HÃY GIẬT SẬP BỨC TƯỜNG
NÀY – RONALD REAGAN
Chancellor Kohl,
Governing Mayor Diepgen, ladies and gentlemen: Twenty-four years ago, President
John F. Kennedy visited Berlin, speaking to the people of this city and the
world at the City Hall. Well, since then two other presidents have come, each
in his turn, to Berlin. And today I, myself, make my second visit to your city
Ngài Thủ Tướng Kohl, Thị Trưởng
Diepgen, và quý vị thân mến: Cách đây 24 năm, Tổng Thống John F. Kennedy đã đến
thăm Berlin, nói chuyện với người dân thành phố này và cả thế giới tại Toà Thị
Chính. Và kể từ đó, hai vị Tổng Thống khác đã đến, từng người một trong nhiệm
kỳ của họ, đã đến Berlin. Và hôm nay, tôi, chính tôi, đã đến đây lần thứ hai để
thăm viếng thành phố này.
We come to Berlin, we American
presidents, because it’s our duty to speak, in this place, of freedom. But I
must confess, we’re drawn here by other things as well: by the feeling of
history in this city, more than 500 years older than our own nation; by the
beauty of the Grunewald and the Tiergarten; most of all, by your courage and
determination. Perhaps the composer Paul Lincke understood something about
American presidents. You see, like so many presidents before me, I come here
today because wherever I go, whatever I do: Ich hab noch einen Koffer in
Berlin. [I still have a suitcase in Berlin.
Chúng tôi đến Berlin, chúng tôi những
người Tổng Thống Hoa Kỳ, bởi vì trách nhiệm của chúng tôi là phải nói, tại nơi
này, về tự do. Nhưng tôi phải thú nhận rằng chúng tôi bị thu hút về nơi này
bằng những thứ khác nữa: bởi cảm giác về lịch sử của thành phố này, hơn hẳn đất
nước chúng tôi những 500 năm tuổi; bởi vẻ đẹp của Grunewald và Tiergarten ; và
trên tất cả bởi lòng dũng cảm và sự quyết tâm của các bạn. Có lẽ nhà soạn nhạc
Paul Lincke đã hiểu đôi điều về các vị Tổng Thống Mỹ. Các bạn thấy đó, giống
như rất nhiều vị Tổng Thống tiền nhiệm trước tôi, tôi đến đây hôm nay bởi vì
cho dù tôi đi đâu, cho dù tôi làm gì: Ich hab noch einen Koffer in Berlin. [Tôi
vẫn còn để hành lý của mình ở Berlin]
Our gathering today is being broadcast
throughout Western Europe and North America. I understand that it is being seen
and heard as well in the East. To those listening throughout Eastern Europe, a
special word: Although I cannot be with you, I address my remarks to you just
as surely as to those standing here before me. For I join you, as I join your
fellow countrymen in the West, in this firm, this unalterable belief: Es gibt
nur ein Berlin. [There is only one Berlin.]
Sự kiện chúng ta đứng cùng nhau ở đây
hôm nay sẽ được truyền thông khắp Tây Âu và Bắc Mỹ. Tôi biết nó cũng sẽ được
thấy và nghe ở phía Đông. Xin gửi tới những người đang lắng nghe phát thanh này
ở khắp Đông Âu, một lời đặc biệt: Mặc dù chúng tôi không thể ở cùng với các
bạn, tôi xem trọng các bạn ở nơi đó cũng như mọi người đang đứng đây, trước
tôi. Vì tôi ở cùng với các bạn, khi tôi ở cùng với những người đồng hương của
các bạn ở phía Tây trong một niềm tin mãnh liệt không dời đổi: Es gibt nu rein
Berlin [Chỉ có một Berlin duy nhất]
Behind me stands a wall that
encircles the free sectors of this city, part of a vast system of barriers that
divides the entire continent of Europe. From the Baltic, south, those barriers
cut across Germany in a gash of barbed wire, concrete, dog runs, and guard
towers. Farther south, there may be no visible, no obvious wall. But there
remain armed guards and checkpoints all the same–still a restriction on the
right to travel, still an instrument to impose upon ordinary men and women the
will of a totalitarian state. Yet it is here in Berlin where the wall emerges
most clearly; here, cutting across your city, where the news photo and the
television screen have imprinted this brutal division of a continent upon the
mind of the world. Standing before the Brandenburg Gate, every man is a German,
separated from his fellow men. Every man is a Berliner, forced to look upon a
scar.
Đằng sau lưng tôi đứng sừng sững bức
tường bao quanh khu vực tự do của thành phố này, một phần rất lớn của bức tường
ngăn đôi toàn thể lục địa của châu Âu. Từ biển Baltic, ở phía nam, bức tường
này băng ngang qua nước Đức thành một vết cắt rất sâu với kẽm gai, bê tông, chó
bảo vệ và các đồn canh. Đi xa hơn nữa về phía nam, không nhìn thấy một bức
tường cụ thể nào ngay trước mắt. Nhưng những đồn kiểm tra và lính gác trang bị
vũ khí quân sự ở đó cũng tương tự vậy thôi – vẫn là sự hạn chế quyền tự do đi
lại, vẫn là phương tiện để bắt buộc những người dân bình thường hứng chịu một
tình trạng chuyên chế. Nhưng chính là ở đây, Berlin, là nơi bức tường đứng sờ
sờ ra đó rõ ràng nhất; ở đây, nó cắt ngang qua thành phố của các bạn mà tất cả
các hình ảnh trên báo chí và ti vi đều chìa ra cho cả thế giới thấy sự chia cắt
lục địa một cách nghiệt ngã. Đứng trước Cổng Brandenburg, tất cả mọi người Đức
đều bị chia cắt bởi những người anh em cùng tổ quốc với mình. Tất cả mọi người
Berlin đều bị ép buộc phải ngước nhìn lên một vết cắt.
President von Weizsacker has said,
“The German question is open as long as the Brandenburg Gate is closed.” Today
I say: As long as the gate is closed, as long as this scar of a wall is
permitted to stand, it is not the German question alone that remains open, but
the question of freedom for all mankind. Yet I do not come here to lament. For
I find in Berlin a message of hope, even in the shadow of this wall, a message
of triumph.
Tổng Thống von Weizsacker từng nói,
“Chừng nào Cổng Brandenburg còn đóng, khi đó vấn đề của người Đức vẫn còn để
ngỏ”. Hôm nay tôi nói rằng: Ngày nào cánh cửa này còn đóng chặt, ngày đó vết
cắt – bức tường – vẫn còn được phép ở đó, không phải chỉ là vấn đề của người
Đức vẫn cứ còn để mở ngỏ mà là cả câu hỏi về quyền tự do của nhân loại còn chưa
được giải đáp. Nhưng tôi không phải đến đây để than van và rên rỉ. Vì tôi tìm
thấy ở nơi đây, Berlin, ngay cả dưới bóng mờ của bức tường này, thông điệp của
hy vọng, thông điệp của vinh quang và chiến thắng.
In this season of spring in 1945,
the people of Berlin emerged from their air-raid shelters to find devastation.
Thousands of miles away, the people of the United States reached out to help.
And in 1947 Secretary of State–as you’ve been told–George Marshall announced
the creation of what would become known as the Marshall Plan. Speaking
precisely 40 years ago this month, he said: “Our policy is directed not against
any country or doctrine, but against hunger, poverty, desperation, and chaos.”
Cũng mùa xuân này năm 1945, người dân
Berlin đã vùng dậy từ những hầm trú ẩn tránh bom để nhin thấy cảnh hoang tàn đổ
nát. Và từ hàng ngàn dặm xa, người dân Hoa Kỳ đã vươn đến để trợ giúp. Rồi năm
1947, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ – như quý vị và các bạn đã được nghe – George
Marshall đã tuyên bố sáng lập dự án được mọi người biết đến với tên gọi “Dự Án
Marshall”. Chính xác mà nói, vào tháng này, cách đây 40 năm, ông đã tuyên bố:
“Chính sách của chúng tôi không hướng đến chống lại bất cứ đất nước nào, chế độ
nào mà chỉ chống lại đói, nghèo, tuyệt vọng, và mất trật tự”.
In the Reichstag a few moments ago,
I saw a display commemorating this 40th anniversary of the Marshall Plan. I was
struck by the sign on a burnt-out, gutted structure that was being rebuilt. I
understand that Berliners of my own generation can remember seeing signs like
it dotted throughout the western sectors of the city. The sign read simply:
“The Marshall Plan is helping here to strengthen the free world.” A strong,
free world in the West, that dream became real. Japan rose from ruin to become
an economic giant. Italy, France, Belgium–virtually every nation in Western
Europe saw political and economic rebirth; the European Community was founded.
Chỉ mới cách đây vài khoảnh khắc
trong ngôi nhà Reichstag, tôi đã thấy một trang trí tưởng niệm 40 năm “Dự Án
Marshall”. Tôi đã rất ấn tượng bởi tấm bảng treo trên một kiến trúc đã bị cháy
rụi và phá hủy đang được xây dựng lại. Tôi biết rằng người Berlin ở thế hệ của
tôi có thể nhớ những tấm bảng như thế xuất hiện ở rất nhiều nơi ở phần phía Tây
của thành phố. Trên đó đơn giản ghi: “Dự Án Marshall đang giúp đỡ nơi này nhằm
mục tiêu củng cố sức mạnh cho thế giới tự do”. Một thế giới mạnh mẽ và tự do ở
phương Tây, giấc mơ đã trở thành sự thật Nhật Bản vươn lên từ đổ nát để trở
thành một người khổng lồ về kinh tế. Ý, Pháp, Bỉ – rõ ràng mọi quốc gia Tây Âu
đều đã nhìn thấy sự tái sinh về kinh tế và chính trị; Hội Đồng Chung Châu Âu đã
được thành lập.
In West Germany and here in Berlin,
there took place an economic miracle, the Wirtschaftswunder. Adenauer, Erhard,
Reuter, and other leaders understood the practical importance of liberty–that
just as truth can flourish only when the journalist is given freedom of speech,
so prosperity can come about only when the farmer and businessman enjoy
economic freedom. The German leaders reduced tariffs, expanded free trade,
lowered taxes. From 1950 to 1960 alone, the standard of living in West Germany
and Berlin doubled.
Ở Tây Đức và ở đây, Berlin, đã có
những biến đổi kinh tế kỳ diệu như phép mầu, các nhà truyền thông hàng đầu như
Wirtschaftswunder. Adenauer, Erhard, Reuter đã hiểu tầm quan trọng thực tiễn
của tự do – nó cũng giống như sự thật chỉ nở rộ khi người làm báo được trao
quyền tự do ngôn luận, cũng như thịnh vượng chỉ đến khi người nông dân và doanh
nhân được hưởng tự do làm kinh tế. Những nhà lãnh đạo nước Đức đã giảm thuế
xuất nhập khẩu, tăng cường mậu dịch tự do, giảm thuế trong nước. Chỉ từ năm
1950 đến 1960 thôi, tiêu chuẩn sống ở Tây Đức và Berlin đã tăng gấp đôi.
Where four decades ago there was
rubble, today in West Berlin there is the greatest industrial output of any
city in Germany–busy office blocks, fine homes and apartments, proud avenues,
and the spreading lawns of parkland. Where a city’s culture seemed to have been
destroyed, today there are two great universities, orchestras and an opera,
countless theaters, and museums. Where there was want, today there’s
abundance–food, clothing, automobiles–the wonderful goods of the Ku’damm. From
devastation, from utter ruin, you Berliners have, in freedom, rebuilt a city
that once again ranks as one of the greatest on earth. The Soviets may have had
other plans. But my friends, there were a few things the Soviets didn’t count on–Berliner
Herz, Berliner Humor, ja, und Berliner Schnauze. [Berliner heart, Berliner
humor, yes, and a Berliner Schnauze.]
Ở nơi mà 4 thập niên trước đây chỉ là
những hoang tàn đổ nát, ngày nay ở Tây Berlin đã xuất hiện các cơ sở dành cho
công nghiệp lớn nhất đối với bất cứ thành phố nào trên nước Đức – các khu văn
phòng bận rộn, những khu nhà và căn hộ đẹp đẽ, những đại lộ tràn đầy tự hào, và
những bãi cỏ công viên trải dài tít tắp. Nơi mà văn hóa thành phố dường như đã
bị phá hủy, ngày nay ở đó có 02 đại học lớn, các phòng hòa nhạc và nhà hát
opera, không biết bao nhiêu rạp hát, và bảo tàng. Nơi mà ngày nào chỉ toàn là
thiếu thốn, ngày nay đầy ắp mọi thứ – thực phẩm, quần áo, xe cộ – đầy những
hàng hóa tuyệt vời ở Ku’damm . Từ tuyệt vọng, từ đổ nát hoàn toàn, các bạn –
những con dân Berlin – trong tự do – đã xây dựng lại thành phố đã từng được và
nay lại một lần nữa được xếp hạng trong số những thành phố vĩ đại nhất trên
trái đất. Người Sô Viết có thể có những hoạch định khác. Nhưng các bạn của tôi
ơi, có những thứ mà người Sô Viết không kể đến – Berliner Herz, Berliner Humor,
ja, und Berliner Schnauze. [Tâm của người Berlin, sự hài hước của người Berlin,
và vâng, Berlin Schnauze ].
In the 1950s, Khrushchev predicted:
“We will bury you.” But in the West today, we see a free world that has
achieved a level of prosperity and well-being unprecedented in all human
history. In the Communist world, we see failure, technological backwardness,
declining standards of health, even want of the most basic kind–too little food.
Even today, the Soviet Union still cannot feed itself. After these four
decades, then, there stands before the entire world one great and inescapable
conclusion: Freedom leads to prosperity. Freedom replaces the ancient hatreds
among the nations with comity and peace. Freedom is the victor.
Những năm 1950, Khrushchev tiên đoán:
“Chúng tôi sẽ chôn vùi mấy người”. Nhưng ở Tây Đức ngày nay, chúng ta nhìn thấy
một thế giới tự do đã đạt được một mức độ thịnh vượng và hạnh phúc nhất định
chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Trong thế giới Cộng Sản, chúng ta nhìn
thấy tình trạng khánh kiệt, lạc hậu về công nghệ, tiêu chuẩn y tế giảm sút,
thậm chí thiếu thốn cả nhu cầu cơ bản nhất – có quá ít thực phẩm. Ngay cả đến
giờ này, Liên Bang Sô Viết vẫn không có đủ thức ăn cho chính họ. Sau bốn thập
niên vừa qua, có thể thấy trước toàn thể thế giới một kết luận hết sức rõ ràng
và không thể chối bỏ: Có tự do mới dẫn đến thịnh vượng. Tự do sẽ giúp mang đến
sự thân thiện và hòa bình giữa các quốc gia thay cho lòng thù hận truyền kỳ. Tự
do là chiến thắng.
And now the Soviets themselves may,
in a limited way, be coming to understand the importance of freedom. We hear
much from Moscow about a new policy of reform and openness. Some political
prisoners have been released. Certain foreign news broadcasts are no longer
being jammed. Some economic enterprises have been permitted to operate with
greater freedom from state control.
Và bây giờ, chính người Sô Viết, theo
một cách rất hạn chế, vẫn có thể đã hiểu hơn tầm quan trọng của tự do. Chúng ta
đã nghe rất nhiều từ Matx-cơ-va về một chính sách mới về đổi mới và mở cửa..
Một số tù nhân chính trị đã được trả tự do. Một số báo đài tin tức nước ngoài
không còn bị giấu nhẹm. Một vài công ty và cơ sở kinh tế đã được cho phép hoạt
động tự do ngoài tầm kiểm soát của nhà nước hơn.
Are these the beginnings of profound
changes in the Soviet state? Or are they token gestures, intended to raise
false hopes in the West, or to strengthen the Soviet system without changing
it? We welcome change and openness; for we believe that freedom and security go
together, that the advance of human liberty can only strengthen the cause of
world peace. There is one sign the Soviets can make that would be unmistakable,
that would advance dramatically the cause of freedom and peace.
Đấy có phải là bước khởi đầu cho
những thay đổi lớn lao ở Liên Bang Sô Viết? Hay là đó chỉ là những động tác giả
tạo, với ý định nâng cao hy vọng giả tạo ở phương Tây, hay là để củng cố sức
mạnh của hệ thống Sô Viết mà không cần tiến hành một sự thay đổi nào? Chúng ta
chào đón thay đổi và cởi mở; vì chúng tôi tin rằng tự do và an ninh đi cùng với
nhau, rằng tự do của con người càng cao chỉ có thể làm tăng động lực cho hòa
bình thế giới. Đó chính là dấu hiệu mà người Sô Viết có thể làm mà không thể
nhầm lẫn vào đâu được, nó sẽ giúp đẩy mạnh một cách đáng kể động lực cho tự do
và hòa bình.
General Secretary Gorbachev, if you
seek peace, if you seek prosperity for the Soviet Union and Eastern Europe, if
you seek liberalization: Come here to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate!
Mr. Gorbachev, tear down this wall!
Tổng Thư Ký Gorbachev, nếu ông đi tìm
hòa bình, nếu ông tđi tìm sự thịnh vượng cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu, nếu
ông đi tìm sự giải phóng: Hãy đến cánh cổng này! Ông Gorbachev, hãy mở cánh
cổng này! Ông Gorbachev, hãy giật sập bức tường này!
I understand the fear of war and the
pain of division that afflict this continent– and I pledge to you my country’s
efforts to help overcome these burdens. To be sure, we in the West must resist
Soviet expansion. So we must maintain defenses of unassailable strength. Yet we
seek peace; so we must strive to reduce arms on both sides.
Tôi hiểu sự sợ hãi chiến tranh và nỗi
đau ngăn cách đã làm khổ sở phần lục địa này – và tôi cam kết với các bạn những
nỗ lực của đất nước tôi để giúp các bạn vượt qua những khổ đau nặng nề này. Để
chắc chắn, chúng ta ở phía Tây phải nhất định kháng cự sự bành trướng của Sô
Viết. Vì vậy chúng ta phải duy trì phòng vệ với sức mạnh không cho phép bất cứ
sự tấn công nào. Nhưng chúng ta đi tìm hòa bình; vì vậy chúng ta phải đấu tranh
để giảm bớt vũ trang ở cả 2 bên.
Beginning 10 years ago, the Soviets
challenged the Western alliance with a grave new threat, hundreds of new and
more deadly SS-20 nuclear missiles, capable of striking every capital in
Europe. The Western alliance responded by committing itself to a
counter-deployment unless the Soviets agreed to negotiate a better solution;
namely, the elimination of such weapons on both sides. For many months, the
Soviets refused to bargain in earnestness. As the alliance, in turn, prepared
to go forward with its counter-deployment, there were difficult days–days of
protests like those during my 1982 visit to this city–and the Soviets later
walked away from the table.
Bắt đầu từ cách đây 10 năm, người Sô
Viết đã thách thức các đồng minh phương Tây với lời đe dọa khủng khiếp mới,
hàng trăm tên lửa hạt nhân SS-20 và khả năng sát thương cao hơn, có đủ khả năng
tấn công mọi thủ đô ở Châu Âu. Các đồng minh phương Tây phản ứng bằng cách cố
tìm mọi cách để triển khai quân sự chống lại nếu như người Sô Viết không chịu
đàm phán một giải pháp tốt hơn; thẳng ra, là kêu gọi loại bỏ những vũ khí kiểu
như thế ở cả 2 phía. Nhưng nhiều tháng trôi qua, người Sô Viết vẫn từ chối
thương lượng thật lòng. Và ngược lại, khi phe đồng minh chuẩn bị để tiến tới
triển khai quân sự đối phó, đó quả là những ngày tháng khó khăn – ngày tháng
của biểu tình kháng nghị ví dụ như năm 1982 khi tôi đến thăm thành phố này – và
người Sô Viết sau đó bỏ bàn đàm phán ra đi.
But through it all, the alliance
held firm. And I invite those who protested then– I invite those who protest
today–to mark this fact: Because we remained strong, the Soviets came back to
the table. And because we remained strong, today we have within reach the
possibility, not merely of limiting the growth of arms, but of eliminating, for
the first time, an entire class of nuclear weapons from the face of the earth.
Nhưng dù thế nào đi nữa, phe đồng
minh vẫn giữ vững lập trường. Và tôi mời những người đã từng biểu tình kháng
nghị lúc đó – Tôi mời những người biểu tình ngày hôm nay – hãy đánh dấu sự thật
rằng: Vì chúng ta giữ vững lập trường một cách mạnh mẽ, người Sô Viết đã quay
trở lại bàn đàm phán. Và bởi vì chúng ta giữ vững lập trường một cách mạnh mẽ,
hôm nay chúng ta mới đến gần khả năng, không chỉ đơn thuần hạn chế vũ khí phát
triển, mà còn lần đầu tiên loại bỏ được toàn bộ một lớp vũ khí hạt nhân ra khỏi
bề mặt trái đất.
As I speak, NATO ministers are
meeting in Iceland to review the progress of our proposals for eliminating these
weapons. At the talks in Geneva, we have also proposed deep cuts in strategic
offensive weapons. And the Western allies have likewise made far-reaching
proposals to reduce the danger of conventional war and to place a total ban on
chemical weapons.
Khi tôi đang phát biểu ở nơi này, các
đại diện các quốc gia ở NATO đang tiến hành cuộc họp ở Iceland để xem xét tiến
trình bảng kiến nghị của chúng ta về việc loại bỏ những vũ khí này. Tại bàn đàm
phán ở Geneva, chúng ta cũng đã đề xuất cắt giảm rất nhiều đối với các vũ khí
tấn công chiến lược Và các nước đồng minh phương Tây cũng tương tự đã đề xuất
những mục tiêu rất cao để cắt giảm mối nguy xảy ra chiến tranh đánh trận truyền
thống và áp đặt một lệnh cấm hoàn toàn đối với vũ khí hóa học.
While we pursue these arms
reductions, I pledge to you that we will maintain the capacity to deter Soviet
aggression at any level at which it might occur. And in cooperation with many
of our allies, the United States is pursuing the Strategic Defense
Initiative–research to base deterrence not on the threat of offensive
retaliation, but on defenses that truly defend; on systems, in short, that will
not target populations, but shield them. By these means we seek to increase the
safety of Europe and all the world. But we must remember a crucial fact: East
and West do not mistrust each other because we are armed; we are armed because
we mistrust each other. And our differences are not about weapons but about
liberty. When President Kennedy spoke at the City Hall those 24 years ago,
freedom was encircled, Berlin was under siege. And today, despite all the
pressures upon this city, Berlin stands secure in its liberty. And freedom
itself is transforming the globe.
Trong khi chúng ta đang theo đuổi
những đề xuất cắt giảm vũ khí vừa nêu, tôi cam kết với các bạn rằng chúng ta
vẫn sẽ tiếp tục duy trì khả năng phát hiện sự tấn công của phía Sô Viết ở bất
kỳ mức độ nào. Và khi hợp tác với rất nhiều đồng minh của chúng tôi, nước Mỹ
đang theo đuổi Sáng Kiến Phòng Thủ Chiến Lược – một nghiên cứu ngăn chặn không
dựa vào tấn công những đe dọa trả đũa mà vào phòng thủ thực sự; nói đơn giản,
sẽ là những hệ thống không nhắm vào con người mà che chở cho con người. Với
những phương tiện này chúng tôi mong muốn gia tăng an ninh ở châu Âu và cả thế
giới. Nhưng chúng ta phải nhớ một sự thật quan trọng là: Đông và Tây không tin
tưởng lẫn nhau vì chúng ta đều có trang bị vũ trang; mà chúng ta trang bị vũ
trang vì chúng ta không tin tưởng nhau. Và sự khác biệt của chúng ta [với phe
phía Đông] không phải là vũ khí mà chính là sự tự do. Khi Tổng Thống Kennedy
phát biểu tại Tòa Thị Chính cách đây 24 năm, tự do đã bị bao vây, Berlin đã bị
vây hãm. Và ngày hôm nay, bất chấp tất cả áp lực đè lên thành phố này, Berlin
đứng an toàn trong sự độc lập của mình. Và chính sự tự do đang làm chuyển đổi
thế giới.
In the Philippines, in South and
Central America, democracy has been given a rebirth. Throughout the Pacific,
free markets are working miracle after miracle of economic growth. In the
industrialized nations, a technological revolution is taking place–a revolution
marked by rapid, dramatic advances in computers and telecommunications.
Ở Philippines, ở Nam và Trung Mỹ, dân
chủ đã được tái sinh. Khắp Thái Bình Dương, thị trường tự do đang là phép màu
nhiệm sau phép màu phát triển kinh tế. Ở các nước công nghiệp, cuộc cách mạng
công nghệ đang diễn ra – một cuộc cách mạng được đánh dấu bởi những phát triển
nhanh và đầy kịch tính trong công nghệ computer và viễn thông.
In Europe, only one nation and those
it controls refuse to join the community of freedom. Yet in this age of
redoubled economic growth, of information and innovation, the Soviet Union
faces a choice: It must make fundamental changes, or it will become obsolete.
Ở Châu Âu, chỉ có một quốc gia và
những nước mà quốc gia đó kiểm soát từ chối gia nhập cộng đồng tự do. Nhưng
trong thời đại phát triển kinh tế mạnh mẽ, thời đại của đổi mới và thông tin,
Liên Bang Sô Viết đối diện với 1 lựa chọn: họ phải tiến hành một sự thay đổi cơ
bản, hoặc là họ sẽ trở nên lỗi thời.
Today thus represents a moment of
hope. We in the West stand ready to cooperate with the East to promote true
openness, to break down barriers that separate people, to create a safe, freer
world. And surely there is no better place than Berlin, the meeting place of
East and West, to make a start. Free people of Berlin: Today, as in the past,
the United States stands for the strict observance and full implementation of
all parts of the Four Power Agreement of 1971. Let us use this occasion, the
750th anniversary of this city, to usher in a new era, to seek a still fuller,
richer life for the Berlin of the future. Together, let us maintain and develop
the ties between the Federal Republic and the Western sectors of Berlin, which
is permitted by the 1971 agreement.
Do đó ngày hôm nay đại diện cho
khoảnh khắc của hy vọng. Chúng ta ở phương Tây đứng lên sẵn sàng hợp tác với
phương Đông để đi đến một sự cởi mở chân thành, để phá vỡ những hàng rào ngăn
cách đã chia cách con người với con người, để tạo nên một thế giới an toàn hơn
và tự do hơn. Và chắc chắn rằng không có nơi nào tốt đẹp hơn Berlin, nơi phương
Tây gặp gỡ phương Đông, để khởi đầu cho sự hợp tác đó. Hỡi những con người tự
do của Berlin: Hôm nay, cũng như hôm qua, Nước Mỹ sẽ tuân thủ chặt chẽ và đảm
bảo thực hiện hoàn toàn tất cả các phần của Bản Hiệp Ước Bốn Bên năm 1971. Hãy
cho phép chúng tôi nhân dịp này, kỷ niệm thành phố 750 tuổi, để mở ra một kỷ
nguyên mới, để tìm đến một đời sống mới toàn hảo hơn và thịnh vượng hơn cho
Berlin trong tương lai. Cùng với nhau, chúng ta hãy duy trì và phát triển mối
quan hệ bền chặt giữa Cộng Hòa Liên Bang và Tây Berlin đã được Bản Hiệp Ước
1971 cho phép.
And I invite Mr. Gorbachev: Let us
work to bring the Eastern and Western parts of the city closer together, so
that all the inhabitants of all Berlin can enjoy the benefits that come with
life in one of the great cities of the world.
Và tôi gọi mời Tổng Thống Gorbachev:
Hãy để chúng tôi mang hai phía Đông Tây của thành phố này đến gần hơn với nhau,
để tất cả cư dân của toàn Berlin có thể tận hưởng những lợi ích đi kèm với đời
sống của một trong những thành phố lớn và tuyệt vời trên thế giới.
To open Berlin still further to all
Europe, East and West, let us expand the vital air access to this city, finding
ways of making commercial air service to Berlin more convenient, more
comfortable, and more economical. We look to the day when West Berlin can
become one of the chief aviation hubs in all central Europe.
Để mở cửa Berlin xa hơn đến toàn Châu
Âu, Đông và Tây, chúng ta hãy mở rộng đường bay cần thiết đến thành phố này,
tìm cách để dịch vụ hàng không thương mại của Berlin tiện lợi hơn, thoải mái
hơn, và giá thấp hơn. Chúng tôi mong được có một ngày khi Tây Berlin có thể trở
thành một trong những trạm vận chuyển hàng không trung tâm nhất trong khu vực
trung tâm của Châu Âu.
With our French and British
partners, the United States is prepared to help bring international meetings to
Berlin. It would be only fitting for Berlin to serve as the site of United
Nations meetings, or world conferences on human rights and arms control or
other issues that call for international cooperation.
Cùng với các đồng minh Anh và Pháp
của chúng tôi, nước Mỹ đang chuẩn bị giúp mang các cuộc họp quốc tế đến Berlin.
Chỉ có Berlin là nơi phù hợp nhất để tổ chức các cuộc họp của Liên Hiệp Quốc,
hoặc các hội nghị toàn cầu về nhân quyền và kiểm soát vũ trang hoặc các vấn đề
kêu gọi hợp tác quốc tế.
There is no better way to establish
hope for the future than to enlighten young minds, and we would be honored to
sponsor summer youth exchanges, cultural events, and other programs for young
Berliners from the East. Our French and British friends, I’m certain, will do
the same. And it’s my hope that an authority can be found in East Berlin to
sponsor visits from young people of the Western sectors.
Không có cách nào tạo ra niềm hy vọng
cho tương lai tốt hơn là mở rộng và phát triển đầu óc cũa giới trẻ và chúng tôi
rất hân hạnh tài trợ cho những chương trình trao đổi thanh thiếu niên trong mùa
hè, các sự kiện văn hóa cũng như những chương trình khác cho các thanh thiếu
niên Berlin ở Đông Berlin. Các bạn Anh và Pháp của chúng ta, tôi chắc chắn sẽ
cũng làm những điều tương tự. Và tôi hy vọng rằng sẽ có một chính quyền phía
Đông Berlin cũng tài trợ để cho phép các cuộc viếng thăm của các thanh thiếu
niên ở phía Tây Berlin
One final proposal, one close to my
heart: Sport represents a source of enjoyment and ennoblement, and you may have
noted that the Republic of Korea–South Korea–has offered to permit certain
events of the 1988 Olympics to take place in the North. International sports
competitions of all kinds could take place in both parts of this city. And what
better way to demonstrate to the world the openness of this city than to offer
in some future year to hold the Olympic games here in Berlin, East and West? In
these four decades, as I have said, you Berliners have built a great city.
You’ve done so in spite of threats–the Soviet attempts to impose the East-mark,
the blockade. Today the city thrives in spite of the challenges implicit in the
very presence of this wall. What keeps you here? Certainly there’s a great deal
to be said for your fortitude, for your defiant courage. But I believe there’s
something deeper, something that involves Berlin’s whole look and feel and way
of life–not mere sentiment. No one could live long in Berlin without being
completely disabused of illusions. Something instead, that has seen the
difficulties of life in Berlin but chose to accept them, that continues to
build this good and proud city in contrast to a surrounding totalitarian
presence that refuses to release human energies or aspirations. Something that
speaks with a powerful voice of affirmation, that says yes to this city, yes to
the future, yes to freedom. In a word, I would submit that what keeps you in
Berlin is love–love both profound and abiding.
Lời đề nghị cuối cùng, lời đề nghị
rất gần với trái tim tôi: Thể thao là nguồn vui và nguồn sinh lực sảng khoái,
và các bạn chắc cũng đã chú ý rằng Cộng Hòa Triều Tiên – Nam Hàn – đã đưa ra đề
nghị cho phép một số sự kiện nhất định trong Olympic 1988 được diễn ra ở phía
Bắc. Các cuộc thi thể thao quốc tế đủ thể loại có thể diễn ra ở cả 2 phần của
thành phố. Và cách nào tốt hơn để minh họa sự cởi mở của thành phố này với cả
thế giới hơn là đề nghị tổ chức, trong vài năm tới, một Thế Vận Hội Olympic ở
tại đây, Berlin, cả Đông và Tây?
Trong 4 thập niên vừa qua, như tôi đã
nói, các bạn những người Berlin đã xây dựng một thành phố tuyệt vời. Các bạn đã
làm được bất chấp những đe dọa – Sô Viết đã cố gắng để tác động mạnh lên các
bạn với những dấu vết của phía Đông, sự bao vây và phong tỏa. Ngày nay thành
phố vươn lên thịnh vượng bất chấp những thách thức tiềm tàng trong sự hiện diện
của bức tường này. Điều gì đã giữ các bạn ở đây giờ này? Chắc chắn có rất nhiều
điều để nói về sự mạnh mẽ và sự gan dạ không chùng của các bạn. Nhưng tôi tin
rằng còn có thứ khác sâu thẳm hơn, thứ mà có mối liên hệ với cái nhìn và cảm
xúc và đời sống của một Berlin toàn thể – không hoàn toàn chỉ là cảm tính.
Không ai có thể sống lâu lại Berlin mà không hoàn toàn tỉnh thức. Thay vào cho
những ảo tưởng là những điều nào đó ở các bạn, cái đã chứng kiến được những khó
khăn trong đời sống ở Berlin nhưng chọn chấp nhận chúng, và tiếp tục giúp xây
dựng một thành phố tốt đẹp và tự hào ngược lại với sự hiện diện của chế độ
chuyên chế ở xung quanh từ chối thả tự do cho năng lượng hay khát vọng của con
người. Một điều gì đó vang lên bằng một giọng khẳng định mạnh mẽ, trả lời có
với thành phố này, có với tương lai, có với tự do. Chỉ 1 từ thôi, tôi dám nói
đó là những gì giữ các bạn ở lại với Berlin, đó là tình yêu – một tình yêu sâu
thẳm và không đổi dời.
Perhaps this gets to the root of the
matter, to the most fundamental distinction of all between East and West. The
totalitarian world produces backwardness because it does such violence to the
spirit, thwarting the human impulse to create, to enjoy, to worship. The
totalitarian world finds even symbols of love and of worship an affront. Years
ago, before the East Germans began rebuilding their churches, they erected a
secular structure: the television tower at Alexander Platz. Virtually ever
since, the authorities have been working to correct what they view as the
tower’s one major flaw, treating the glass sphere at the top with paints and
chemicals of every kind. Yet even today when the sun strikes that sphere–that
sphere that towers over all Berlin–the light makes the sign of the cross. There
in Berlin, like the city itself, symbols of love, symbols of worship, cannot be
suppressed.
Có lẽ điều này sẽ chạm đến gốc rễ của
vấn đề, đến cái nền tảng riêng biệt cơ bản nhất của tất cả những gì giữa Đông
và Tây. Thế giới chuyên chế tạo ra sự thụt lùi bởi vì nó cưỡng bức tinh thần,
ngăn trở nhiệt huyết của con người không cho họ sáng tạo, hưởng thụ hay thờ
phượng. Thế giới chuyên chế cho rằng ngay cả biểu tượng của tình yêu và sự tôn
kính tôn giáo là sỉ nhục. Cách đây nhiều năm, trước khi người Đông Đức xây dựng
lại các nhà thờ, họ đã dựng một kiến trúc vĩnh cửu: tháp ti vi tại Quãng trường
Alexander Platz. Gần như kể từ ngày đó, các nhà cầm quyền đã cố gắng chỉnh sửa
cái họ xem như 1 lỗi quan trọng của cái tháp, họ tìm mọi cách sơn và sử dụng đủ
loại hóa chất lên quả cầu kính trên đỉnh Nhưng ngay cả hôm nay, khi mặt trời
rọi vào quả cầu – quả cầu vượt cao lên hẳn khắp Berlin – tạo ra tia sáng mang
hình thập tự. Đó chính là Berlin, giống như chính thành phố, những biểu tượng
của tình yêu, biểu tượng của tôn kính tôn giáo không thể bị đàn áp.
As I looked out a moment ago from
the Reichstag, that embodiment of German unity, I noticed words crudely
spray-painted upon the wall, perhaps by a young Berliner: “This wall will fall.
Beliefs become reality.” Yes, across Europe, this wall will fall. For it cannot
withstand faith; it cannot withstand truth. The wall cannot withstand freedom.
Khi tôi ngắm vài khoảnh khắc trước
đây từ Reichstag, hiện thân của một nước Đức thống nhất, tôi chú ý những chữ
được phun xịt bằng sơn nguệch ngoạc trên bức tường, có lẽ bởi một bạn trẻ người
Berlin: “Bước tường này sẽ sụp đổ. Niềm tin trở nên hiện thực”. Vâng, xuyên qua
Châu Âu, bức tường này sẽ sụp đổ. Vì nó không thể kháng cự lại đức tin; nó
không thể kháng cự lại sự thật. Bức tường không thể kháng cự được tự do.
And I would like, before I close, to
say one word. I have read, and I have been questioned since I’ve been here
about certain demonstrations against my coming. And I would like to say just
one thing, and to those who demonstrate so. I wonder if they have ever asked
themselves that if they should have the kind of government they apparently
seek, no one would ever be able to do what they’re doing again.
Và tôi muốn, trước khi tôi kết thúc,
phát biểu một thứ. Tôi đã đọc và tôi đã thắc mắc từ khi tôi đến đây về các cuộc
biểu tình chống đối cuộc đến thăm của tôi ở Berlin. Và tôi chỉ muốn nói chỉ một
thứ, và gửi đến những người biểu tình. Tôi tự hỏi nếu họ có bao giờ thử hỏi lại
chính họ rằng nếu họ có được loại chính quyền mà họ đang mong muốn, liệu có ai
có thể làm cái điều mà họ đang làm thêm lần nữa không.
Thank you and God bless you all.
Trân trọng cám ơn và cầu mong Thượng
Đế chúc phúc cho tất cả các bạn.
President Ronald Reagan – June 12,
1987
Tổng Thống Ronal Reagan – 12 Tháng 6
Năm 1987
Post-note: Two years later, in November
1989, East Germans issued a decree for the wall to be opened, allowing people
to travel freely into West Berlin. In some cases, families that had been
separated for decades were finally reunited. The wall was torn down altogether
by the end of 1990 upon the collapse of Communism in Eastern Europe and in
Soviet Russia itself, marking the end of the Cold War era.
Ghi chú thêm: 02 năm sau, Tháng 11 Năm 1989,
người Đông Đức ban ra một nghị định mở cửa bức tường, cho phép người dân đi lại
tự do sang Tây Đức. Trong một số trường hợp, các gia đình đã bị ly tán nhiều
thập kỹ cuối cùng đã được sum họp. Bức tường được giật sập hoàn toàn vào cuối
năm 1990 theo sau sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và ngay tại Nga Sô
Viết, đánh dấu kết thúc thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
(Phạm Hồng Quyên dịch)
The fruit
of his labors: In 1990, former President Ronald Reagan
got to
take hammer and chisel to the Berlin Wall after the fall of the Soviet empire.
President
Reagan poses with Mikhail Gorbachev by the piece of the Berlin Wall at Library
Chuyến thăm bức tường Bá Linh (Ronald
Reagan)
. Ngô Kỷ chuyển ngữ bài viết của Tổng
Thống Ronald Reagan kể lại chuyến thăm bức tường Bá Linh
RONALD REAGAN
TỔNG THỐNG RONALD REAGAN, NGƯỜI HÙNG CHỐNG
CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN,
NGƯỜI PHỤC HỒI DANH DỰ VÀ SỨC MẠNH
CHO HOA KỲ ĐÃ TỪ TRẦN!
Ngày 5.6.2004, cả nhân dân Mỹ xúc động khi
nghe tin cựu TT. Ronald Reagan từ trần và hàng triệu người trên thế giới đã
thương tiếc người anh hùng chống cộng số một của Hoa Kỳ đã ra đi vĩnh viễn vào
lòng đất mẹ. Để tìm hiểu tại sao cố TT. Reagan lại được mọi người cảm mến như
vậy, chúng tôi xin trình bày một số dữ kiện về vị Tổng thống thứ 40 của Hiệp
Chủng Quốc.
I- ĐÔI DÒNG VỀ CỐ TỔNG THỐNG RONALD WILSON
REAGAN
Cố TT. Ronald Reagan sinh ngày 6.2.1911,
tại Tampico, tiểu bang Illinois. Năm 1932, sau khi tốt nghiệp khoa kinh tế và
xã hội tại trường Eurika, sinh viên Reagan theo nghề báo chí và thể thao. Năm
1937, nhà báo Reagan được hãng phim nổi tiếng Warner Bros mời ký hợp đồng đóng
phim và ông đã đóng khoảng 50 cuốn phim. Năm 1940, tài tử Reagan kết hôn lần
thứ nhất với nữ minh tinh Jane Wyman, nhưng đến năm 1947, mối tình đầu tan vỡ.
Không để cho tình cảm bẽ bàng chi phối đời mình, tài tử Reagan quyết tâm tiến bước
trong lãnh vực điện ảnh và trở thành Chủ tịch Hiệp hội Tài tử Điện ảnh.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, vì mắt yếu, tài tử
Reagan không phải phục vụ trong các đơn vị chiến đấu. Ông được bổ sung vào đơn
vị làm phim huấn luyện quân sự và xuất ngũ năm 1945 với cấp bậc Đại úy. Ngày
4.3.1952 tài tử Reagan kết hôn lần thứ hai với nữ minh tinh Nancy Davis (tên
thực là Anne Frances Robbins). Nàng Nancy bước vào nghề điện ảnh năm 1949 do sự
giới thiệu của người bạn cũ của mẹ là Spencer Tracy. Cha Nancy chuyên nghề bán xe
cũ và mẹ cũng là một nữ tài tử. Cuộc tình xẩy ra giữa nam tài tử Reagan nổi
tiếng chống phát xít, cộng sản và nữ minh tinh Nancy phản chiến, thân cộng là
một sự kiện khó tin nhưng có thật! Hai người gặp nhau năm 1950, do môi giới của
người bạn già là giám đốc Mervyn LeRoy. Khi tài tử Reagan làm chủ tịch Hiệp hội
Tài tử Điện ảnh, thì Nancy yêu chàng. Vì vậy, Nancy đã nhờ người yêu sửa lại lý
lịch của mình. Kể từ ngày "chiêu hồi về với chính nghĩa quốc gia",
nàng Nancy luôn sát cánh và có ảnh hưởng khá nhiều đến sự nghiệp chống cộng của
chồng. Họ yêu nhau say đắm và thường dùng tên gọi ngọt ngào. Chàng gọi nàng
bằng "Mammy = má nó", nàng gọi chàng bằng "Ronnie"(tiếng
lóng của Ronald). Tài tử Reagan có hai con với người vợ trước là Maureen và
Mike. Nàng Nancy sinh cho chồng cũng hai người con là Patti (Patricia Ann) và
Ron (Ronald Prescott). Hai người từng đóng chung trong phim "Hellcats of
the Navy" vào năm 1957.
II- SỰ THÀNH CÔNG TRONG CÁC CHÍNH SÁCH CỦA
CỐ TT. RONALD REAGAN
2.1- Về lãnh vực kinh tế
Khi TT. Reagan lên nhậm chức thì kinh tế
Mỹ đang bị rơi vào tình trạng lạm phát gia tăng gấp hai, thất nghiệp nhiều và
tiền lời vay mượn trong ngân hàng khá cao. Do đó, TT. Reagan đã thực hiện
chương trình giảm thuế và giảm thiểu chi phí công quỹ. Thuế sẽ giảm 25% trong
vòng 3 năm. Nhờ vậy tình trạng lạm phát ngưng lại. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ
còn bị trì trệ khiến cho nạn thất nghiệp tiếp tục gia tăng và chương trình giảm
thuế không thực hiện được ngay trong thời gian đầu. Để trấn an dư luận, TT.
Thống Reagan đã phải kêu gọi dân chúng hãy bình tĩnh. Để tạo nên một ấn tượng
tốt về tương lai, TT. Reagan đã đưa ra khẩu hiệu "Bình minh lại về trên
đất Mỹ" (It’s morning again in America). Tới năm 1983 kinh tế Mỹ bắt đầu
từ từ phục hồi và là nguyên nhân của sự thắng cử Tổng thống nhiệm kỳ hai, của
ông già đã 73 tuổi, trên khắp các tiểu bang, ngoại trừ tiểu bang Min-nesota nơi
cư trú của ứng cử viên Mondale.
2.2- Về lãnh vực chính trị và ngoại giao
Trước sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản
vào thập niên 1940, một phần do ảnh hưởng của cha là đảng viên Dân Chủ, một
phần được khích lệ bởi cái "anh hùng tính" của người trai thời chiến
mà Tổng thống Franklin Delano Roosevelt là một biểu tượng; tài tử Reagan ngày
càng có khuynh hướng thiên hữu, chống Phát-xít và Cộng-sản. Trong môi trường
điện ảnh, tài tử Reagan đã khám phá ra khuynh hướng thiên tả và thân cộng ngay
trong hiệp hội tài tử màn bạc của mình từ năm 1947.
Năm 1960, tài tử Reagan, nguyên là đảng
viên Dân Chủ, nhưng đã vận động cho ứng cử viên tổng thống Richard Nixon thuộc
đảng Cộng Hòa. Năm 1962 thì ông bỏ đảng Dân Chủ sang Cộng Hòa và liên tiếp
thắng Pat Brown hai lần trong chức vụ Thống đốc tiểu bang California. Từ
California, Thống đốc Reagan chuẩn bị con đường tiến vào Tòa Bạch Ốc bằøng
chương trình cải tổ thiết thựïc nhất là: Giảm thuế và cắt giảm chi phí cũng như
số lượng nhân viên trong guồng máy chính phủ. Một trong các hành động ưu tiên
hàng đầu ngay sau khi lên nhậm chức của TT. Reagan là việc can thiệp cho các
người Mỹ bị Iran bắt làm con tin. Họ được phóng thích sau khi chính quyền Iran
được Hoa Kỳ thỏa mãn yêu sách mua vũ khí để chống Iraq. Một trong các hành động
anh hùng chống cộng sản của TT. Reagan có thể chứng minh qua bức thư gửi Leonid
Breznev, Tổng Bí thư Sô Viết, một lãnh tụ cộng sản sừng sỏ và hiếu chiến. Tháng
4/1981, sau khi bị ám sát và thoát chết, TT. Reagan đã gửi cho trùm cộng sản
quốc tế một bức thư với lời lẽ cảnh cáo đanh thép mà chúng tôi xin tóm tắt ý
chính như sau:
-Để cảnh cáo về cuộc xâm lược A Phú Hãn
của Sô Viết, TT. Reagan viết: "…Liệu một gia đình trung bình người Nga có
cuộc sống sung sướng hơn trong khi họ có hay biết gì chính phủ đã áp đặt ý đồ
của mình lên nhân dân Afghanistan?"
-Để trả lời cho sự cáo buộc Hoa Kỳ cũng
xâm lăng các nước khác, TT. Reagan đã trả lời Breznev một cách thẳng thắn:
"…Trong thư của mình, ngài muốn nói rằng hành động của Sô Viết trở nên cần
thiết vì mưu đồ và tham vọng đế quốc Mỹ là mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ, vì vậy,
nó là sự đe doạ nền an ninh của Sô Viết... Nhưng, không bằng chứng nào chứng
minh cho lời cáo buộc này, mà chỉ có bằng chứng rõ ràng rằng, Hoa Kỳ trong khi
có khả năng bá chủ thế giới, dù không gặp nguy hiểm gì, đã không theo đuổi nỗ
lực nào như Sô Viết... Khi Thế chiến II kết thúc, nước Mỹ là quốc gia duy nhất
trên thế giới có nền công nghiệp không bị phá hủy. Sức mạnh quân sự đạt tới
đỉnh cao và chúng tôi có cả vũ khí mạnh nhất, bom nguyên tử, cùng khả năng
không cần phải tranh luận là có thể đem loại vũ khí này tới bất kỳ nước nào
trên thế giới. Nếu chúng tôi muốn làm bá chủ thế giới, ai có thể chống lại
chúng tôi? Nhưng nước Mỹ đã đi theo đường hướng khác - con đường độc nhất vô
nhị trong lịch sử nhân loại là chúng tôi sử dụng sức mạnh và sự phồn vinh của
mình để xây dựng lại các nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, gồm cả các quốc
gia đã từng là kẻ thù của chúng tôi…"
-Để nhấn mạnh về quyền làm người, TT.
Reagan đã viết: "…Quả thật, các dân tộc trên thế giới, dù có dị biệt về
chủng tộc và nguồn gốc sắc tộc, nhưng họ có nhiều điểm tương đồng. Họ muốn được
quyền kiểm soát số phận mình. Họ muốn theo đuổi ngành nghề mình chọn và được
trả công một cách công bằng. Họ muốn chăm lo gia đình trong hoà bình, không làm
hại ai và cũng không muốn ai làm tổn hại mình. Các chính phủ thực tế có nhiệm
vụ phục vụ lợi ích của dân chứ không phải ngược lại..."
Tuy vậy, dưới thời Leonid Breznev và Yuri
Andropov vấn đề chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông và Tây vẫn còn căng thẳng.
Mãi tới năm 1985, TT. Reagan mới gặp được lãnh tụ cộng sản có tinh thần hòa
bình Mikhail Gorbachev. Quan hệ Mỹ-Nga được cải tiến qua cuộc họp thượng đỉnh
tại Geneva. Thành quả của hội nghị đưa tới việc TT. Reagan và Chủ tịch
Gorbachev ký kết hiệp ước tài giảm binh bị và hủy bỏ các loại hỏa tiễn tầm
trung vào năm 1987.
Người ta còn nhớ trước đây TT. Reagan đã
không ngần ngại gọi Sô Viết là "Đế quốc quỉ quái" (The Devil Empire);
nay trong bài diễn văn lịch sử đọc tại cổng Brandenburg tại Bá Linh ngày
12.6.1987, ông lại nói: "Nếu ngài muốn mưu tìm hòa bình, nếu ngài muốn
Liên Bang Sô Viết và Đông Âu phú cường, nếu ngài muốn tìm sự giải phóng thì hãy
đến cổng này, mở cổng này và phá hủy bức tường này đi…" Lời kêu gọi này đã
trở thành sự thực vào năm 1989 và nó đi vào lịch sử giống như lời tuyên bố lừng
danh nói lên quyết tâm bảo vệ Tây Đức của TT. John F. Kennedy vào thập niên
1960: "Chỉ có một Bá Linh" (Es gibt nur ein Berlin).
2.3- Về lãnh vực quân sự
- Chính sách chính yếu trong nhiệm
kỳ hai của TT. Reagan là chấm dứt chiến tranh lạnh. Mở đầu cho trận cuồng phong
làm sụp đổ các chế độ cộng sản Đông Âu là: cuộc chiến tranh tâm lý qua hệ thống
truyền thanh của "Đài Phát Thanh Tự Do Âu Châu" (Radio Free Europe),
rồi đến chương trình chiến tranh các vì sao (Star Wars). Lực lượng chủ yếu có
ảnh hưởng chính trị lan ra toàn khu vực là cuộc cách mạng của Công đoàn Đoàn
kết (Solidarity) của Lech Waleza ở Ba Lan có tác động mạnh trong toàn khối cộng
sản Đông Âu và đưa tới sự sụp đổ của bức tường Bá Linh ngày 9.11.1989. Sự kiện
này xẩy ra sau nụ hôn cuối cùng của Tổng Bí thư Gorbachev dành cho Thủ tướng
Đông Đức Erich Honecker.
Để đạt thành quả trong chính sách chống
cộng của mình, TT. Reagan đã sử dụng hàng trăm triệu Đô-la cho chương trình
chiến tranh tâm lý bằng hệ thống phát thanh hướng về Đông Âu. Đài "Tiếng
Nói Hoa Kỳ" (Voice of America = VOA), "Đài Tự Do Âu Châu" (Radio
Free Europe) hay "Đài Tự Do" (Radio Liberty) đã truyền thanh các
chương trình khuyến khích dân chúng dưới các chế độ cộng sản thành lập các
phong trào đòi tự do dân chủ. Song song với chương trình phát thanh, TT. Reagan
khuyến khích công dân, chính trị gia, doanh thương Mỹ viếng thăm Tiệp Khắc và
các nước cộng sản Đông Âu để tiếp xúc với những người tranh đấu cho tự do và
các tổ chức đối lập. Jiri Dienstbier, người tù lương tâm của Tiệp Khắc trước
đây đã kể lại cho hãng thông tấn AP rằng, nhờ có sự hỗ trợ từ bên ngoài các
phong trào đấu tranh đòi dân chủ tự do mới tự tin và mạng sống của họ được bảo
đảm hơn.
Cùng với chương trình đánh địch bằng chiến
tranh tâm lý, TT. Reagan không ngần ngại trực tiếp can thiệp vào cuộc chống
khủng bố ở Lebanon năm 1983, dẹp tan các cuộc bạo động do cộng sản gây ra ở
Grenada, Nicaragua, El Salvador; oanh kích thủ đô Libya vì TT. Muammar Quadhafi
chứa chấp và hỗ trợ khủng bố giết lính Mỹ ở Tây Đức vào năm 1986 và làm nổ phi
cơ dân sự ở Scotland năm 1988.
Để phát triển quốc phòng, TT. Reagan phải
giảm bớt ngân sách dành cho các lãnh vực xã hội, giáo dục và y tế. Muốn mạnh,
Hoa Kỳ cần nhiều loại vũ khí tối tân hơn Sô-viết. Tuy nhiên, dân chúng Mỹ lại
sợ một cuộc thi đua vũ trang sẽ đưa tới thảm họa chiến tranh. Nhiều cuộc biểu
tình đã xẩy ra. Nhưng TT. Reagan vẫn cứng rắn. Ngân sách dành cho chương trình
phát triển quốc phòng gia tăng lên tới 35%. Chiến lược phòng thủ bằng các màn
chắn phi đạn địch hay còn gọi là "chiến tranh các vì sao" được nghiên
cứu và thực hiện.
Để khống chế Sô Viết trên thế thượng phong
về sức mạnh quân sự, TT. Reagan đã ban hành nghị định cho phép sử dụng một ngân
sách lớn lao chưa từng có, hơn một ngàn tỷ Đô-la, nhằm phát triển chương trình
phòng thủ chiến lược "SDF" (The Strategic Defense Initiative) hay
(Star Wars) và đưa ra hai kế hoạch:
- Thành lập màn chắn hỏa tiễn tại Âu Châu.
Để thực hiện kế hoạch này, Hoa Kỳ sẽ
xây dựng một số đài Radar tối tân tại Âu Châu. Hệ thống Radar này sẽ khám phá
các hỏa tiễn của Sô Viết ngay từ khi thoát ra khỏi giàn phóng và tự động điều
chỉnh hỏa tiễn chống hỏa tiễn của Mỹ phá hủy các hỏa tiễn địch ngay trên vùng
trời địch. Như vậy chẳng khác nào Sô Viết tự hủy diệt bằng chính vũ khí nguyên
tử của mình. (Nguyên tắc này đang được TT. George W. Bush quan tâm đối với
Trung Cộng tại Á Châu. Dù Trung Cộng có mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự và dù có
hàng ngàn hỏa tiễn mang đầu nổ nguyên tử đi chăng nữa, cũng sẽ rơi vào tình
trạng tự hủy diệt, nếu nước này dở trò khiêu khích Hoa Kỳ và thế giới.)
- Thiết trí các dàn phóng hỏa tiễn nguyên
tử tại Âu Châu.
Kế hoạch này có lợi điểm là rút ngắn
một nửa thời gian tấn công từ Hoa Kỳ vào lãnh thổ Sô Viết. Sô Viết muốn tấn
công trả đũa Hoa Kỳ sẽ không kịp, vì: -các vị trí chiến lược và chiến thuật
quân sự của Sô Viết bị phá hủy trước tiên -thời gian bay của các hỏa tiễn tấn
công Hoa Kỳ kéo dài gấp đôi và đa số các hỏa tiễn bị chặn đánh ngay sau khi
thoát ra khỏi giàn phóng. Đúng là đòn thượng sách "Gậy ông đập lưng
ông!" Dù chương trình Star Wars chưa được thực hiện toàn vẹn, nhưng TT.
Reagan đã thắng Sô Viết mà không cần bắn một hỏa tiễn nào. Lý do rất dễ hiểu:
Đế quốc Đỏ không đào đâu ra cả ngàn tỷ Đô-la để thi đua vũ trang với Hoa Kỳ,
trong khi Mikhail Gorbachev đang chủ trương xét lại về kinh tế và xã hội để
chống đói giảm nghèo. Kinh nghiệm lịch sử này chứng minh cho một thực tế là
"nếu không mạnh hơn cộng sản", người ta không thể nói chuyện hòa bình
với họ được.
III- NHỮNG CHỐNG ĐỐI
Thời nào cũng vậy: "nhân vô
thập toàn". Chính sách cắt giảm trong lãnh vực xã hội, y tế và thi đua vũ
trang là nguyên nhân đưa tới sự chống đối trong nước. Có thể vì thế mà khi xuất
hiện trước khách sạn Washington, TT. Reagan đã bị John Jr. bắn gần trúng tim,
nhưng thoát chết. Khi tỉnh, ông vẫn không quên cái tính khôi hài nói với bác
sĩ, người đã gắp viên đạn ra khỏi lồng ngực mình, rằng: "tôi hy vọng bác
sĩ sẽ là một đảng viên Cộng Hòa." Kẻ ám sát TT. Reagan sau đó khai rằng,
hắn bắn ổng vì muốn được nữ minh tinh màn bạc kiều diễm Jodie Foster để ý tới
mình!
-Năm 1982, TT. Reagan ban hành đạo luật
Garn-St German nhằm điều chỉnh việc tiết kiệm và vay mượn trong lãnh vực kỹ
nghệ, ngưng sử dụng số tiền thuế khoảng 8 tỷ Mỹ-kim vào các dự tính đầu tư.
Theo một số chuyên gia thì đây là một quyết định không có lợi trong lãnh vực
kinh tế.
-Năm 1985, bất chấp lời
phê bình của Elie Eiesel, người được đề cử giải thưởng Nobel, TT. Reagan đến
thăm Tây Đức và vẫn đặt vòng hoa tại nghĩa trang Bitburg, nơi chôn 2.000 binh
lính Đức, trong đó có 49 mật vụ Đức Quốc Xã.
-Theo tường trình của ủûy ban điều tra
dưới quyền thượng nghị sĩ John Tower thì TT. Reagan đã ra lệnh cho Trung tá
Olivier North bán vũ khí cho Iran. Tiền lời sẽ dùng vào việc trợ giúp phong
trào kháng chiến chống chính quyền thân cộng tại Nicaragua. Việc bán vũ khí cho
Iran là bất hợp pháp, mặc dù để đổi lấy con tin người Mỹ.
IV- HAI LÃNH TỤ ĐỒNG MINH TRI KỶ NHẤT CỦA
CỐ TT. REAGAN
4.1- ĐGH Gio-an Phao-lô II
TT. Reagan cùng với Đức Giáo Hoàng được kể
là kiến trúc sư của chương trình xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản Đông Âu và ngăn chặn
sự bành trướng của Sô Viết. Đức Giáo Hoàng với chiến thuật nổi dậy của Công
Đoàn Đoàn Kết Ba Lan và TT. Reagan với chiến lược "Chiến Tranh Các Vì
Sao" đã thực sự chôn vùi các chế độ phi nhân và tàn bạo tại Đông Âu.
4.2- Nữ Thủ Tướng Anh Quốc
Bà Magret Thatcher, một lãnh tụ Đồng
Minh tri kỷ của TT. Reagan đã chân thành phát biểu:
"TT. Reagan
đích thực là một anh hùng vĩ đại của Hoa Kỳ. Ông sẽ không chỉ được những người
quen biết nhớ thương, vì tình yêu tổ quốc sâu xa và hãnh diện phục vụ đất nước
mình, mà hàng chục triệu người ngày nay đang được sống trong tự do vì chính
sách của ông. Ông có sách lượïc cao hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào trong việc đánh
bại cuộc chiến tranh lạnh dành tự do mà không phải bắn một phát súng! ".
V- TT. RONALD REAGAN VÀ VIỆT NAM
TT. Reagan đã từng phê bình chính
quyền Johnson lúc đó không cố gắng giải quyết vấn đề Việt Nam theo tinh thần
bảo vệ tự do của Hoa Kỳ. Với ông, tự do của VN hay HK là một, và kẻ thù cộng
sản VN hay Sô Viết cũng là một. Vì thế cuộc chiến chống CSVN cũng là cuộc chiến
chống cộng sản toàn cầu. Ông không đồng ý leo thang chiến tranh theo kế hoạch
đơn phương tấn công chầm chậm vào đối phương. Ông muốn giải quyết cuộc chiến
dứt khoát từ đầu não Trung Cộng và Sô Viết. Ông cũng phàn nàn là giới truyền
thông Mỹ đã phản bội cuộc chiến VN. Sau khi chứng kiến ký giả Walter Crokite
tường thuật về chiến tranh VN trên đài truyền hình CBS vào tháng 12.1972, ông
nói với TT. Nixon rằng: "nếu ở vào hoàn cảnh của thời Đệ Nhị Thế Chiến,
đài này đáng bị truy tố về tội phản quốc". Đến khi TT. Gerald Ford tiếp
đón người tị nạn VN thì đảng Dân Chủ chống lại bằng luận điệu "đón gà
nhà!" Mãi tới khi phong trào "thuyền nhân tị nạn" bộc phát mạnh
nhất vào năm 1979, người Mỹ mới động lòng trắc ẩn. Với quyền lực trong tay, TT.
Reagan đã ra lệnh cho Bộ trưởng Ngoại giao George Shultz tiếp nhận người VN với
mức độ nhiều hơn và cứu giúp các sĩ quan QLVNCH bị cải tạo. Sau đó chương trình
"Ra Đi Trong Trật Tự"(ODP) và chương trình "Nhân Đạo" (HO)
dành cho quân, cán, chính của VNCH được thực hiện có hiệu quả. Vì thế, đối với
các sĩ quan QLVNCH thì TT. Reagan là một vị cứu tinh đáng ghi nhớ. Thực tế chứng
minh rằng, nếu TT. Reagan cầm quyền trong thời kỳ chiến tranh VN thì có lẽ cục
diện sẽ thay đổi theo chiều hướng chiến thắng cho Hoa Kỳ và VNCH!
VI- VĨNH BIỆT TỔNG THỐNG RONALD REAGAN
Trong các ngày 11, 12, 13.6.2004,
hàng triệu người Mỹ đã ngậm ngùi thương tiếc cố TT. Ronald Reagan, khi viếng
linh cữu tại tòa nhà Quốc hội, khi trực tiếp tham dự lễ cầu hồn tại Vương cung
Thánh đường Quốc gia ở Hoa Thịnh Đốn hay chứng kiến lễ hạ huyệt tại Bel Air,
California hoặc theo dõi các nghi thức tang lễ trên màn ảnh truyền hình. Những lời
ca tụng sự nghiệp của cố Tổng thống Reagan nghe thật cảm động. Những điệu nhạc
ai oán ngân nga trong thánh đường nghe xót xa. Những loạt đạn đại bác vĩnh biệt
ròn rã vang dội trên bầu trời thủ đô Hoa Thịnh Đốn và ở khắp các căn cứ quân sự
của Hoa Kỳ trên thế giới nghe não lòng. Những giòng lệ tuôn rơi trên gò má phu
nhân Nancy, của thân nhân và quần chúng chứng kiến cảnh bi ai, đã nói lên tâm
tình thương mến sâu đậm đối với vị Tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ. Cả trăm triệu
người trên thế giới được hít thở không khí "tự do" trong lành không
khỏi ngậm ngùi nhớ thương vị anh hùng đã giải thoát họ khỏi chủ nghĩa cộng sản.
TT. Ronald Reagan chắc chắn sẽ sống mãi trong tâm trí của những người chống
cộng, những người yêu chuộng tự do và tôn trọng nhân quyền.
Phóng sự bằng hình về ngày 11 tháng 10 năm
2010, trưng bày bức tường Bá Linh tại thành phố Garden Grove, Nam California,
nhằm vinh danh cố Tổng Thống Ronald Reagan đã "giật sập" bức tường Bá
Linh, dẫn tới sự sụp đổ Liên Bang Sô Viết và khối cộng sản Đông Âu. Ngô Kỷ rất
vinh dự tham dự trong ngày quan trọng và ý nghĩa này.
Ngô Kỷ và vị cựu chiến
binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam.
Ngô Kỷ và Thị Trưởng
Bill Dalton, là người cho phép ban tổ chức xử
dụng công viên của
Thành Phố Garden Grove
để trưng bày bức tường Bá Linh.
Ngô Kỷ và hai vị trách
nhiệm quản thủ bức tường Bá Linh
Khách thưởng lãm bức
tường Bá Linh, đa số là học sinh và sinh viên.
Tượng đài Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald
Reagan tại Ba Lan
Cựu Tổng thống Ba Lan
Lech Walesa đã khánh thành tượng đài cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tại
Warsaw, người được nhân dân Ba Lan xem là đã tạo
nguồn cảm hứng cho việc lật đổ chủ nghĩa cộng sản tại Ba Lan.
Tại buổi lễ ở thủ đô Ba
Lan hôm thứ Hai, ông Walesa khẳng định nước ông sẽ không có
tự do nếu không có ông Reagan.
Tổng thống Reagan lãnh
đạo nước Mỹ từ 1981 đến 1989, người có lập trường cứng rắn với Liên Xô.
Bức tượng cao 3,5 mét ở
giữa thủ đô Warsaw, đối diện đại sứ quán Mỹ.
Tháng 6 năm 1987, khi
đọc diễn văn tại Berlin, ông Reagan thách thức lãnh đạo Xô-viết Mikhail
Gorbachev hãy “giật sập bức tường này,” bức tường ngăn Berlin thành hai
miền đông tây.
|
Ronald Reagan
Bộ sưu tập danh ngôn mở Wikiquote
Ronald Reegan năm 1981.
Ronald Wilson
Reagan (phát /ˈrɒnəld ˈwɪlsən ˈreɪɡən/; 6 tháng 2 năm 1911
– 5 tháng 6 năm 2004) là tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981–1989).
Trước đó, ông là thống đốc thứ 33 của bang California (1967–1975), và từng là
diễn viên truyền hình, truyền thanh và điện ảnh.
Câu
nói[sửa]
·
Tự
do chưa bao giờ cách xa sự tuyệt chủng hơn một thế hệ. Chúng ta không thể
truyền lại cho con cháu qua dòng máu. Cái cách duy nhất họ có thể thừa hưởng
được sự tự do chúng ta đã hưởng là nếu chúng ta chiến đấu, che chở và bảo vệ nó
và giao lại cho họ với bài học rằng họ cũng phải làm điều tương tự. Và nếu
chúng ta không làm vậy, một ngày nào đó bạn và tôi trong lúc về già sẽ dùng
những giây phút cuối đời để kể cho con cháu chúng ta nghe về ngày xưa đã từng
có một nước Mỹ tự do.
·
Khi
54.000 người Mỹ hy sinh để bảo vệ một dân tộc của một đất nước nhỏ bé và yếu ớt
ở Đông Nam Á từ chế độ cộng sản độc tài, đó, theo tôi là một hành động tập thể
của sự dũng cảm, chứ không phải là sự yếu đuối.
·
Ngày
hôm này chúng ta đều đồng ý rằng chúng ta đã học được một bài học rằng: những
người con của nước Mỹ sẽ không bao giờ tham gia cuộc chiến nào và hy sinh trừ
khi chúng ta sẵn sàng để cho họ chiến thắng.
·
Có
một dấu hiệu Liên Bang Soviet có thể làm để thúc đẩy tự do và hòa bình. Ngài
Tổng Bí Thư Gorbachev, nếu ông muốn tìm hòa bình, nếu ông muốn tìm thịnh vượng
cho khối Liên Xô và Đông Âu, nếu ông muốn tự do: hãy đến cái cổng này! Ông
Gorbachev, hãy mở cái cổng này. Ông Gorbachev, hãy phá vỡ bức tường này.
·
Dân
chủ đáng giá chết để đổi lấy, bởi vì nó là một cơ chế chính phủ danh dự nhất
được thành lập bởi nhân loại.
·
Chấm
dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá
phải trả cho hòa bình là ngàn năm đen tối cho các thế hệ sinh tại Việt Nam về
sau.
·
Chúng
ta đang chiến đấu với một đối thủ nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại, và
nếu chúng ta thua trong cuộc chiến này, chúng ta sẽ mất đi sự tự do, lịch sử sẽ
ghi nhận lại rằng những người có nhiều thứ để mất nhất đã làm ít nhất để ngăn
chặn nó.
·
Làm
thế nào để bạn biết người đó là một người cộng sản? Đó là những người đọc Marx
và Lenin Và làm thế nào để bạn biết được người đó là người chống cộng sản? Đó
là những người hiểu Marx và Lenin.
·
Nếu
chúng ta quên rằng chúng ta là một quốc gia dưới Thượng Đế, chúng ta sẽ trở
thành một quốc gia suy tồi.
·
Nếu
chúng ta mất tự do ở đây (nước Mỹ), sẽ không còn một nơi nào khác để trốn. Đây
là trụ cột cuối cùng trên trái đất Và cái ý tưởng rằng chính phủ phải lệ thuộc
người dân, là một ý tưởng mới lạ và khác biệt nhất trong lịch sử nhân loại.
·
Đây
là vấn đề trong cuộc bầu cử này: rằng chúng ta tin rằng chúng ta có đủ khả năng
để tự chủ hoặc tin rằng một nhóm người trí thức nào đó ở một thủ đô xa xôi có
thể xếp đặt cuộc sống của chúng ta cho chúng ta tốt hơn khi chúng ta tự làm.
·
Chúng
ta đã được bảo rằng chúng ta phải chọn giữa phe cánh hữu hay phe cánh tả (cánh
phải hay cánh trái), nhưng tôi muốn gợi ý rằng chẳng có tả hay hữu gì cả. Chỉ
có tiến bước hoặc lùi bước. Tiến bước để bảo vệ giấc mơ của nhân loại; quyền tự
do trong mỗi cá nhân – hoặc lùi bước để trở về với sự độc tài, và những ai đã
bán đổi sự tự do của chúng ta để lấy một chút hòa bình đã lùi bước vào nô lệ.
·
Tôi
đã không rời bỏ Đảng Dân Chủ, Đảng Dân Chủ đã rời bỏ tôi.
·
Chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể thành công ở 2 nơi: thiên đường, nơi mà không cần nó;
và địa ngục, nơi mà đã có nó.
·
Chúng
ta không thể nào mua sự an toàn, tự do từ sự đe dọa của trái bom bằng cách tiếp
tay làm một việc vô đạo đức như nói với một tỷ con người đang bị giam kiềm sau
bức màng thép rằng “hãy từ bỏ ước mơ tự do của mọi người đi bởi vì chúng tôi
muốn tự cứu lấy bản thân, chúng tôi sẽ thỏa thuận với chủ nô lệ của mấy người.”
·
Tôi
và bạn đều biết hòa bình dù có đẹp cách mấy cũng không có ý nghĩa gì nếu nó
được mua với cái giá gông cùm và nô lệ.
·
Chúng
ta nên làm gì để có được hòa bình? Chỉ một cách, rất đơn giản. Bạn và tôi phải
có đủ can đảm để nói với địch thủ, “Có một cái giá mà chúng tôi sẽ không trả.”
Có một ý nghĩa trong câu nói của Barry Goldwater, “hòa bình qua sức mạnh.”
·
Tôi
có một câu hỏi cho các nhà lãnh đạo ở các nước chủ nghĩa cộng sản: nếu chủ
nghĩa cộng sản có tương lai, tại sao mấy ông cần phải xây dựng những bức tường
để giữ mọi người lại và quân lực và cảnh sát chìm để giữ mọi người im lặng?
·
Cái
nhìn của chính phủ về kinh tế có thể nói ngắn gọn như sau: nếu nó di chuyển,
hãy đánh thuế. Nếu nó tiếp tục di chuyển, hãy ra luật để điều khiển nó. Và nếu
nó ngừng lại, hãy hỗ trợ nó.
·
11
chữ đáng sợ nhất trong tiếng Anh là “tôi là người của chính phủ và tôi sẽ giúp
bạn.”
·
Không
có một chính phủ nào tự động thu nhỏ. Các chương trình của chính phủ khi bắt
đầu sẽ không bao giờ chấm dứt. Thậm chí, một cơ quan chính phủ là một thứ gì đó
gần gủi với sự vô tận mà chúng ta có thể thấy được trên trái đất.
·
Bạn
và tôi đều có cuộc đối mặt với đệnh mệnh. Chúng ta sẽ gìn giữ cho con cháu
chúng ta điều này, niềm hy vọng cuối cùng cho nhân loại, hoặc chúng ta sẽ kết
án chúng để bước cuối cùng vào một ngàn năm đen tối.
·
Chúng
ta sẽ luôn nhớ, luôn tự hào. Chúng ta sẽ luôn chuẩn bị, để chúng ta sẽ mãi được
tự do.
·
Trong
cơn khủng hoảng hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho các vấn đề;
chính chính phủ là vấn đề. Từ ngàn xưa chúng ta đều tin rằng xã hội quá phức
tạp để cho phép quyền tự chủ, rằng chính phủ của một nhóm ưu tú sẽ tốt hơn một
chính phủ của dân, cho dân và vì dân. Nếu không một ai trong chúng ta có đủ khẳ
năng để tự chủ thì làm sao ai có đủ khả năng để tự quyết giùm người khác?
·
“Hãy
tin chúng tôi” (chính phủ) đòi hỏi chúng ta phải tập trung niềm tin và ước mơ
vào một người, và tin tưởng người đó sẽ làm những gì tốt nhất cho chúng ta.
Quan niệm của tôi về chính phủ không đặt niềm tin vào bất kỳ một người hay đảng
phái nào, mà vào những giá trị cao quý hơn cá nhân hoặc đảng phái.
·
Trên
hết, chúng ta phải nhận ra rằng không có vũ khí nào lợi hại hơn ý chí và sự
dũng cảm đức hạnh của những con người tự do. Đó là một vũ khí mà địch thủ chúng
ta không có, nhưng đó là một vũ khí mà người Mỹ chúng ta có. Tất cả những tổ
chức độc tài khủng bố trên thế giới nên nhớ điều đó.
·
Chúng
ta là một quốc gia có một chính phủ, chứ không phải ngược lại. Và điều này
khiến chúng ta rất đặc biệt so với các nước khác. Chính phủ chúng ta không có
quyền lực gì trừ những quyền lực mà nhân dân đã giao cho họ.
·
Khi
bạn bắt đầu một cuộc tranh đấu, bạn sẽ không biết nó sẽ đi về đâu. Chúng ta
muốn thay đổi một đất nước, nhưng thay vào đó chúng ta đã thay đổi cả thế giới.
·
Chúng
ta, những người dân” cho chính phủ biết họ nên làm gì, họ không không có quyền
làm ngược lại. Chúng ta là người lái, chính phủ là chiếc xe. Và chúng ta sẽ
quyết định chiếc xe đó sẽ đi về đâu, bằng đường nào, với tốc độ bao nhiêu. Hầu
hết tất cả các hiến pháp trên thế giới đều viết với khái niệm chính phủ sẽ cho
nhân dân biết quyền lợi của họ là gì. Hiến pháp của chúng ta được viết với khái
niệm “Chúng Ta” sẽ cho chính phủ biết quyền lợi của họ là gì. “Chúng ta, những
người dân” đang tự do.
·
Có
một quy luật nhân quả đơn giản và dễ hiểu như luật vật lý: “chính phủ càng lớn,
tự do càng bị thu hẹp.” Con người sẽ không được tự do trừ khi chính phủ bị giới
hạn.
·
Liên
kết ngoài[sửa]
Wikipedia có
bài viết về:
|
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài
liệu về Ronald
Reaga
|
·
Ông Chris Cox là cố
vấn pháp lý cho Cố Tổng Thống Ronald Reagan thập niên 80
Dân
Biểu Liên Bang Chris Cox và Ngô Kỷ có mối quan hệ từ lâu, và luôn hợp tác nhau trong việc vận động
chính phủ Tổng Thống Ronald Reagan giúp
đở Thuyền Nhân được nhập cảnh Hoa Kỳ, đón nhận
các
Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam (HO) được qua Mỹ định cư, và ủng hộ cuộc đấu tranh dân chủ tại quốc
nội.
Dân
Biểu Chris Cox và Ngô Kỷ tại Đại Hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc 1996 tại San
Diego, California
Thường
xuyên gặp nhau
Dân
Biểu Liên Bang Robert K. Dornan, Ngô Kỷ, Dân Biểu Liên Bang Chris Cox
Vào thập niên 80,
Ngô Kỷ quen biết Ông Chris Cox, làm cố vấn pháp lý cho Cố Tổng Thống Ronald
Reagan,
và Ông Dana Rohrabacher viết diễn văn
cho Cố Tổng Thống Ronald Reagan tại Tòa Bạch Ốc.
Rồi
vào năm 1988, hai nhân vật này đã về Orange County để tranh 2 chức Dân Biểu
Liên Bang Hoa Kỳ.
Hình
Dân Biểu Liên Bang Chris Cox, Ngô Kỷ, và Dân Biểu Liên Bang Dana Rohrabacher,
đại diện địa hạt
bao
gồm khu Little Saigon. Hai vị dân biểu này luôn ủng hộ nguyện vọng của cộng
đồng Việt Nam chống cộng.
Ông Dân Biểu Chris Cox được Tổng Thống George
W. Bush bổ nhiệm vào Chính Phủ
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment