hình Dân Biểu Liên Bang Chris Cox, Ngô Kỷ, và Dân Biểu Liên Bang Dana Rohrabacher, đại diện địa hạt 
bao gồm khu Little Saigon. Hai vị dân biểu này luôn ủng hộ nguyện vọng của cộng đồng Việt Nam chống cộng.

Ông Dân Biểu Chris Cox được Tổng Thống George W. Bush bổ nhiệm vào Chính Phủ




__._,_.___

Posted by: KY ngo 

Featured Post

Bản Tin buổi sáng 12/3/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link