On Friday, May 8, 2015 7:55 PM, Truc Nguyen <> wrote:
Con ngựa thành Troie
đã trở lại sân khấu, vận nước sẽ đổi thay
Lê
Quế Lâm
Tuần qua các thân hữu của Hoa Tự Do có nhận được
bài 30/4 và “Con ngựa thành Troie” của Nguyễn Thị Cỏ May. Nội dung chính
viết về Thành phần thứ ba hay Lực lượng thứ ba và Mặt trận Giải phóng Miền Nam
Việt Nam.Trong phần cuối tác giả đề cập đến Con ngựa gổ thành Troie: “Sau 10
năm bao vây, không vào được Thành Troie, quân Hi-Lạp có sáng kiến làm một con
ngựa gổ khổng lồ, giấu trong bụng ngựa một số lính tinh nhuệ, đem tới cho Thành
Troie như một món quà lớn. Dân Troie nhận quà, mở tiệc ăn mừng, say xỉn ngã lăn
ra đất. Lính Hi-Lạp chui ra, chiếm thành, cướp sạch thành Troie, giết hết đàn
ông, con trai, bắt hết đàn bà, trẻ con gái làm nô lệ. Khi nói tới “Thành Phần
Thứ Ba” trong chiến tranh Việt Nam hay “Mặt trận Giải phóng Miền nam” người ta
gọi đó là “Con Ngựa Thành Troie”.
Tác giả kết luận: “Võ Văn Kiệt tỏ ra chia sẻ
với bên thua cuộc “Ngày 30/04 có triệu người vui ,có triệu người buồn. Một
triệu người buồn thì hãy còn đây. Cón 1 triệu người vui kia, nay còn mấy người
vui thật tình? Nhìn dân chúng trong nước ngày nay, sau 40 năm được “giải phóng”
thì hiểu”.
Người viết xin góp ý với tác giả vốn là chỗ thân
tình, một người anh cùng quê hương (Cần Giuộc) về vai trò của MTGPMN và Thành
phần Thứ ba trong việc kết thúc chiến tranh VN năm 1975.
Đầu tháng 9/1960, Đảng Lao động VN triệu tập Đại
hội III, phát động chiến tranh giải phóng miền Nam. Ba tháng sau MTGPMN ra đời
(20/12/1960). Hơn 4 năm sau, ngày 8/3/1965 HK đưa hai tiểu đoàn TQLC đổ bộ lên
Đà Nẵng khởi đầu giai đoạn tham dự trực tiếp vào chiến tranh VN. Hai tháng sau,
trong diễn văn đọc tại Đại học John Hopkins (Baltimore, Maryland) TT Johnson
tuyên bố HK sẳn sàng thương lượng vô điều kiện với các chính phủ liên hệ dựa
trên những hiệp ước cũ hoặc được bổ túc bằng những hiệp ước mới. HK sẽ làm mọi
thứ cần thiết để đạt cho bằng được mục tiêu là “nền độc lập của Nam VN được
bảo đảm vững chắc để họ có thể hoạch định mối liên hệ riêng của họ đối với các
nước khác mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Nơi đây không phải là căn cứ
quân sự cho nước nào và cũng không liên minh với nước nào”.
Hôm sau trong kỳ họp Quốc hội khóa 3, TT Phạm
Văn Đồng bác bỏ đề nghị hòa bình của Johnson và đưa ra đề nghị 4 điểm của chính
phủ VNDCCH: 1-Yêu cầu HK rút quân khỏi MN. 2-Đình chỉ hành động chiến tranh với
Miền Bắc. 3-Công việc MN sẽ do nhân dân MN giải quyết theo Cương lĩnh của
MTGPMN. 4- Việc thống nhất VN sẽ do nhân dân hai miền tự quyết định không có sự
can thiệp từ bên ngoài. Ông Đồng còn khẳng định: “Mọi giải pháp trái với lập
trường trên đây đều không thích hợp, giải pháp muốn dùng Liên Hiệp Quốc để can
thiệp vào tình hình nước Việt Nam cũng đều không thích hợp”.
Từ đó, HK chỉ còn cách từng bước tăng quân vào
miền Nam và mở rộng diện ném bom miền Bắc tùy mức độ xâm nhập của Hà Nội. Đến
cuối tháng 10/1966, do đề nghị của tổng thống Phi Luật Tân Ferdinand Marcos,
lãnh tụ các nước đồng minh có quân tham chiến ở VN đã gặp giới lãnh đạo VNCH
tại Manila. Họ đưa sáng kiến hòa bình, chấm dứt chiến tranh bằng đề nghị quân
ngoại nhập cùng rút khỏi miền Nam VN để nhân dân NVN thực hiện việc hòa giải
dân tộc. Đồng thời họ đề xướng việc thành lập Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB)
và đưa ra 2 tuyên ngôn về tự do, hòa bình và tiến bộ ở VN và toàn khu vực Á
châu Thái Bình Dương.
Chính quyền BV phủ nhận việc can dự của họ ở MN
nên bác bỏ đề nghị song phương rút quân. Trước thái độ cứng rắn của Hà Nội,
cuối năm 1966 HK gia tăng các cuộc không tập liên tiếp và dữ dội nhằm vào các
mục tiêu quân sự ở ngay khu vực ngoại thành Hà Nội. Ông HCM phải chấp nhận đàm
phán. Ngày 21/1/1967 BCH/TƯ Đảng Lao động VN ban hành Nghị quyết 13 mở ra giai
đoạn đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự và chính trị.
Đầu tháng 2/1967, Thủ tướng Liên Sô Kosygin đến
Luân Đôn hội đàm với Thủ tướng Anh Wilson. Hai bên lên tiếng yêu cầu HK chấm
dứt không điều kiện việc oanh tạc miền Bắc để khởi đầu việc thương thuyết hòa
bình. Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch Hội nghị Genève 1954. Ngày 8/2/1967
TT Johnson chính thức gởi đến Chủ tịch HCM lời đề nghị: HK sẽ ngưng ném bom
miền Bắc và ngưng tăng cường quân lực Mỹ ở miền Nam VN, nếu BV cũng đình chỉ
việc gởi người và vũ khí vào MN. Sau đó Mỹ và BV sẽ tiến hành những cuộc mật
đàm để giải quyết vấn đề MNVN.
Trong thư trả lời, ông HCM lập lại đề nghị 4
điểm của Hà Nội, coi đó là cơ sở để giải quyết cuộc chiến ở MN. Ông cho biết “Nước
VNDCCH không thể thương lượng dưới sự đe dọa của bom đạn Mỹ. Hoa Kỳ phải chấm
dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và hành động chống lại nước
VNDCCH, khi đó hai bên mới có thể đàm phán và thảo luận những vấn đề mà hai bên
quan tâm”.
Từ đó có nhiều nổ lực quốc tế giúp HK và Hànội
đến bàn hội nghị, đáng kể nhất là trung gian của Pháp từ tháng 6/1967. Ông
Raymond Aubrac (một người CS từng quen biết HCM hồi năm 1946) và Hervert
Marcovich -cả hai là khoa học gia Pháp, nhiều lần đi Hànội gặp HCM và TT Phạm
Văn Đồng để giúp BV và HK trao đổi những đề nghị. Phía Hànội do đại sứ Mai Văn
Bộ ở Paris phụ trách, còn phía HK là Henry Kissinger. Cuộc tiếp xúc kéo dài đến
thương tuần tháng 10/1967 thì chấm dứt.
Để đạt thắng lợi trên chiến trường làm cơ sở cho
thắng lợi trên bàn đàm phán sẽ diễn ra, từ giữa năm 1967 Hà Nội tích cực chuẩn
bị kế hoạch tổng tấn công toàn Miền Nam. Đầu tháng 12/1967 Bộ Chính trị ra nghị
quyết: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới,
thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Đó là cuộc Tổng Công Kích-Tổng Khởi
Nghĩa Tết Mậu Thân 1968.
Sau này, Thượng tướng Trần Văn Trà nhận xét: “Đi
vào tổ chức thực hiện một quyết định lớn như vậy mà Bộ Chính trị chỉ dành cho
các cấp ở chiến trường có ba tháng, thật là quá ngắn ngũi”. Ông cho
biết mục tiêu đề ra là “Tiêu diệt và làm rã tuyệt đại bộ phận quân đội
Sàigòn, đánh đổ chính quyền các cấp và giành toàn bộ chính quyền về tay nhân
dân” và “tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của
Mỹ” thì thật là vượt quá nhiều khả năng thực tế ta có. Thứ nhất ta không đủ sức
-lực lượng ta chỉ bằng 1/5 của Mỹ và quân đội Sàigòn về bộ binh. Còn không
quân, hải quân và cơ giới thì chúng có ưu thế tuyệt đối”… Ông chua chát kết
luận: “Như vậy đề ra chủ trương TCK-TKN để giành toàn bộ chánh quyền về tay
nhân dân” mà cán bộ và chiến sĩ ta diễn đạt gọn và đơn giản lúc đó là “dứt
điểm” thì thật là hoàn toàn không thực tế, không thể thực hiện nổi, vượt quá
sức của ta và coi thường khả năng và phản ứng của Mỹ”.
Trong khi Hà Nội tiếp xúc với Mỹ ở Paris và
chuẩn bị TCK-TKN ở MN, thì MTGPMN cũng tiếp xúc với Đại sứ Mỹ ở Sàigòn. Lúc bấy
giờ Trần Bạch Đằng là Thường vụ Khu ủy T4 Sàigòn-Gia định, phụ trách Bí thư nội
thành Sàigòn. Hai mươi năm sau (1988), ông đã dành cho ký giả Úc Clayton Jones
(Báo The Christian Science Monitor) một cuộc phỏng vấn về biến cố này. Ông nói:
“Chúng tôi bị dồn vào thế phải tổng công kích, dù chúng tôi đã cố gắng tìm
kiếm nhiều giải pháp chính trị khác. Tôi đã thông báo điều này với chính Đại sứ
Bunker vào năm 1967 khi chiến tranh sẽ là một điều tất yếu”. Đằng cho biết
từ năm 1966 đến 1969, ông đã tiếp xúc nhiều lần với Mỹ để trao đổi tù binh.
Chính Bunker đã can thiệp để VNCH trả tự do cho vợ của Đằng (bà Mai Thị Vàng
hay Nguyễn Thị Chơn phụ tá của bà Nguyễn Thị Bình tại bàn đàm phán Paris) Trong
cuộc phỏng vấn trên, TBĐ còn tiết lộ, mỗi lần muốn gặp Đs Bunker, ông nhắn mật
hiệu trên báo “Sao và Sọc” của quân đội Mỹ ở VN, sau đó tòa đại sứ cho xe đến
đón trước Tòa Đô chánh Sàigòn.
Ngoài ra, vợ Trần Bửu Kiếm là bà Dược sĩ Phạm
Thị Yên cũng được Mỹ phóng thích năm 1967 “để thực hiện một âm mưu chính trị
mới”. Ông TBK là trưởng phái đoàn đầu tiên của MTGPMN tại hòa đàm Paris. Bà
Dược sĩ Yên là trưởng ban trí vận thành phố Sàigòn bị VNCH bắt khoảng năm 1961,
bị giam ở Côn Đảo. Năm 1967, Mỹ đưa bà về Sàigòn vào bệnh viện tư của bác sĩ
Nguyễn Duy Tài, cho gia đình đến thăm nom. Vài tuần sau Mỹ chở bà lên biên giới
Tây Ninh, đưa ít tiền ria và bảo: Bà đi thẳng thì lên Pnôm Pênh, có sứ quán của
Việt Cộng ở đó. Bà rẽ tay mặt, thì vào chiến khu Việt Cộng. Tùy bà lựa chọn. Bà
quyết định lên Pnôm Pênh. Năm 1968, bà xin trở về Nam, được phân công giúp đỡ
các nhân sĩ trí thức trong Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình
Việt Nam ở khu giải phóng. Bà qua đời sau một cơn sốt ác tính hồi 1971.
Ông Đằng cho biết từ năm 1965, ông cư ngụ ở
Sàigòn, có lần ở kế cận nhà Phó Đại sứ HK ở đường Lê Thánh Tôn. Ngoài việc lãnh
đạo chung, nghiệp vụ chuyên môn của ông là “trí vận”. Trong cương vị này, ông đã
vận động móc nối nhiều giới trẻ, lãnh tụ các phong trào đấu tranh của sinh viên
học sinh như: Hồ Hữu Nhựt, Trần Thiện Trí, Trần Quang Long, Trần Triệu Luật, Lê
Quang Lộc, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng… Và một số trí thức tên tuổi Sàigòn
như: ông bà Ls Trịnh Đình Thảo, vợ chồng ông Phú hữu Nguyễn Thạnh Cường -một kỹ
nghệ gia tên tuổi Sàigòn, Bs Dương Quỳnh Hoa, Gs Nguyễn Văn Kiết, Gs Nguyễn Văn
Chì, Gs Lê Văn Chí, Gs Lê Văn Giáp, Ks Lâm Văn Tết, Ks Cao Văn Bổn, Ks Nguyễn
Hữu Khương, nhà văn Thiếu Sơn, Thanh Nghị, Lữ Phương, nhà báo Võ Ngọc Thành,
Thiên giang Trần Kim Bảng…Đó là một tổ chức ‘đệm’ giữa MTGPDT và các thế lực
khác, gọi là “lực lượng thứ ba”. Đây là chủ trương của TBĐ nhằm tranh
thủ những ai tán thành độc lập dân tộc, trung lập và hòa bình ở MN. Một số đã
thành lập “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình VN”. Tổ chức
này có lập trường tương tự MTGPMN là tạo dựng một MN hòa bình, trung lập.
Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân được CS gọi là
“Tổng công kích & Tổng khởi nghĩa” (TCK & TKN): Lực lượng vũ trang đảm
nhận việc TCK. Còn “Liên minh các lực lượng…” kêu gọi nhân dân tổng nổi dậy
cùng quân giải phóng giành chính quyền. Tại khu Sàigòn-Gia định, Liên minh do
Gs Lê Văn Giáp làm chủ tịch và sinh viên Hồ hữu Nhựt phó chủ tịch. Ủy ban Nhân
dân Cách mạng do Gs Nguyễn Văn Chì làm chủ tịch và Dược sĩ Phạm thị Yên phó chủ
tịch. Đến ngày 10/4/1968, Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng dân tộc,
dân chủ và hòa bình VN ra đời do Ls Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, Hoà thượng
Thích Đôn Hậu và Ks Lâm Văn Tết đồng phó chủ tịch Ngày 8/6/1969 Liên minh kết
hợp với MTDTGP thành lập Hội đồng Cố vấn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa MNVN.
Được Mỹ cam kết sẽ “án binh bất động” để Lực
lượng vũ trang GPMN dốc toàn lực vào cuộc TCK-TKN khắp các thị trấn, đô thị
miền Nam trong khi QLVNCH hưu chiến trong những ngày Tết cổ truyền. Nếu quả
thật MTGPMN sự ủng hộ của dân chúng, tổng nổi dậy giành được chính quyền thì HK
sẳn sàng rút quân để MTGP quản lý công việc MN theo cương lĩnh của họ. Nếu
không thắng, MTGP sẽ cùng chính quyền Sàigòn đàm phán, giải quyết chiến tranh
bằng con đường hòa bình.
Trong mấy tháng đầu của cuộc đàm phán bốn bên,
Hànội vẫn chưa có giải pháp nào mới cho vấn đề MN. Họ vẫn căn cứ vào lập trường
4 điểm đề ra từ 8/4/1965. Còn MTGP thì dựa vào cương lĩnh ngày 20/12/1960 do
Hànội soạn thảo: đòi Mỹ chấm dứt xâm lược, rút quân và từ bỏ chính quyền
Sàigòn.
Bất ngờ, ngày 7/5/1969 trong cuộc mật đàm với
Xuân Thủy, đại sứ Lodge cho biết sẽ đề nghị một giải pháp mới cho vấn đề MNVN
theo như tuyên bố của ông Trần Bửu Kiếm (MTGP) trong phiên họp thứ 14 ngày
26/4/69: “Tổng tuyển cử tự do có thể mở đường cho một cuộc thảo luận bổ ích và
đề nghị MTGP nói chuyện thẳng với Sàigòn”.
Lúc bấy giờ, thực lực của MTGPMN ngày càng suy
yếu: lực lượng vũ trang hầu như bị nướng sạch trong ba đợt tổng công kích hồi
năm 1968, hạ tầng cơ sở bị đánh bật khỏi nông thôn, số lực lượng vũ trang còn
sót lại phải chạy sang bên kia bên giới Miên. Thượng tướng Trần Văn Trà đã nhận
định: “Trong Tết Mậu Thân, ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng ta
địch cụ thể lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện còn
hạn chế của ta, đề ra yêu cầu cao quá sức thực tế ta có. Nghĩa là ta không dựa
vào sự tính toán khoa học, cân nhắc sâu sắc mọi yếu tố mà có phần ảo tưởng dựa
vào sự mong muốn chủ quan. Chính vì vậy chúng ta đã phải chịu một hy sinh thiệt
hại lớn lao về sức người, sức của, đặc biệt là cán bộ các cấp, làm cho sức ta
yếu xuống rõ rệt. Sau đó không những ta không giữ được tất cả các thành tựu đã
đạt được mà còn chịu muôn vàn khó khăn tiếp theo trong những năm 1969-1970”.
Trong tình thế đó, lập trường mới của MTGPMN rất
mềm dẻo, khác xa nhiều với Cương lĩnh 10 điểm trước đây. Họ không còn đòi giải
quyết công việc nội bộ MN theo cương lĩnh của họ, mà sẽ do nhân dân MN tự quyết
định, không có sự can thiệp của nước ngoài. Và “trong thời gian từ khi hòa bình
đươc lập lại cho đến khi tổng tuyển cử không một bên nào được cưỡng bức nhân
dân miền Nam VN phải chấp nhận chế độ chính trị của mình” (điểm 4 & 5).
Ngày 8/6/1969, MTGPMN kết hợp với Liên minh của Ls Trịnh Đình Thảo thành lập
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa MNVN. Sau đó, Trần Bửu Kiếm, trưởng phái
đoàn CP/CMLT công bố toàn văn “Lập trường 10 điểm” ngày 8/5/1969 trong một
phiên họp công khai tại hội nghị bốn bên.
Mấy ngày sau, trong cuộc mật đàm, Kissinger nói
với Lê ĐứcThọ: khi TT Phạm Văn Đồng đưa ra “lập trường 4 điểm” ngày 8/4/1965 để
trả lời đề nghị đàm phán của TT Johnson, tổng thống Mỹ chấp nhận ba điểm. Duy
chỉ có một điểm, HK không thể chấp nhận, đó là nội dung điểm 3: “Công việc miền
Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo cương lĩnh của MTGPMN, không có sự
can thiệp bên ngoài”. Từ đó đến nay quý vị vẫn duy trì “lập trường trước sau
như một của nước VNDCCH”, nay cương lĩnh của MTGPMN đã thay đổi. Chúng tôi thấy
lập trường 10 điểm của Chính phủ CMTL có nhiều điểm trùng họp với kế hoạch hòa
bình 8 điểm của HK. Hai bên HK và VNDCCH có thể dung hòa hai đề nghị trên để
kết thúc chiến tranh. Kế hoạch 8 điểm của Mỹ được TT Nixon trình bày trên hệ
thống truyền hình ngày 14/5/1969: Mỹ muốn rút quân nhanh chóng, không muốn tìm
kiếm căn cứ quân sự ở NVN, hai bên cùng rút quân trong vòng 12 tháng sau khi có
hiệp định để nhân dân miền Nam VN quyết định công việc nội bộ của họ. HK đồng ý
để MTGPMN tham gia vào đời sống chính trị ở NVN, tham gia vào tổng tuyển cử tự
do có giám sát và kiểm soát quốc tế.
Từ đó cuộc đàm phán Paris đi thẳng vào vấn đề
chính là giải quyết cuộc chiến tại miền Nam VN. Sau này, ông Lưu Văn Lợi phụ tá
Lê Đức Thọ tiết lộ: “Đây là một bất ngờ” mà Hànội không tiên liệu vì lập
trường mới của MTGPMN. Từ trước đến giờ, trên bàn đàm phán chỉ có hai kế hoạch
giải quyết vấn đề VN. Mỹ với hai điểm chủ yếu là quân miền Bắc cùng rút với
quân Mỹ và giữ chính quyền Sàigòn. Còn phía VNDCCH thì đòi giữ quân miền Bắc ở
lại MN sau khi Mỹ rút, xóa bỏ chính quyền Sàigòn”. Nay lập trường 10 điểm của
Chính phủ CMLT chủ trương liên hiệp giữa hai chính phủ ở miền Nam. Hànội nhận
xét: “Mỹ đang có ưu thế ở MN và tất nhiên muốn giải quyết vấn đề trên thế
mạnh. Phía VN phải chờ đợi thời cơ. Cần có thời gian để khôi phục lại tình thế
cách mạng và chiến tranh nhân dân ở MN”. Họ phê phán MTGP: “Ngay trong
vấn đề chính phủ liên hiệp đưa ra trong hoàn cảnh hạ tầng cơ sở của ta tan rã
như lúc đó, nếu địch nhận ra thì có thể cũng là một khó khăn cho ta”
MTGPMN mong muốn trung lập MN, điều này phù hợp
với chủ trương của Mỹ. Miền Nam trung lập là giải pháp duy nhất giúp MN tự do
tồn tại sau khi Mỹ kết thúc chiến tranh. Còn CS Bắc Việt chủ trương “vừa đánh
vừa đàm” để gia tăng lực lượng xâm nhập vào Nam, củng cố sức mạnh, chờ đợi thời
cơ đánh chiếm Miền Nam. Theo Lê Tùng Minh một cán bộ Việt Minh từ thời Thanh
niên Tiền Phong đến Nam bộ kháng chiến và MTGPMN tiết lộ: Cuối năm 1969, Lê
Duẫn triệu Trần Bạch Đằng ra Hànội báo cáo tình hình. Lúc bấy giờ vùng “nông
thôn giải phóng” thuộc quyền kiểm soát của MTGPMN gồm ¾ nông thôn Nam Bộ, đã bị
liên quân Việt Mỹ tái chiếm và bình định gần hết. Từ Hànội trở về, với tư cách
Bí thư Khu ủy T4, TBĐ triệu tập hội nghị Bình Giã 5, dưới sự chủ tọa của Nguyễn
Văn Linh –Phó bí thư TWCục. Lúc này Phạm Hùng (Bảy Hồng) phụ trách Bí thư.
Trong báo cáo chính trị, TBĐ nêu hai vấn đề về tư tưởng có tầm chiến lược trong
công tác lãnh đạo giải phóng đô thị:
- Một là, trong nền kinh tế thị trường của chủ
nghĩa tư bản thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, bản chất của giai cấp công nhân đã
biến chất, không còn đóng vai trò tiền phong, lãnh đạo phong trào cách mạng ở
đô thị như trước năm 1945 nữa. Chủ lực quân của phong trào cách mạng ở đô thị
hiện thời, qua thực tiễn đấu tranh từ 1955 đến nay đã cho thấy: học sinh-sinh viên,
thanh niên các tầng lớp nói chung không phân biệt giai cấp, tôn giáo là quân
chủ lực của phong trào cách mạng đô thị. Trí thức và tôn giáo yêu nước là lực
lượng liên minh rất quan trọng trong công cuộc giải phóng đô thị.
- Hai là, tư tưởng chiến lược “lấy
nông thôn bao vây thành thị” của Mao Trạch Đông, đã lỗi thời đối với tình
thế cách mạng giải phóng của miền Nam hiện nay! Nông thôn giải phóng của chúng
ta hiện đã nằm trong sự kiểm soát của địch, làm gì có nông thôn giải phóng để
bao vây thành thị? (cả hội trường vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt đối với luận
điểm này)
TBĐ bị Nguyễn Văn Linh phê phán “đã phạm sai
lầm hữu khuynh rất nghiêm trọng về mặt tư tưởng lãnh đạo của Đảng”, cụ thể
như: Một là, coi thường vai trò tiền phong và lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Hai là, coi trọng vai trò của trí thức, sinh viên học sinh và tôn giáo, thậm
chí đưa “thành phần không có lập trường kiên định” lên vai trò xung kích. Ba là
xa rời “tư tưởng chiến lược” có tính kinh điển trong cách mạng giải phóng miền Nam:
“lấy nông thôn bao vây thành thị”, cũng có nghĩa là không triệt để chấp hành
đường lối cách mạng giải phóng miền Nam của Đảng”.
TBĐ phản bác: “Tôi nói thật lòng với các đồng
chí có mặt trong cuộc họp bất thường không theo nguyên tắc dân chủ này rằng:
mấy hôm nay tôi đã suy xét cặn kẽ những lời phê phán của đồng chí Mười Cúc, và
cuối cùng tôi khẳng định trên tinh thần khách quan là, tôi không phạm sai
lầm như những lời phê phán nặng mùi Bảo thủ Cực tả và Giáo điều chủ nghĩa của
đồng chí Mười Cúc! Tôi quyết bảo lưu ý kiến này”. Phát biểu xong, TBĐ tự động
bỏ cuộc họp trước khi hội nghị bế mạc. Sau đó, theo đề nghị của Nguyễn Văn
Linh, Thường vụ TWC quyết định hạ chức TBĐ từ Bí thư xuống Phó bí thư Thứ hai.
Nguyễn Văn Linh thay Đằng giữ chức Bí thư, Mai Chí Thọ -Phó bí thư thứ nhất.
Đến đầu năm 1972, TBĐ bị mất luôn chức Phó bí thư thứ hai, bị rút về TWC để
kiểm thảo tư tưởng hữu khuynh đã phạm trong thời gian lãnh đạo Đặc khu ủy T4.
(Hết phần trích dẫn bài của Lê Tùng Minh: TBĐ một người CS đa tài, nhưng bất
đắc chí cho đến khi nhắm mắt lìa đời)
Lúc Trần Bạch Đằng bị hạ bệ cũng là thời điểm
Thành phần Thứ ba ra đời. Đây là những trí thức có tinh thần dân tộc, mong muốn
hòa bình, nên họ chống TT Thiệu, không ưa Mỹ và dĩ nhiên không chấp nhận CS. Từ
khi HĐ Paris ra đời, HK chuẩn bị rút khỏi MN, họ muốn MN trung lập thì chế độ
tự do mới tồn tại. Lực lượng thứ ba càng phát triển mạnh qua các hoạt động hòa
giải hòa hợp dân tộc do một nhân sĩ Phật giáo cầm đầu -Giáo sư Vũ Văn Mẫu cựu
Ngoại trưởng, sau đó được sự ủng hộ của Luật sư Nguyễn Văn Huyền -một nhân sĩ
Công giáo cựu Chủ tịch Thượng Nghị Viện. Luật sư Trần Ngọc Liễng thành lập “Tổ
chức đòi thi hành HĐ Paris” được sự tán đồng của ông Triệu Quốc Mạnh, chánh
biện lý Sàigòn. Theo tinh thần HĐ Paris 1973, Hội đồng Quốc gia Hòa giải& Hòa
hợp Dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau: VNCH, Cộng hòa MNVN và Thành phần Thứ
ba sẽ đứng ra tổ chức cuộc tuyển cử tự do dân chủ để người dân thực hiện quyền
tự quyết của họ.
Ngày 21/4/1975 TT Thiệu từ chức. Hai hôm sau, TT
Ford tuyên bố cuộc chiến VN đối với Mỹ đã chấm dứt. TT Trần văn Hương cử Nguyễn
Xuân Phong Quốc Vụ Khanh đặc trách hòa đàm cùng Đại sứ Pháp Merillon đến Hà Nội
thảo luận việc thi hành HĐ Paris. Bắc Việt từ chối, họ chỉ thảo luận với cựu
Đại tướng Dương Văn Minh lãnh tụ Thành phần thứ ba. Quốc hội VNCH biểu quyết
đưa ông Minh làm tổng thống. Ông cử Phó TT Nguyễn Văn Huyền vào trại Davis trong
phi trường Tân Sơn Nhất gặp Đại diện CSBV. Họ cho biết thời gian thương thuyết
đã qua, VNCH phải đầu hàng. Ông Minh mời đại diện Chính phủ Lâm thời Cộng hòa
MNVN vào Sài Gòn để ông bàn giao chính quyền MN. Không một nhân vật MTGPMN nào
xuất hiện, chỉ thấy quân CSBV buộc ông phải đầu hàng vô điều kiện.
Ngày 30/4/1975 được ký giả nổi tiếng thân Cộng
là nhà văn Jean Larteguy ghi lại trong quyển “L’Adieu Saigon”: “Sàigòn
không được giải phóng. Nó bị một đạo quân xa lạ từ miền Bắc đến chiếm đóng. Sự
thật là thế. Chúng tôi 120 nhà báo ngoại quốc ở đây để chứng thật
điều ấy…Này anh bộ đội, anh đội mũ sắt từ pháo tháp của xe tăng ló đầu ra cũng
giống như bọn lái xe tăng Sô Viết trước đây tàn sát thường dân Tiệp khắc ở
Prague, giết công nhân nổi dậy ở Budepest, ở Berlin. Anh từ đâu tới? Từ Hànội,
từ Hànội…”
Bốn mươi năm sau ngày 30/4/2015, con ngựa gổ
thành Troie trở thành con ngựa “chứng” trở lại sân khấu, thủ vai chính trong
ván cờ chính trị. Đó là TT Nguyễn tấn Dũng, ông vừa được phiếu tín nhiệm cao
cao nhất của Ban Chấp hành TƯ Đảng, vì thế ông thay mặt Đảng đọc diễn văn chào
mừng ngày chiến thắng 30/4/1975.
Trong diễn văn, TT Nguyễn Tấn Dũng lập lại những
lập luận của Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc trong ngày mừng Chiến thắng 15/5/1975 tại
vườnTao Đàn Sàigòn như: “Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp chế độ thực dân kiểu
mới, biến miền Nam VN thành căn cứ quân sự của Mỹ. Chúng đã gây ra biết bao tội
ác dã man, biết bao đau thương mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta”.
“Đánh cho Mỹ cút ngụy nhào mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử”. “Chúng ta chân thành cảm ơn các nước XHCN, nhất là Liên Sô, Trung Quốc”…Nhưng
40 năm sau, tình thế đã đảo ngược. LS đã tan rã từ lâu. HK trở thành siêu cường
duy nhất. Còn TQ đã tấn công dạy cho CSVN một bài học vì vong ân bội nghĩa hồi
tháng 2/1979. Các nước XHCH Đông Âu cũng không còn. Chỉ có Cuba, Lào và
Campuchia gởi người đến tham dự. Cuba đang bình thường hóa bang giao với Mỹ.
Còn Lào và Campuchia thì “Tình đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương”
không còn nữa, hai nước này đứng về phía Bắc Kinh trong tranh chấp biển đảo
giữa VN và TQ.
Đối với HK, 10 năm sau biến cố 30/4/1975, Nguyễn
Cơ Thạch Uỷ viên Bộ chính trị, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao đã nhận xét:
Mỹ không muốn biến VN thành thuộc địa, Mỹ xâm lược VN để ngăn chặn sự bành
trướng của LS và TC. Còn Trần Bạch Đằng trong bài Tổng luận về MTGPMN xuất bản
năm 1992 đã viết: “Chế độ thực dân kiểu mới với tham vọng biến miền Nam VN
thành một tủ kính trưng bày sự phồn vinh và nền tự do kiểu Mỹ ở Đông Nam Á”.
Và mới đây ông Phạm
Đình Trọng cựu Đại tá Quân độ NDVN đã nhận xét: “Năm 1965, quân đội Mỹ đổ vào
Việt Nam…không có mục đích xâm lược, không đánh chiếm lãnh thổ mà chỉ làm trách
nhiệm của một đồng minh và làm trách nhiệm của một nước lớn bảo đảm một thế
giới ổn định, công bằng, bảo vệ những giá trị tự do, dân chủ của con người,
ngăn chặn thảm họa cộng sản đang như bệnh dịch nhấn chìm thế giới vào hận thù
đấu tranh giai cấp, vào bạo lực chuyên chính vô sản và nô dịch con người “.
Lập luận bêu xấu Mỹ của NTD làm vừa lòng giới
lãnh đạo CS lão thành các cựu chiến binh, nhưng sẽ tạo cho TBT Nguyễn Phú Trọng
vào tình huống khó xử trong chuyến đi Mỹ sắp tới. Giả sử, TT Obama đặt câu hỏi:
Mới đây TT Nguyễn Tấn Dũng vừa chữi Mỹ nay ông Tổng Bí thư đến đây ông còn lời
nào chữi Mỹ nữa hay không? Chả lẽ ông Trọng trả lời: NTD chữi Mỹ còn “Chúng
tôi biết thế nào là nước Mỹ, thế nào là nhân dân Mỹ và vai trò của Mỹ trên thế
giới như thế nào. Chúng tôi chủ trương phải có một giai đoạn mới, tốt hơn trong
quan hệ của chúng ta”. (Gorbachev trả lời tạp chí Time của Mỹ ngày
28/8/1985)
Còn đại thắng mùa Xuân 1975 thì CSVN đã thắng
ai? Họ chiến thắng những người miền Nam yêu chuộng hòa bình, hòa giải và hòa
hợp dân tộc, chiến thắng những lính MN đã buông súng và sau đó dứt điểm MTGPMN
một cách không thương tiếc. Kỹ sư Trương Như Tảng, Ủy viên TƯ/MTGPMN, Bộ trưởng
Tư pháp Cộng hòa MNVN đã bày tỏ sự bất mãn khi CS chiến thắng MN: “Hàng trăm
ngàn người của quân đội và chính phủ Sàigòn đã bị bắt giam vào các trại cải
tạo. Hàng triệu thường dân đang sinh sống ở Sàigòn và nhiều nơi khác tại miền
Nam VN bị cưỡng bức phải bỏ nhà cửa, tài sản, để đi về các vùng kinh tế mới xa
xôi hẻo lánh, một quyền lực sắt thép bao trùm khắp nước VN”.
Về MTGPMN, Tảng chua chát cho biết thêm “lúc
thắng trận cũng là lúc Cộng sản bắt đầu loại bỏ MTGPMN. Trong buổi tiệc đơn sơ
được tổ chức vào năm 1977 để chính thức giải thể MTGPMN, đảng CS và chính quyền
Hà Nội không thèm cử đại diện đến tham dự. Đó là một cử chỉ miệt thị xem thường
những quy tắc về chủ nghĩa quốc gia mà những ngườ Việt “thân” Cộng đã hết lòng
tôn sùng, một chủ nghĩa mà các quốc gia trong cộng đồng Thế giới Tự do đã dốc
hết lòng vả bằng mọi giá để giữ lấy nó”.
Ngày 30/4/1975, ông Võ Văn Kiệt nói: “Có triệu
người vui, có triệu người buồn”. Ngày nay, triệu người buồn vẫn buồn, còn triệu
người vui có lẽ không thể nào vui được nữa mà còn xấu hổ.
Câu nói của HCM “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết”; “thành công, thành công, đại thành công” chính là khẩu hiệu của Quốc tế
CS: “Vô sản các nước đoàn kết lại”; chớ không phải đoàn kết với dân tộc
vì mục tiêu của CS là giai cấp đấu tranh là hận thù dân tộc. Sau đại thắng mùa
Xuân 1975, thế giới chứng kiến “Vô sản các nước đánh nhau”, đưa QTCS đến chỗ
tan rã. Câu nói của HCM, đối với Quốc tế CS đã đổi lại: “Chia rẽ, chia rẽ, đại
chia rẽ” và “Thất bại, thất bại, đại thất bại”. Còn đối với dân tộc thì qua cải
cách ruộng đất ở miền Bắc, thảm sát hồi Tết Mậu Thân ở Huế và đày ải cướp của
nhân dân miền Nam sau 1975, câu nói của ông Hồ nên đổi lại “Hận thù, hận thù,
đại hận thù” và “Thức tỉnh, thức tỉnh, đại thức tỉnh”
Hội nghị TƯ 10 đã xác nhận vai trò lãnh đạo của
NTD và khẳng định “lấy dân là gốc” và quyền lợi quốc gia dân tộc là tối thượng.
Bốn mươi năm trước, diễn văn mừng đại thắng của Tổng bí thư Lê Duẩn là để Tổng
kết chặng đường thắng lợi của Đảng CSVN trong Đại hội IV tháng 12/1976. Còn
diễn văn chào mừng đại thắng của TT Nguyễn Tấn Dũng ngày nay là Tổng kết chặng
đường thất bại để Kết thúc vai trò lịch sử của Đảng CSVN. Công việc kế tiếp của
thủ tướng là đưa Dự Luật Trưng Cầu Ý Dân đến các đại biểu Quốc hội thảo luận và
biểu quyết trong kỳ họp Quốc hội thứ 9 khai mạc vào ngày 20/5 tới đây. Rồi đây
người dân sẽ trực tiếp quyết định việc thay đổi thể chế mà TT Nguyễn Tấn Dũng
đề cập từ đầu năm 2014.
Lê
Quế Lâm
(Sydney 08/5/2
__._,_.___