On Saturday, May 2, 2015 12:22
AM, Uyen Vu wrote:
Khi thiên triều sụp đổ thì đám
"đầy tớ" cũng tan hàng.
Chắc chắn ngày này
có thể đếm từng ngày không khác một người già đã ở mấp mé tuổi 100 lại còn mang bịnh trong người.
UV
To:
Khi
thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang
- Nguyễn
Gia Kiểng
Theo Ê Thông Luận
“…Tập Cận Bình thừa kế
một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối thập niên 1980.
Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết, Tập Cận Bình trái
lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn…”
Khi
nhận định về Trung Quốc các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là
Trung Quốc là một thế giới hay một đế quốc - hay một thiên hạ theo cách nói của
người Trung Quốc- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự
đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Quốc vốn sẵn
có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che
giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản
mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.
Cho đến nay thực trạng Trung Quốc đã được che
đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục
khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của
Trung Quốc.
Kinh tế Trung Quốc hết thuốc chữa
Hãy
nói ngay về lớp vải điều đó. Trong gần ba thập niên Trung Quốc đã gây kinh ngạc
cho thế giới vì tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ này được hạ xuống
8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính thức của Trung Quốc dĩ
nhiên là không chính xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Quốc đã
tràn ngập các thị trường thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các
cao ốc đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản Trung Quốc đầu tư vào mọi quốc gia, từ
Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam, Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung
Quốc tỏa rộng. Có những dự đoán theo đó Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ trong một
tương lai gần.
Nhưng rồi bắt đầu có những ngờ vực. Năm 2001 có
cuốn sách The Comming Collapse of China (Sự sụp đổ sắp tới của Trung Quốc) gây
được tiếng vang lớn. Bạn bè đã tóm lược cho tôi cuốn sách này ; nó sai vì phạm
một trong hai sai lầm cơ bản đã được nói ở đầu bài này nghĩa là lý luận về
Trung Quốc như một quốc gia. Dần dần quan điểm của các quan sát viên về Trung
Quốc thay đổi hẳn. Mới đầu người ta tự hỏi liệu Trung Quốc có thể lâm vào khủng
hoảng không ? Rồi Trung Quốc sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào ? Và bây giờ câu
hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ còn che đậy được tình trạng suy thoái bao lâu nữa
và lúc đó tương lai Trung Quốc sẽ ra sao ?
Tất
cả những đèn báo động đều đã đỏ rực. Nợ công của Trung Quốc được ước lượng bởi
mọi định chế thẩm định (rating agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một
cách nghiêm trọng. Nhưng con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì
không bao gồm những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong
xã hội Trung Quốc. Thí dụ như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà nước
lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lãi suất ưu đãi rồi cho các công ty
nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lãi suất cao, hay phần lớn các chính quyền địa
phương không khai đúng số nợ.
Kinh
tế Trung Quốc dựa trên xuất khẩu nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng
hoảng 2008. Trong năm 2014 vừa qua, ngoại thương Trung Quốc đã sụt 11% (xuất
khẩu giảm 3,3%, nhập khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn
là 7,3%. Nhưng làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể
tăng trưởng 7,3 % trong khi ngoại thương suy sụp ?
Công ty tham vấn Lombard
Street Research của Anh, vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền Trung Quốc
nhưng tính lại một cách nghiêm chỉnh hơn, cho biết tỷ lệ tăng trưởng của Trung
Quốc năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn này cũng
không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các công ty sản xuất rồi
bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào sản xuất, và khi sản phẩm đã
hư hỏng cũng không khai v.v.
Một chỉ số đo lường lòng
tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán. Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán
SSE của Trung Quốc lên tới cao điểm 6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu
2008 làm tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày nay
hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục hồi được mức độ của năm 2007,
các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức 2007, nhưng chỉ số SSE của Trung
Quốc vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000.
Lòng tin vào tương lai của kinh tế Trung Quốc
còn thể hiện qua một con số khác. Kết quả của một cuộc thăm dò của Hurun
Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David Shambaugh nhắc lại
trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia Trung Quốc đã hoặc đang chuẩn
bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Quốc đang tháo chạy. Một hiện tượng
khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền Mỹ đang theo dõi sự kiện rất nhiều
phụ nữ Trung Quốc giầu có sang Mỹ sinh đẻ để con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lai
Trung Quốc tươi sáng tại sao những người được ưu đãi nhất lại bỏ đi ?
Trong mọi tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài
các doanh nhân Trung Quốc không còn giấu giếm nữa. Họ nói thẳng là họ đang sản
xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải sản xuất theo kế hoạch.
Nhưng kế hoạch nào ? Từ năm 2008 trong khi mọi
quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng thì Trung Quốc đã có một
chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và bơm tiền ồ ạt vào sinh
hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành xây dựng để giữ nguyên mức độ
tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các
công ty đầy ứ và rất nhiều thành phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng
hoảng càng che giấu lâu bao nhiêu thì càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây giờ
nó không còn giải pháp.
Năm 2013 khi mới lên cầm quyền, Tập Cận Bình ra
lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng.
Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp này -đúng trên nguyên tắc- trước nguy
cơ sụp đổ tức khắc ; không những thế, chính quyền Bắc Kinh còn phải bơm tiền
nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty. Sự kiện này chứng tỏ kinh tế Trung
Quốc không có thuốc chữa, sự sụp đổ chỉ còn là một vấn đề thời gian. Thời gian
đó có thể rất gần vì ngay cả biện pháp bơm tiền cũng không còn hiệu quả nhất
thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền mà không được, hiện nay
đại đa số các công ty từ chối vay vì không biết dùng tiền để làm gì.
Một sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế Trung
Quốc không cứu vãn được. Giải pháp tự nhiên khi mô hình hướng ngoại không còn
theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó là điều Trung Quốc đã
làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế Trung Quốc nguy ngập hơn. Từ năm 2010, Trung
Quốc đã liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều
hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa không hề gia tăng vì người công nhân Trung Quốc
chỉ dùng khoản lợi tức mới có để tiết kiệm, phòng hờ khi đau ốm. Tuy vậy biện
pháp tăng lương công nhân này đã có tác dụng làm tăng giá thành và khiến hàng
hóa Trung Quốc khó bán trên các thị trường thế giới. Sự sút giảm của xuất khẩu
cũng do nguyên nhân này. Trung Quốc hiện đã mất gần hết các thị trường tại Châu
Âu.
Chừng nào kinh tế Trung Quốc sẽ thực sự sụp đổ ?
Câu trả lời là : khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng họ có sẽ thú nhận
không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung Quốc "có sụp cũng còn
lâu" chủ yếu là ở chỗ Trung Quốc vẫn còn khoảng 2.000 tỷ USD công khố
phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ Euros công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù số tiền này chẳng
là bao so với số nợ công của Trung Quốc -ít nhất 30.000 tỷ USD- nhưng nó đem
lại ảo tưởng là Trung Quốc vẫn còn giầu có vì vẫn còn tiền cho Mỹ và Châu Âu
vay. Bắc Kinh sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng là họ sẽ
tiếp tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển nhiên đối
với mọi người.
Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt
Nhưng kinh tế suy thoái không phải mối nguy lớn
nhất của Trung Quốc. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không khí tại các tỉnh
phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn thở được nữa ; nước vừa rất thiếu vừa nhiễm
độc.
Một nghiên cứu phối hợp của bốn trường đại học
MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Thanh Hoa
(Trung Quốc) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh khủng : tuổi thọ
trung bình của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía Bắc đã giảm 5 năm rưỡi
trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi trường ô nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay
từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên báo China Daily, tờ báo tiếng Anh của chính
quyền Trung Quốc, một nghiên cứu theo đó gần một nửa số sông của Trung Quốc đã
hết nước.
Tháng 3/2013, một nghiên cứu công phu -từ năm
2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và Viện Quốc Gia Thống Kê của chính quyền
Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ : Trung Quốc chỉ còn
22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã biến mất. Mỗi con sông còn lại phải
đem nước cho một diện tích khoảng 100 km vuông.
Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến
2012 tình trạng thiếu nước đã xấu đi nhiều thay vì được cải thiện. Nghiên cứu
này cũng cho thấy có 400 thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ lòng đất lên. Kết
luận của nghiên cứu này là thay vì gia tăng cung cấp nước từ nay chính sách
quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân chúng tiết kiệm nước.
Tình trạng xuống cấp nguy ngập của môi trường
chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do chính sách tăng trưởng
kinh tế hoang dại bất chấp môi trường. Cần lưu ý là bảo vệ thiên nhiên không
phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam truyền thống, trái lại người ta
ca tụng những anh hùng có chí lớn "sẻ núi lấp sông". Nó cũng hoàn
toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.
Vài năm trước tôi đọc một bài phóng sự trên báo
Le Monde nói về một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang, nghĩa là dòng
sông giận dữ, chảy từ Trung Quốc sang Myanmar. Lý do khiến người ta đặt tên như
vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày nay con sông này còn có một lý do
chính đáng khác để nổi giận : nó trở thành nơi đổ rác chính thức của các thị xã
chung quanh. Chính quyền địa phương xây rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của
các thị xã có thể đổ rác xuống sông một cách an toàn. Mỗi ngày hàng trăm tấn
rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở thành một vấn đề của
Myanmar.
Một xe đổ rác của sở rác thị xã đang đổ rác
suống sông Nộ Giang
Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi không nhìn thấy mặt
trời dù biết nó ở ngay trên đầu mình vì đang giữa trưa và trời rất nóng. Không
khí đục ngầu vì khói từ các nhà máy không xử lý khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn
viên từ bao lâu rồi anh không còn nhìn thấy mặt trời nữa. Anh ta không nhớ.
bautroi_hoabac
Bầu trời Hoa Bắc
Bầu trời Hoa Bắc
Năm 2000 lượng nước trung bình của mỗi người
Trung Quốc chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Bây giờ tình trạng còn bi đát
hơn nhiều. Tại các tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu xuống 30m mới tìm được
nguồn nước, bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng như bê tông. Đó là hậu
quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean. Một đất nước trước hết là đất
và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí và nước đã ô nhiễm đến nỗi không thở
được và uống được thì cũng chẳng còn gì để nói. Đất nước Trung Quốc đang bị hủy
diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều người muốn rời Trung Quốc bằng mọi giá.
Họ sợ chết.
Một chế độ tuyệt vọng
Mối nguy nghiêm trọng thứ hai, cũng nghiêm trọng
hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị. Các quan sát viên theo
dõi tình hình Trung Quốc đều đồng ý rằng đàng sau chiến dịch chống tham nhũng
của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung quyền hành về trung ương và về tay ông.
Tham nhũng chỉ là lý cớ. Chính Tập Cận Bình cũng
tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản trị giá trên 200 triệu
USD ? Không khác gì thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ ra rất quan tâm đến dân
nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của
Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh
tay chờ bị thanh toán. Chủ nghĩa Mác-Lenin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi
măng gắn bó 85 triệu đảng viên cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại sự tranh
giành quyền lực và quyền lợi.
Các tỉnh cũng không thể chịu đựng mãi ách thống
trị của trục Bắc Kinh - Thượng Hải và sự chênh lệch giữa các vùng. Chưa kể là
với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước một cuộc chiến tranh giành nước tương tự
như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế đã có xung đột giữa các tỉnh,
thậm chí giữa các huyện trong cùng một tỉnh, để tranh giành những con sông vừa
cạn vừa ô nhiễm.
Cần nhắc lại để nhấn mạnh rằng, Trung Quốc là
một thiên hạ chứ không phải là một nước, lòng yêu nước đối với một người Trung
Quốc chủ yếu là một tình cảm địa phương. Không cứ gì các sắc dân thiểu số, tuy
cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở Côn Minh hoàn toàn không nhìn
những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các
tỉnh Trung Quốc còn lỏng lẻo hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu,
đôi khi còn mang những thù hận chưa được hóa giải của quá khứ.
Trong suốt dòng lịch sử dài của nó, sự thống
nhất của Trung Quốc đã chỉ được duy trì bằng bạo lực và tàn sát. Thí dụ như
giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú Toàn nhà Thanh đã tàn
sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và 90% dân chúng tỉnh
Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung Quốc hầu như không có. Chính vì thế
mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến như Mông Cổ và Mãn Châu đã có thể thiết lập
những ách thống trị lâu dài. Các triều đại Nguyên, Thanh sau cùng đã cáo chung
vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là những ách thống trị ngoại bang.
Bế tắc chính trị của chế độ cộng sản Trung Quốc
cũng đã chứng tỏ không có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền Hồ Cẩm Đào đã muốn
nới lỏng dần dần những quyền con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về
dân chủ trong trật tự nhưng trong những năm cuối, nhất là từ năm 2011 trở đi,
ông đã phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn áp. Năm 2013 Tập Cận Bình lên
cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ chối cải tổ chính trị, tăng cường độc
quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong
đảng. Tập Cận Bình thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev cuối
thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi cần thiết nhưng
ít ra cũng đã tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái
lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.
Nhưng việc phải làm đó là gì ? Đó chính là sự
chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và truyền thông đã
thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế trong ba thập niên
qua cũng đã cho người Trung Quốc thêm sức mạnh. Họ đã hiểu rằng con người phải có
những quyền căn bản, họ muốn và ngày càng có thêm khả năng để đòi hỏi những
quyền đó.
Nhưng vấn đề là Trung Quốc không thể tồn tại với
lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ vì các vùng của Trung Quốc
quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai chung. Vấn đề cũng là
chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với nhau, đã trở thành ghê tởm.
Trên trang Web www.ninecommentaries.com do phong trào Thoái Đảng thiết lập từ tháng 11/2014 hàng
ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Số người
ly khai hiện đã lên quá 200 triệu.
Lịch sử Trung Quốc nói chung là sự lặp lại của
cùng một kịch bản, một kịch bản chưa thay đổi vì thể chế chính trị vẫn còn là
một thể chế tập trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau : một chính quyền được
dựng lên trong hoàn cảnh xã hội tan hoang và kiệt quệ ; chính quyền thành công
trong những năm đầu và xã hội dần dần hồi sinh ; xã hội càng hồi sinh thì nhu
cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền càng cần tăng cường bộ máy cai trị ; bộ
máy quan liêu vì thế tiếp tục phình ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền lực
chính trị ; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần và tích lũy mâu thuẫn,
cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc xung đột làm xã hội suy
kiệt ; và kịch bản bắt đầu lại từ số không. Kịch bản này hiện đã tới màn cuối
dưới chế độ cộng sản. Tập Cận Bình đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện
của một lực lượng mới.
Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là "nhất
quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lập", ông ta chỉ nhắc lại một
ám ảnh của quan thầy Bắc Kinh.
Phải lo ngại cái gì ?
Chế độ cộng sản Trung Quốc còn trụ được bao lâu
nữa ?
Như đã nói ở đầu bài này, đừng nên quên rằng
Trung Quốc không phải là một quốc gia mà là một thế giới, một thiên hạ hay một
đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không nhanh chóng như trong
một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như sự tàn lụi của một đế quốc.
Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói chung và của Trung Quốc nói riêng
thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới thay
đổi dồn dập. Các diễn biến có thể nhanh hơn rất nhiều.
Càng nhanh hơn vì một lý do khác. Chế độ cộng
sản Trung Quốc tồn tại từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn dựa trên hai hợp đồng
bất thành văn miễn cưỡng.
Hợp đồng thứ nhất là nhân dân chịu đựng chế độ
toàn trị, và cả sự tàn phá của môi trường, với điều kiện là Đảng Cộng Sản duy
trì được một mức tăng trưởng kinh tế cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra đã hiểu thỏa hiệp
này khi ông nói rằng nếu mức tăng trưởng xuống dưới 8% thì sẽ có bạo loạn. Hợp
đồng này ngày nay đã chấm dứt vì kinh tế suy thoái.
Hợp đồng thứ hai là quần chúng Trung Quốc chịu
đựng bất công xã hội để cho một thiểu số làm giầu với thỏa hiệp ngầm là như thế
họ sẽ có thêm vốn để gia tăng đầu tư thúc đẩy kinh tế. Hợp đồng này đã bị phản
bội khi những người giầu có bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản. Sự phẫn nộ có
thể bùng nổ rất dữ dội.
Có cần lo sợ sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự
tan vỡ gần như chắc chắn của Trung Quốc không ? Mối nguy thường được nói tới là
chính quyền Bắc Kinh có thể gây hấn với bên ngoài để kêu gọi đoàn kết dân tộc
và làm dịu những mâu thuẫn bên trong. Nhiều người đang lo âu trước việc Trung
Quốc xây những phi trường trên những đảo nhân tạo tại Biển Đông. Nhưng sự lo
ngại này không cần có. Nó là do cách nhìn Trung Quốc như một quốc gia thay vì
một đế quốc.
Thực tế cho thấy các đế quốc chỉ gây hấn trong
những giai đoạn cường thịnh, trái lại rất nhu nhược đối với bên ngoài trong
những giai đoạn cuối trào, để dồn sức đương đầu với những khó khăn bên trong.
Trung Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Trong những lúc suy vi, các hoàng đế
Trung Quốc không những không xâm chiếm các biên quốc mà còn phải cống hiến
những quý phi, có khi cả những công chúa, cho các vua các nước nhỏ chung quanh
để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ chỉ là một trong rất nhiều thí dụ. Việt
Nam và thế giới sẽ không phải lo ngại một sự gây hấn nào.
Cũng không cần lo ngại cho người Trung Quốc.
Trung Quốc có phân chia thành bốn hay năm nước thì đó cũng vẫn là những nước
lớn bậc nhất thế giới, nhưng đồng điệu hơn và hợp lý hơn Trung Quốc hiện nay.
Điều mà chúng ta có thể chúc cho người Trung Quốc là những thay đổi cần thiết
sẽ diễn ra trong hòa bình.
Thiên triều sụp đổ
Câu hỏi bao giờ chế độ cộng sản Trung Quốc sẽ
sụp đổ không đặt ra, hoặc đặt ra một cách rất khác, đối với chế độ cộng sản Việt
Nam. Đối với một chư hầu, một đế quốc coi như đã sụp đổ khi không còn là một
chỗ dựa nữa.
Đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam, chế độ cộng sản
Trung Quốc coi như đã sụp đổ. Nó đang quá bối rối với những khó khăn nội bộ để
có thể hỗ trợ cho chế độ cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh lo cho mình cũng chưa xong
còn mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam và Triều Tiên dù không muốn
như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu trước đây. Nhưng chế độ cộng sản Việt
Nam lại rất cần bám lấy Trung Quốc.
Trong cuộc tiếp xúc ngày 26/6/2014 tại Sài Gòn,
ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không cải chính lời phát biểu của chuẩn đô
đốc Lê Kế Lâm, theo đó Trung Quốc thỏa thuận viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ USD và
cho vay 100 tỷ USD. Chế độ cộng sản Việt Nam rất cần yểm trợ tài chính này bởi
vì do hậu quả của bất tài và tham nhũng kinh tế Việt Nam thực ra đang ở trong
tình trạng phá sản.
Theo phát biểu của chính ông Trương Tấn Sang
tháng 11/2014 tại quốc hội thì tình trạng kinh tế Việt Nam "rất không
thoải mái". Ba phần tư số thu ngân sách (khoảng 30 tỷ USD năm 2014, giảm
nhiều so với năm 2013) được dùng để trả lương, phần còn lại không đủ để trả nợ.
Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.
Một
điều cần được nhìn thật rõ là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ là một đảng
tự lập. Nó luôn luôn dựa vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra đời như một phân
bộ của Đệ Tam Quốc Tế, nó đã tranh đấu, rồi cầm quyền, với sự bảo trợ của Liên
Xô hoặc Trung Quốc, hoặc cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Giữa thập niên 1980 khi
Liên Xô suy yếu và không còn bảo trợ được nữa, nó đã vội vã bỏ ngay lập trường
thù địch để xin được phục tùng Trung Quốc. Trái với một nhận định hời hợt không
phải Bắc Kinh cố thu phục Hà Nội mà chính Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để
được lệ thuộc Trung Quốc.
Trong mấy năm gần đây khi Liên Bang Nga có vẻ mạnh
lên ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga.
Văn hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một văn hóa chư hầu.
Tất
cả những tính toán và kỳ vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước Nga của
Putin đã bại sụi sau cuộc phiêu lưu Ukraine. Đến lượt Trung Quốc cũng chao đảo
và sắp sụp đổ. Rất có thể là chính Bắc Kinh đã nói với Hà Nội là hãy tìm những
nguồn hỗ trợ khác vì họ không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có thể giải
thích những chuyến công du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt
Nam gần đây, kể cả chuyến đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những
chuyến thăm viếng này đều do sáng kiến của Hà Nội.
Lịch
sử không phải chỉ sắp sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt Nam đều
phải sáng suốt để tránh những ngộ nhận tai hại. Những thành viên bộ chính trị
và ban bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể thù ghét nhau vì tranh giành quyền
lực và quyền lợi, nhưng họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào Trung
Quốc để duy trì chế độ độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều
đồng ý rằng "đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng" và tất
cả đều đồng ý chẳng thà mất nước chứ không mất đảng. Không có một ngoại lệ nào
cả.
Nhưng
bây giờ họ không còn chọn lựa nào khác là đi với Mỹ ("Mỹ" phải được
hiểu là các nước dân chủ) vì họ không dựa vào Trung Quốc được nữa. Chiến lược
của họ trong lúc này chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của chế độ và làm mất
thêm thời giờ của nước ta trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất
quá nhiều thời giờ và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ
nhận nào cả.
Mọi
ưu tư của chúng ta phải dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ nguyên dân chủ
một cách nhanh chóng nhất trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc để chúng
ta có thể lập tức cùng nắm tay nhau chinh phục tương lai.
--
For more options, visit https://groups.google.com/d/optout.
For more options, visit https://groups.google.com/d/optout.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment