“Tôi nghĩ rằng sau chiến tranh, Việt Nam không
có ngược đãi đối với mọi người. Bởi vì chính sách lúc ấy của nhà nước Việt Nam
là chính sách hòa hợp dân tộc. […]Thế còn việc tập trung học tập hay cải tạo,
tôi nghĩ đấy là để học cho nó rõ chính sách của nhà nước Việt Nam thời bấy giờ.
[…] Chứ không có nghĩa là một chế độ tù đày”
Tiến sĩ Vũ Quang Hiển, phó giáo sư, sử gia của Đại học Quốc gia Hà
Nội .
Tôi đi thăm chồng "cải tạo"
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là "các ông
cải tạo" như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt
với những người tù hình sự. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù
Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi
tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là "tấm bằng tù cải tạo" của các ông để
chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định….
Minh Hòa -Virginia
2015-04-29
2015-04-29
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến
của Bạn
- Email
Tác giả Minh Hòa chụp tại Virginia năm 2012
Ảnh do tác giả gửi RFA
Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là
sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh
thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.
Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng Thầy
Mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ
sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình
như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm,
nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình.
Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai
đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền
lòng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của
song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng
tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như
đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà lạt yêu
dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành
trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến,
tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để
làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra
sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến.
Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu
nướng.
Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn
trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới. Mùng sáu tết
Tân Hợi 1971, Sư đòan Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng
bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không
cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong giòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong
căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa. .. Thư anh từ
mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những
tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ
chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn
nguyện. Bà cụ bảo tôi "phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự
thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm"… Tôi càng hoang mang, thảng
thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má
tôi trên Đà lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ
Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.
Tác giả Minh Hòa chụp cùng chồng năm 1971 tại Dalat.
Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước
ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không
giấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh
thiêng…
Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong
các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp,
Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái
ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi.
Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng
đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh
mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt
như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các
anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận
lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió
vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần
sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và
những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin
kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều
theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau
quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người
lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai
năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần
nhau không có mấy.
Rồi mùa hè đỏ lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập
đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu
chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng
ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về
được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị. .. Rồi anh lại bị thương ở
cửa ngõ Cổ thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng y viên Cộng Hòa. Trên đướng
tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân.
Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương
cái con người chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của
anh là trở thành một tướng Patton của Việt Nam, "Rồi nước mình sẽ phải tự
chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay
đổi. Anh sẽ làm Tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết
giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng
Lào ăn nhằm gì… Hà hà" Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên
tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh
về phép hành quân…
Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi
và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây
Nam Huế...
Tháng tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử
chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505. Tàu ghé
Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm Thầy
Mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi
yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại
sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, "bọn
nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một
cái Mậu thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là
thường, còn trận cuối này là xong." Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng
rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến
tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở
lại. Vợ chồng sống chêt có nhau...
Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều thất bại não
nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu cháu thứ
nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi.
Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em,
anh ơi??? …
Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505
đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ
Đà lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán
của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của
cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dấn vốn ra
mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch
biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi
con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về
từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến
nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi
hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về... Bao nhiêu nỗi khổ
đau dồn nén đôt nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ
coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ
con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.
Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi.
Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người
xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó
là "tấm bằng tù cải tạo" của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao
gửi vào một nơi bất định…. Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã
là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn
người lường lọc, bướm ong, hèn hạ ... Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh
cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc,
làm móng tay … nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những
con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi đồng
lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…
Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba
mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi
quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi….
Anh từ miền cực bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin
được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm
năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại
nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu
Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả
hai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã.
Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng
vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người đã đi về kể rằng cứ
sơ ý là bị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi
chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài
sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe
tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt
theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã
giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm
người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng
rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ
vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay . Cô Út thiệt giỏi,
xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.
Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu
đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng
hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây
số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống
bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại
từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các
anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say
sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh
chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo
mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không
được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc
hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết
điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà chọi sắp
tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi
điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà
cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh
Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm
mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn
cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt,
không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa
bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng
dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công
an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không
còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay.
Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn
hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn
không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh
đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt công an. Anh dìu
tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế
băng.
Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng
sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà
ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con
đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã
tự nguyện đi khai hoang rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi
sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi
hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của Thầy Mẹ
chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà
xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:
- Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt
giận hờn.
Tôi cúi mặt giận dỗi:
- Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng
được …
Tôi lại khóc, hai tay nắm
'Bé Dung' với chồng và hai con, 08-2014
chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết
người nọ đến người kia, lên tiếng:
- Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao đông tốt thì anh
ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì
cứ…. Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:
- Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng tiến bộ như vậy hết,
em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách Nhà nước ra
sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học
theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh
gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại
tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu.
Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt
anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần
cha trong giây lát nữa thôi.
Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi
nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất
định đợi anh mà.. anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức
khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng
lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nuớc mắt. Cô công an lúng túng đứng
dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người
nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ
chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp
tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một
câu:
-Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe,
cám ơn em … đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…
Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha,
cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc . Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh
chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc.
Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít
một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người mất hồn.
Các chị bạn cũng chẳng hơn gì
. Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải
đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam
Phát.
Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như
muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ
hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ
dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị
cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho
chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc dường mua được mấy cây mía, tôi
róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt
ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ
xuống dần.
Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền
đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự
nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay
quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy,
không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống,
rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì
trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở
đó đón xe đò ra Thanh Hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy
người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô
Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng
thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng
lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại.
Chúng tôi xúm lại hứa
trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi
với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay
bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn
xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộ đội tử tế, không lấy
tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi mời mãi. Ra đến Thanh hóa là hai giờ
sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không
kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.
Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về.
Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị
đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu
với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà "vợ tù cải tạo" gọi là… Hotel
California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là "các ông
cải tạo" như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt
với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà
người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho
vì mục đích chính trị sâu xa.
'Cu Bi' và cha mẹ, ngày cưới vợ, 04-2009
Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình
người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt,
người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu,
hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh
đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị
thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho
bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà.
Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:
- Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên
cho chồng đi sang Mỹ đi chứ … Hà hà..
Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ
thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy
nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment