Saturday, July 7, 2012

Ở Mỹ ai cũng phải mưu sinh kể cả tổng thống

Ở Mỹ ai cũng phải mưu sinh kể cả tổng thống

Cần phải “Nhập gia tùy tục” khi một người Việt chuyển sang Mỹ sống. Theo những khảo sát chuyên môn cho biết thì 80% để đưa đến sự thành công cho cuộc sống tại nước Mỹ là sự cần cù và cố gắng của mỗi một cá nhân.

Có khá nhiều thông tin trong tâm sự của Anna Nguyễn ( Lời khẩn cầu của một người vợ Việt tại Mỹ) đã được những người Việt ở hải ngoại chia sẻ, phân tích, tư vấn cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề của chị.

 

Nếu chúng ta cho phép nhiều thời gian để suy nghĩ thì sẽ thấy rõ là nhiều điểm vẫn không có tính thuyết phục và cần thiết để được bàn luận thêm khi đọc qua thư về lời than phiền của người vợ từ Việt Nam vừa mới sang định cư tại Mỹ chỉ hơn 3 tháng.

 

Đầu tiên, ở đây chỉ phản ảnh suy nghĩ độc nhất của người vợ, hoàn toàn không có ý kiến của người chồng, cũng giống như câu mà người Mỹ thường nói: “Đó là những gì cô ta nói”. Vậy chúng ta có thể nào nhận xét một đôi chút về người chồng qua những tin tức ít ỏi như thế này hay không?

 

Người chồng là một người tuân thủ luật pháp của nước Mỹ. Anh đã được tòa án gia đình Mỹ cho phép ly dị người vợ cũ, không những vậy lại được phép cho cưới người vợ mới, qua sự điều tra chặt chẽ của Sở Di trú Mỹ để được bảo lãnh người vợ mới này vào sống tại nước Mỹ.

 

Người chồng dường như có một cuộc sống xã hội ổn định vì lợi tức thu nhập cao? Có lẽ cũng vì vậy mà đã được cho phép bởi tòa án Mỹ để trực tiếp nuôi 3 đứa con trong khi người vợ cũ vẫn còn sống?

 

Tại Mỹ tiền nợ của người vợ không bao giờ tự động là trách nhiệm của người chồng, người vợ nếu đã mất thì những món nợ này sẽ không còn nữa, không những vậy những người chủ nợ phải chứng minh và được sự đồng ý của tòa án Mỹ là người chồng cũng là người trực tiếp đã ký cho những món nợ này.

 

Sự tình nguyện của người chồng để trả những món nợ này là điều ít khi xảy ra ở Mỹ và nếu có, thì đây là một người chồng có đời sống đạo đức tốt.

 

Câu nói “Nhập gia tùy tục” của người Việt Nam mình thường nói vẫn còn thích hợp ngay cả tại đất nước Mỹ này. Theo những khảo sát chuyên môn cho biết thì 80% để đưa đến sự thành công cho cuộc sống tại nước Mỹ là sự cần cù và cố gắng của mỗi một cá nhân.

 

Nước Mỹ hỗ trợ mạnh mẽ cho sự cạnh tranh, người nào làm nhiều thì sẽ hưởng được nhiều, người nào làm ít thì sẽ hưởng ít đi, sự chọn lựa cho mỗi một cá nhân rất là rõ ràng.

Để có được một cuộc sống giàu sang nhanh chóng tại nước Mỹ vẫn còn là một điều khó cho rất nhiều người ngay cả người Mỹ. Nhưng sự thiếu thốn về ăn uống vì nghèo khó để phải dẫn đến cái chết của một người thì lại càng khó nhiều hơn, nếu không muốn nói là rất hiếm khi xảy ra ở nước Mỹ.

 

Anna Nguyễn vẫn còn có rất nhiều cơ hội để dễ dàng ổn định một cuộc sống mới tốt đẹp hơn tại nước Mỹ nếu so sánh với một số trường hợp khác.

 

Sự kiên nhẫn để cho phép mình có thêm thời gian hội nhập với một cuộc sống mới hoàn toàn khác biệt so với cuộc sống tại Việt Nam là một điều cần thiết phải có.

 

Hỗ trợ người chồng trong việc chăm sóc những đứa con ngay cả không phải là con ruột của mình là một sự đầu tư tốt, để sẽ nhận được những đền đáp vật chất cũng như tinh thần yêu thương của những đứa nhỏ này khi bọn chúng đã khôn lớn, khi cô đã về tuổi hưu trí cũng là điều hợp lý.

 

Những người bạn mới là những người Việt đã ổn định, đã sống lâu năm tại nước Mỹ sẽ là những người có thể cho cô những ý kiến thực tế và tốt đẹp nhất nếu cô cần sự tư vấn về cuộc sống hàng ngày của cô.

 

Nói như thế nào đi nữa, bất kể nơi nào mình sinh sống, mọi người đều phải làm việc để mưu sinh, kể cả Tổng thống nước Mỹ. Nhìn xuống những người có cuộc sống thấp kém hơn mình ở chung quanh cô sẽ thấy là cô vẫn còn may mắn hơn rất nhiều người.

 

Hy vọng cô sẽ cảm thấy tâm hồn mình sẽ bình thản hơn và cuộc sống của riêng mình sẽ có ý nghĩa nhiều hơn.

 

Người Việt Hải Ngoại

Lời khẩn cầu của một người vợ Việt tại Mỹ

07.07.2012BTVĐể lại phản hồiGo to comments

Phan Anh
-
“Tôi không có thân nhân ở Mỹ, phải nuôi 3 đứa con chồng và trả một phần nợ khổng lồ vợ trước anh ấy để lại, cuộc sống của tôi không tiền không thẻ xanh như địa ngục trần gian”, Anna Nguyễn xuất cảnh sang Mỹ 3 tháng trước, gửi thư đến VnExpress.net.

 

Bức thư của người vợ 31 tuổi bày tỏ nỗi niềm lo lắng, hoang mang tột cùng, nói rõ rằng qua VnExpress.net, chị muốn nhờ cộng đồng người Việt giúp đỡ, tư vấn về pháp luật.

 

Anna Nguyễn cho biết, chị đến Mỹ đã hơn 3 tháng bằng con đường Fiancee (vợ chưa cưới), tổ chức hôn lễ với chồng tại đây.

 

 Chồng chị năm nay 50 tuổi đã có 3 đứa con với người vợ trước. “Tôi không có con, yêu và đến Mỹ bằng sự chân thành.

 

 Tôi biết khi yêu chồng phải yêu luôn con chồng, nhưng thực sự bây giờ tôi không thể chịu đựng cảnh này nữa”, người vợ viết.

 

Theo Anna, cuộc sống tại Mỹ của vợ chồng chị cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, 3 đứa con quen cách sống rất dơ bẩn kém vệ sinh. “Chồng tôi lương cao nhưng phải nuôi con và trả một phần nợ khổng lồ vợ trước để lại, tôi lại chưa có thẻ xanh đang chờ được xét duyệt nên cuộc sống như địa ngục trần gian”.

 

Người phụ nữ nói rằng đã quá mệt bởi vợ chồng cãi nhau suốt vì con cái, tình yêu giờ chỉ còn là đau khổ và nước mắt.

“Nếu chúng ta có thể thấy tương lai thì không phải đau như thế này, tôi hỏi chồng ‘anh có thể giúp em dạy chúng không, em bó tay rồi’.

 

Chồng tôi cũng bó tay huống hồ là tôi”. Người vợ cho biết chồng chị đe nếu vợ không yêu, chăm sóc anh ấy thì sẽ trả về Việt Nam.

 

“Tôi có thể về nước nhưng còn danh dự gia đình phải làm sao. Mẹ tôi sẽ không chịu nổi cú sốc lớn này, bà ấy sẽ chết khi biết tôi như thế này từ Mỹ trở về.

 

Tôi không ước ao gì lớn nếu có ai có thể giúp tôi thoát khỏi cảnh này hoặc chỉ dẫn tôi con đường kế tiếp phải làm sao. Tôi cần sự giúp đỡ của cộng đồng người Việt”, Anna Nguyễn khẩn cầu.

 

Trao đổi với VnExpress.net, người phụ nữ nhắn nhủ: “Tôi chỉ hy vọng phụ nữ Việt Nam hiểu một điều: Lấy chồng Mỹ không phải thiên đàng, ở Mỹ vẫn có thể cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”.

 

Theo: VnExpress

PHẢN ĐỐI HÀNH VI PHẠM THÁNH VÀ ĐÁNH ĐẬP LINH MỤC, GIÁO DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN TẠI CON CUÔNG”

 

THỨ BẢY, NGÀY 07 THÁNG BẢY NĂM 2012

Cập nhật: buổi thắp nến cầu nguyện cho giáo điểm Con Cuông trên toàn giáo phận Vinh (7.7.2012)

(TNCG) - “PHẢN ĐỐI HÀNH VI PHẠM THÁNH VÀ ĐÁNH ĐẬP LINH MỤC, GIÁO DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN TẠI CON CUÔNG”

20h42: Tại giáo xứ Quan Lãng, cha xứ và giáo dân đang làm giờ chầu Thánh Thể rất sốt sắng. Số giáo dân tham dự hôm nay đông hơn mọi hôm. Trước lúc bước vào giờ chầu Thánh Thể, cha chánh xứ đã đọc văn thư của TGM gửi UBND tỉnh Nghệ An và phân tích cho toàn thể mọi người nghe và tiếp tục khẳng định nhà cầm quyền đã vi phạm tự do tôn giáo một cách nghiêm trọng. Chính quyền đã xúc phạm nặng nề đến niềm tin tôn giáo. Chưa dừng lại ở đó, chính quyền còn huy động các báo, đài phát thanh – truyền hình liên tục đưa tin xuyên tạc, chụp mũ, vu khống đối với giám mục, các linh mục và giáo dân. Do đó, linh mục Jos. Ngô Văn Hậu lại một lần nữa quả quyết rằng “việc này liên quan đến toàn giáo xứ, giáo hạt và giáo phận”. Vì thế, mọi việc triệu tập, làm việc mà chính quyền yêu cầu thì bắt buộc phải có mặt giáo dân toàn giáo xứ, giáo hạt. 

Giờ chầu kết thúc vang vọng trong lời Kinh Hòa Bình, cầu mong sớm xua tan bóng tối của sự ác, sự gian dối và cầu mong cho một nền công lý, hòa bình, hạnh phúc sớm được hiển trị đích thực trên quê hương đất nước Việt Nam thân yêu này.

Một số hình ảnh về thắp nến cầu nguyện.


 

 

 

 

 

 

 



Các bạn nhấn F5 để theo dõi buổi tường thuật. 


Đó là câu khẩu hiệu được phổ biến chung cho toàn giáo phận. Hiện nay, khắp các giáo xứ trên địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Băng rôn đã được treo lên trước các nhà thờ, trước cổng làng và các lối ra vào của các giáo xứ. Hưởng ứng lời kêu gọi hiệp thông của Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp[
1] và Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh[2] về việc treo băng rôn và thắp nến cầu nguyện cho giáo điểm Con Cuông vào tối 7.7.2012 trên tất cả giáo phận Vinh. trang Thanh niên Công giáo sẽ tường thuật trực tiếp sự kiện này.

Các bạn nhấn F5 để theo dõi buổi tường thuật. 

Sau đây là hình ảnh ở một số các giáo xứ: 

Giáo xứ Xã Đoài

 

Giáo xứ Yên Lưu

Giáo xứ Thuận Nghĩa

 

Giáo xứ Yên Hòa

 

Giáo xứ Vĩnh Hòa

 

Giáo xứ Sơn La

 

Giáo xứ Bột Đà

 

Giáo xứ Lãng Điền

 

Giáo xứ Xã Đoài

(Tiếp tục cập nhật)

Chú thích: 

[1]. Thư của Đức Giám mục Phaolô gửi cộng đồng dân Chúa trong giáo phận - 4/7/2012

[2]. Thông Cáo của Tòa Giám mục GP Vinh về sự việc xảy ra tại giáo điểm Con Cuông

 

 

 

XUONG DUONG

NỘI LỰC DÂN TỘC" BẮT ĐẦU TỪ MỖI CON NGƯỜI VN

 

THỨ BẢY, NGÀY 07 THÁNG BẢY NĂM 2012

"NỘI LỰC DÂN TỘC" BẮT ĐẦU TỪ MỖI CON NGƯỜI VN

trước khi chảy chung vào DÒNG THÁC DÂN TÔC...(Trần Trung Đạo)
-Cuộc biểu tình ngày 1 tháng 7 vừa qua với sự hiện diện của rất nhiều thành phần, từ thanh niên sinh viên học sinh, nông dân, công nhân đến các bậc bô lão và văn nghệ sĩ. Đó là những dấu hiệu tích cực...
*
-Một khái niệm quen thuộc gần như nghe mỗi ngày là chính nghĩa quốc gia. Trước năm 1975, khi nghe nói đến chính nghĩa quốc gia chúng ta tự động nghĩ đến các thành phần dân tộc đang chiến đấu chống Cộng Sản và về mặt địa lý, phải sống bên bờ phía nam của sông Bến Hải. Ngày nay, nhận thức đó không còn đúng và biên giới đó không còn tồn tại nữa. 
Khái niệm quốc gia dân tộc hôm nay mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Đó là chỗ dựa không phải chỉ dành cho những người Việt hải ngoại mà cả đồng bào trong nước đang chịu đựng trong xích xiềng Cộng Sản, không phải chỉ những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà tất cả những ai quan tâm và dấn thân vì một Việt Nam tự do dân chủ và thịnh vượng...
-Quyền tự chủ dân tộc trong thời đại ngày nay gắn liền với dân chủ. Nói cụ thể hơn, Việt Nam không bao giờ giành lại được Hoàng Sa, Trường Sa từ tay bá quyền Trung Cộng bằng cơ chế chính trị độc tài mất lòng dân và không được quốc tế ủng hộ như chế độ CSVN hiện nay.

-Cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ làm thay đổi khuôn mặt thế giới suốt mấy trăm năm nay cũng chỉ bắt đầu bằng một nhóm nhỏ khoảng từ 30 đến 130 người đã can đảm ném các thùng trà của Anh xuống vịnh Boston năm 1773. Tương tự, biến cố Phá Ngục Bastille sáng ngày 14 tháng Bảy 1789 được chọn làm ngày quốc khánh Cộng Hòa Pháp không phải để giải phóng nhiều trăm hay nhiều ngàn tù nhân chính trị nhưng chỉ là hành động mang tính biểu tượng vì ngày đó nhà tù Bastille chỉ giam giữ 7 tù nhân.
*
Các biến cố ném trà xuống biển, phá ngục Bastille hay cuộc biểu tình 1 tháng 7 vừa qua tại Việt Nam đều không phải là biến cố lớn về hình thức nhưng chuyên chở những nội dung lịch sử. Ba sự kiện có một đặc điểm giống nhau rằng cách mạng là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Chọn lựa hôm nay, vì thế, không còn là chọn lựa của nhân dân Việt Nam mà là của giới cầm quyền..."
Nguồn:
Blog Dân Làm Báo -"Cách mạng dân chủ tại Việt Nam, khoảng cách và hy vọng"(TTĐ)
hay: http://www.trantrungdao.com/?p=1761 

Theo Blogger Son Tran 

 

 

 

XUONG DUONG

OK: Sản phẩm văn hóa vĩ đại nhất của nước Mỹ

OK: Sản phẩm văn hóa vĩ đại nhất của nước Mỹ

 

Không ai có thể ngờ một từ xuất phát từ một trò đùa đã trở thành một sản phẩm vĩ đại nhất của nước Mỹ, vì nó phản ánh văn hóa, tư duy của dân Mỹ, và trên thế giới không ai không dùng đến nó.

Ông Allan Metcalf viết nguyên một cuốn sách về OK . Ông nói OK không chỉ là một từ vĩ đại, nó còn là một từ quan trọng, một sản phẩm thành công nhất mà người Mỹ đã xuất khẩu đi khắp thế giới. Nó còn bao gồm triết lý sống và cách suy nghĩ của người Mỹ.

Ông nói cái hay của nó là chỉ vỏn vẹn hai mẫu tự mà vừa đẹp, vừa đơn giản, vừa tiết kiệm.

Nó còn mang tính thực dụng của người Mỹ. Nó không hàm ý mọi chuyện đều hoàn hảo, vượt mức mong đợi, mà chỉ mang tính trung lập, có người còn gọi là ba phải.

Khi có ai hỏi bạn có khỏe không, bạn trả lời tôi OK, như vậy không có nghĩa là bạn khỏe như voi và cũng không có nghĩa là bạn đang bệnh liệt giường.

Có nhiều giai thoại về xuất xứ của OK, ở đây chỉ xin kể ba giai thoại.

Thứ nhất, từ này bắt đầu do một trò đùa. Ngày 23 tháng 3 năm 1839, một tờ báo ở Boston dùng từ này đầu tiên, và giải thích rằng “ok” là viết tắt của “all correct,” mọi thứ đều chính xác. Nhưng tại sao lại chính xác khi “o” không bắt đầu cho “all” và “k" không bắt đầu cho “correct?” Do đó, ngay từ đầu, những gì gọi là chính xác cũng chưa hẳn là chính xác, mà chỉ là OK.

Thứ hai, một năm sau đó, 1840, ông Martin Van Buren ra tranh cử tổng thống lần nữa. Ông này vốn xuất thân từ khu Kinderhook của New York. Những người ủng hộ ông tái tranh cử gọi ông là lão già ở Kinderhook - Old Kinderhook - và nhiều nơi trên nước Mỹ lập ra những nhóm ủng hộ ông, lấy tên là OK Club. Thế là cái từ này gây ồn ào trở lại.

Thứ ba, người ta đồn rằng Tổng thống Andrew Jackson, lãnh đạo Hoa Kỳ từ 1829 đến 1837 thường hay phê “OK” vào các văn thư trình lên ông để tỏ ý chấp thuận. Trong vòng 20 năm sau đó, các vị lãnh đạo trong các ngành nghề khác bắt chước lối phê này để ra điều mình cũng làm như tổng thống. Tác giả Allan Metcalf nói sự thực Tổng thống Andrew Jackson không hề phê “OK” vào các văn thư, nhưng tin đồn đó đã tạo ra một phong trào và giúp biến từ này thành một từ thông dụng.

Tác giả Allan Metcalf vẫn còn dạy môn Anh ngữ tại trường cao đẳng MacMurray ở thành phố Jacksonville, tiểu bang Illinois. Ông còn là Tổng thư ký lâu năm của hội các nhà Phương ngữ Hoa Kỳ.

Ông vẫn cố vận động để cả nước Mỹ xem ngày 23 tháng 3 là ngày ‘OK Day’ để kỷ niệm ngày từ này xuất hiện đầu tiên.

Ông nói ngoài ông ra còn một người nữa, Thomas Harris, cũng viết một quyển sách có tựa 'I'm OK -- You're OK.' Theo ông, sách này phản ánh tâm lý yêu chuộng tự do của người Mỹ:

"'I'm OK' có nghĩa là tôi có thể làm những gì tôi muốn. 'You're OK' có nghĩa là bạn có thể làm những gì bạn muốn. Có thể là chúng ta không làm giống nhau, nhưng như vậy cũng OK.”

 

Lạc quan tếu!

Lạc quan tếu!

Đoàn Thi 

Sáng thứ Năm 21 tháng 6 vừa qua, sau một phiên họp “thâu đêm suốt sáng”, Quốc hội liên bang Úc đại lợi vẫn không đạt được một giải pháp nào cho vấn đề thuyền nhân. Dự luật do dân biểu độc lập Rob Oakeshott đệ trình và được Hạ viện thông qua đã bị các nghị sĩ Liên Đảng và Đảng Xanh chận lại, ngay cả bằng nước mắt của thượng nghị sĩ Đảng Xanh Sarah Hanson Young.

 

Chính phủ vẫn khăng khăng với giải pháp Mã Lai, vốn đã bị Tối Cao Pháp Viện ngăn chặn. Đối lập thì vẫn một mực bám vào giải pháp Nauru, tức giải pháp “Thái bình dương” được đề ra dưới thời thủ tướng John Howard. Vào giữa lúc vấn đề thuyền nhân đang phải “lênh đênh” như chính số phận của các thuyền nhân giữa biển khơi thì các ông bà dân biểu và nghị sĩ bận...đi nghỉ mùa Đông.

 

Chuyến viếng thăm Úc đại lợi của ông Susilo Yudhoyono, tổng thống Nam Dương, xem ra cũng chẳng mang lại chút hy vọng nào cho chính phủ trong việc tìm kiếm một giải pháp thuyền nhân. Trong một tuyên ngôn chung sau cuộc gặp gỡ tại Darwin, thủ tướng Julia Gillard và tổng thống Nam Dương cam kết đẩy mạnh những nỗ lực nhằm chận đứng nạn đưa  lậu người từ Nam dương vào Úc đại lợi. Nhưng những hứa hẹn của tổng thống Yudhoyono xem ra cũng chẳng bảo đảm chận đứng được hiện tượng chuyển lậu người vào Úc bằng đường biển.

 

Chuyện thuyền nhân có làm “mủi lòng người dân Úc và gây sóng gió tại nghị trường Quốc hội” đấy, nhưng đối với các chính trị gia cũng như đại đa số người dân Úc hiện nay, vấn đề trước mắt vẫn là thuế Khí thải, vừa bắt đầu có hiệu lực kể từ kể từ ngày 1 tháng 7 vừa qua. Lợi dụng kỳ nghỉ mùa Đông này, chính phủ cũng như đối lập tung người đi khắp nơi để tìm cách thuyết phục dân chúng về “lợi ích” hay “tác hại” của thuế này.

 

Dĩ nhiên, Đối lập thì vẫn một mực rêu rao rằng thuế Khí thải làm cho giá sinh hoạt gia tăng, trong khi chính phủ thì lại khẳng định rằng “trời vẫn chưa sập” như Đối lập luôn đoán mò; mọi sự vẫn tốt đẹp; rồi đây dân chúng Úc sẽ thấy được “lợi ích” của thuế này và nhận ra thiện ý của chính phủ.

 

Mà thật vậy, trái với tiên đoán của Đối Lập, một cuộc khảo sát do Đài ABC thực hiện cho thấy thuế Khí thải không làm cho giá hàng tạp hóa thay đổi. Mới đây, chính thủ tướng Gillard cũng đã đích thân viếng thăm 3 cửa hàng tạp hóa tại Sydney và đưa ra nhận xét rằng giá cả không thay đổi sau khi thuế Khí thải có hiệu lực. Giá cả trong các siêu thị lớn cũng chẳng thay đổi.

 

Quả thật, mọi sự xem ra vẫn như cũ. Có khác chăng là mới đây, các ông bà dân biểu và nghị sĩ liên bang lại được tăng lương thêm 3 phần trăm nữa. Chẳng hạn như lương hiện nay của thủ tướng lên đến 495.430 Úc kim, nghĩa là mỗi tuần được tăng thêm 2500 đô.

Nhưng chắc chắn đây không phải là lý do khiến cho thủ tướng Gillard và chính phủ Lao động “lạc quan”.

 

 Nếu bà và những người ủng hộ bà có lạc quan là vì vẫn tin tưởng rằng rồi đây thuế Khí thải sẽ được dân chúng Úc “đón nhận” như đã từng đón nhận thuế GST cách đây 12 năm và sẽ trả lại uy tín cho chính phủ Lao động.

 

Đây quả là một thái độ “lạc quan tếu” bởi vì, bất kể giá sinh hoạt có lên xuống hay không, bất kể Đối Lập có hù dọa hay không, lòng dân đối với bà Gillard và chính phủ Lao động xem vẫn không thay đổi. Những cuộc thăm dò mới nhất cho thấy có đến 62 phần trăm dân chúng Úc không chấp nhận thuế Khí thải. Và dĩ nhiên, sự ủng hộ dành cho Lao động vẫn không vượt khỏi làn ranh 30 phần trăm.

   

Tự lừa dối mình

 Thủ tướng Gillard vẫn không ngừng kêu gọi dân chúng hãy tự mình xem xét và phán quyết về thuế Khí thải chứ đừng “nhẹ dạ”  nghe theo lời phỉnh gạt của các “chính trị gia”, dĩ nhiên ý bà muốn ám chỉ các chính trị gia đối lập. Vậy mà khi trên 60 phần trăm cử tri Úc cho biết không ủng hộ thuế này, thì bà và chính phủ của bà lại xem thường phản ứng này.

 

Chính phủ Lao động vẫn tiếp tục tự an ủi mình bằng cách so sánh thuế Khí thải với thuế GST dưới thời thủ tướng John Howard. Thủ tướng Gillard có lẽ quên mất kinh nghiệm cay đắng mà Liên Đảng đã từng trải qua, bởi vì chính thuế GST đã làm cho Liên Đảng thất cử trong cuộc bầu cử Liên bang năm 1993.

 

Ông Peter Reith, phát ngôn viên về kinh tế  của Liên đảng đối lập lúc bấy giờ cho biết trong 3 năm từ 1990 đến 1993, ông là người đại diện chính của Liên đảng để quảng bá thuế GST. Mặc dù vào thời đó, tại Âu châu và nhiều nơi khác trên thế giới, thuế GST đang rất thịnh hành, Liên đảng vẫn không thể thuyết phục được cử tri Úc ủng hộ thuế này.

 

Năm năm sau, một lần nữa vì tìm cách đưa thuế GST trở lại mà chính phủ Howard đành phải mất hai ghế. Nói cách khác, cứ mỗi lần bầu cử mà đưa thuế GST ra là mất phiếu. Nếu phải so sánh thuế Khí thải với thuế GST, thì chính phủ Lao động nên nhớ đến bài học trên đây của Liên Đảng. Số phận của chính phủ thiểu số Lao động lại đang như sợi chỉ mành treo trên một...chiếc ghế: chỉ cần mất chiếc ghế này là chính phủ đi đoong! Theo ông Reith, nếu cần so sánh, thì có lẽ chính phủ Lao động nên so sánh thuế Khí thải với thuế thân (poll tax) do thủ tướng Anh Margareth Thatcher đề ra: sự nghiệp chính trị của nữ thủ tướng được mệnh danh là “Bà Sắt Thép” (The Iron Lady) này đã tiêu tùng vì  thuế này!

 

Dù chính phủ Lao động có biện minh thế nào đi nữa, trong cái nhìn chung của dân chúng, thuế Khí thải vẫn là thứ thuế gây tổn thất cho doanh nghiệp và như vậy hạ giảm khả năng cạnh tranh của Úc đại lợi. Mà hiện nay, trong thời buổi kinh tế toàn cầu này, cạnh tranh vẫn là mục tiêu của kinh tế.  Do đó, tại Úc đại lợi, không thể so sánh thuế Khí thải với bất cứ thứ thuế nào khác. Thuế này lại gây tranh cãi đến độ ngay cả chính phủ cũng không tìm được một lý do khả dĩ đủ thuyết phục để biện minh cho lý do hiện hữu của nó.

 

Đó là dân chúng cũng không cần phải chạy theo thủ lãnh đối lập Tony Abbott để lập lại rằng thuế này được khai sinh từ một hành động dối trá của bà Gillard. Đây mới thực sự là nguyên nhân chính dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng của dân chúng đối với thủ tướng Gillard và thuế Khí thải.

 

Thật ra, không cần phải có thuế khí thải, ngay từ đầu chính phủ Lao động đã không được lòng dân. Theo ông Reith, kết luận duy nhất mà người ta có thể rút ra trong lúc này là Lao động cần phải thay đổi lãnh đạo và đồng thời cũng thay đổi chính sách.

 

 Đáng tiếc thay, các thành viên nội các lão thành xung quanh bà Gillard lại xem ra không có đủ uy tín, sự sáng suốt hay sự tinh nhạy để nhận ra hay đúng hơn chấp nhận cái thực tế phũ phàng  trước mắt là “cửa tử” của Lao động. Họ biết quá rõ rằng với thuế Khí thải, Lao động cầm chắc trong tay là sẽ bị đánh bại trong cuộc bầu cử Liên bang vào năm tới. Nhưng như bày thiêu thân, họ vẫn lao đầu vào chỗ chết.

 

Ông Reith viết: “Một trong nhiều vấn đề của bà Gillard chính là phe nhóm của bà, nhưng lại không thay đổi được”.

 

Một chút hy vọng trong con đường cùng

Biết mình sẽ chắc chắn thất bại trong cuộc bầu cử Liên bang vào năm tới, tại sao Lao động vẫn cố bám chặt vào thuế Khí thải? Theo ký giả Christopher Pearson của báo The Australian, chính phủ Lao động đang làm hết sức có thể để ngăn cản không cho Liên Đảng thực hiện các chương trình của mình. Một trong những chương trình mà thủ lãnh đối lập Tony Abbott luôn đề ra  như ưu tiên hàng đầu của ông là ngay trong ngày đầu tiên lên làm thủ tướng, ông sẽ đẩy lui thuế Khí thải và thuế Hầm mỏ.

 

Liệu ông Abbott có thể thực hiện được cam kết của mình không? Ký giả Pearson đưa ra một giả thuyết gần như chắc chắn rằng những dân biểu Lao động nào cương quyết bảo vệ thuế Khí thải cho đến cùng sẽ không có hy vọng được tái cử trong cuộc bầu cử Liên bang vào năm tới.

 

Cứ như đà chống đối của dân chúng đối với thuế Khí thải vẫn tiếp tục gia tăng như hiện nay và nhất là tỷ lệ ủng hộ dành cho Lao động lại không thể vượt qua được ngưỡng cửa 30 phần trăm như hiện nay, thì nếu có diễn ra một cuộc bầu cử bán phần Thượng viện Liên bang,  may mắn lắm Lao động chỉ chiếm được hai ghế tại mỗi tiểu bang.

 

Theo giả thuyết này thì ông Abbott đương nhiên sẽ nắm được phe đa số tại Thượng Viện. Với sự giúp đỡ của thuợng nghị sĩ độc lập Nick Xenophon và thượng nghĩ sĩ John Madigan, thuộc tiểu bang Victoria, ông Abbott sẽ đẩy lui thuế Khí thải và thuế Hầm mỏ một cách dễ dàng như trở bàn tay. Đó là chưa nói đến lá phiếu của một thượng nghĩ sĩ Liên Đảng cầm chắc sẽ được bầu lên tại tiểu bang Queensland.

 

Cũng  theo suy đoán của ông Pearson,  vì tổng trưởng kinh tế Wayne Swan không đạt được thặng dư ngân sách như đã hứa, thủ tướng Gillard có thể bị buộc phải cho tổ chức một cuộc bầu cử sớm vào mùa Xuân tới đây.  Dựa trên Hiến Pháp, Tổng toàn quyền Quentin Bryce sẽ không có lý do gì để không cho phép thủ tướng Gillard được tổ chức một cuộc bầu cử sớm như thế. Trong trường hợp này, một cuộc bầu cử bán phần Thượng Viện cũng sẽ được tổ chức cho phù hợp với cuộc bầu cử Hạ Viện.

 

Trong lịch sử Liên Bang, ít nhất là trong một phần tư thế kỷ vừa qua,  Tổng toàn quyền thường không để cho hai cuộc bầu cử hai viện Quốc hội diễn ra vào hai thời điểm khác nhau, vì những cuộc bầu cử bán phần Thượng Viện rất tốn kém.

 

Vì khôn ngoan, các chính phủ cũng thường làm hết sức có thể để tránh những cuộc bầu cử riêng rẽ như thế ngay cả khi được phép cho tổ chức bầu cử sớm, bởi vì theo tâm lý thông thường dân chúng không thích đi bầu cử nhiều lần trong cùng một năm. Hơn nữa, các cuộc bầu cử bán phần Thượng Viện cũng dễ biến thành một thứ trưng cầu dân ý qua đó người dân bày tỏ sự bất tín nhiệm với chính phủ và tạo áp lực để thủ tướng phải ra đi.

 

Trong bất cứ trường hợp nào, với Lao động, bầu cử sớm chỉ có nghĩa là chấp nhận thua cuộc và nhường quyền lại cho Liên Đảng.

Điều này xem ra không phải là điều mà thủ tướng Gillard chờ đợi hay mong muốn. Dẫu biết chắc sẽ thất bại trong cuộc bầu cử Liên bang vào năm tới, bà Gillard hay người kế vị của bà vẫn cố gắng lê lết cho đến cùng.

 

Hồi tuần trước, bà Gillard và ông Greg Combet, đương kim tổng trưởng về Thời tiết thay đổi, Năng lượng và Kỹ nghệ, đã đả kích thậm tệ chiến dịch “hù dọa” của ông Tony Abbott. Theo bà và ông Combet, không chóng thì chày, bộ mặt thật của ông Abbott sẽ được lộ ra chẳng khác nào một anh “sơn đông mãi võ”. Thật ra, nói như thế cũng oan và thiếu công bình đối với lãnh tụ của một Đảng Đối Lập, bởi vì Đối lập cũng là những vị dân cử được dân chúng tín nhiệm bầu lên và họ được bầu lên với nhiệm vụ trở thành một thứ rào cản cần thiết đối với những chính sách sai lầm của chính phủ. Thuế Khí thải đã có hiệu lực, nhưng cuộc tranh luận, nhất là trong nghị trường, vẫn tiếp diễn.

 

 Chính phủ vẫn cho rằng kể từ ngày 1 tháng 7 vừa qua, Úc đại lợi bước vào một khúc quanh mới với một cuộc cải tổ quan trọng về kinh tế và môi sinh. Với 5 tỷ Úc kim được bỏ ra để bù lỗ cho những thiệt hại do thuế Khí thải có thể tạo ra, chính phủ Lao động cũng tự nhận mình là chính phủ của giới trung lưu và giai cấp lao động có thu nhập thấp.

 

 Về phía Đối lập, lãnh tụ Abbott cũng không ngừng nói rằng với thuế Khí thải, Úc đại lợi đang bước một bước thụt lùi gây thiệt  hại cho kinh tế và dĩ nhiên đời sống của dân chúng. Thực tế cho thấy bên nào cũng phóng đại về những “lợi ích” hay “thiệt hại” của thuế Khí thải. 

 

Thủ tướng Gillard vẫn một mực cho rằng chính vì chiến dịch hù dọa của Đối Lập mà dân chúng Úc đã không chịu đón nhận thuế Khí thải.

 

Kỳ thực, không đợi cho đến khi thuế Khí thải có hiệu lực, chính thái độ “không thành thật”, tiền hậu bất nhất, hứa một đàng làm một nẻo của bà Gillard mới khiến cho chính phủ Lao động lâm vào “cửa tử” như hiện nay.

 

Điều gì sẽ xảy ra nếu có một cuộc bầu cử sớm? Nếu Liên Đảng chiến thắng một cách áp đảo tại cả hai viện Quốc hội, thì luật thuế Khí thải sẽ bị đẩy lui và chắc chắn tên tuổi của bà Gillard sẽ đương nhiên được ghi đậm trong lịch sử Úc đại lợi.

 

Nhưng liệu bà Gillard có chịu bó tay đầu hàng một cách nhục nhã như thế không? Có thể làm thày mò để đoán rằng ông Abbott sẽ chỉ chiếm được đa số ghế tại Hạ viện, còn Thượng Viện thì vẫn còn do Lao động và Đảng Xanh kiểm soát.

 

Trong vai trò đối lập, chắc chắn Lao động sẽ chiến đấu cho tới cùng để thuế Khí thải và thuế Hầm mỏ không bị chính phủ Liên Đảng đẩy lui.

 

 Đây có thể là chút hy vọng còn sót lại của Lao động trong con đường cùng hiện nay.

 

Là một người đầy mưu tính, bản lĩnh và giỏi thương lượng, thủ tướng Gillard chắc chắn sẽ còn rất nhiều trò ngoạn mục để “cứu” cái ghế thủ tướng của mình.

 

Giá mà bà dùng mưu trí và thì giờ đó vào những chuyện quốc gia đại sự khác hay ít nhất chuyện “cứu” người tầm trú khỏi số phận “lênh đênh” vì chưa có “chính sách” như hiện nay thì tốt biết bao nhiêu.

 

Đoàn Thi 

 

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link