Những ai đã sống vào
thời tổng thống Ngô Đình Diệm đều nhớ rằng ông Diệm xây dựng ấp chiến
lược theo cách thức của một tướng người Anh Stewart (?) sau khi ông tướng này
thành công trong việc tách rời du kích cộng sản với dân lành ở Mã Lai và đã
tiêu diệt hết du kích cộng sản.
Sau khi giết anh em
ông Diệm, tên Việt gian Dương Văn Minh tức thì phá bỏ ấp chiến lược để cộng
sản dẽ hoạt động, đưa đến việc mất miền Nam.
Ấp ChiếnLược
Của Thời Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Hòa
Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
Khi nói đến Ấp Chiến Lược, thì chỉ
những người đã từng sống ở trong các vòng đai của Ấp Chiến Lược vào thời kỳ
đầu của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa; NHƯNG,
phải có một lương tâm trong sáng, một tấm lòng chân thành, thì họ mới viết
lại những gì mà họ đã chứng kiến một cách trung thực.
Vậy, để lớp trẻ sau này, còn biết
đến một công trình của người đi trước đã dày công xây dựng; bởi vậy, nên
người viết xin phép tác giả Nguyễn Đức Cung để được trích đoạn trong bài:
Xây dựng ấp chiến lược
Bộ sưu tập tem Ấp Chiến Lược phát hành ngày
26/10/1962
"Từ Ấp Chiến Lược
đến biến cố Tết Mậu Thân, những hệ lụy trong chiến tranh Việt Nam"
như sau:
1.2.
Khu trù mật và Ấp chiến lược.
Trước
khi nói đến các cơ cấu trên đây, thiết tưởng cần nhắc đến chính sách Dinh
Diền được tổ chức trước đó để thấy rằng các nhà lãnh đạo của nền Đệ Nhất Cộng
hòa đã có một cái nhìn xuyên suốt trong Chính Sách An Dân của mình.
Ngày
17.9.1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký nghị định số 928-NV thành lập Phủ Tổng
Ủy Di Cư Tị Nạn, ngang hàng với một bộ trong Nội các, do ông Ngô Ngọc Đối làm
Tổng Ủy Trưởng. Bên cạnh đó, vì số người Công Giáo di cư gần khoảng 70% trên
tổng số tị nạn nên có một tổ chức cứu trợ tư nhân với tên Ủy Ban Hỗ Trợ Định
Cư do Giám mục Phạm Ngọc Chi điều khiển. Tổng số dân rời bỏ miền Bắc để vào miền
Nam là 875, 478 người và họ được đưa đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang, sau
đó đi định cư các nơi khác tùy ý họ lựa chọn.
Nói
chung đối với hầu hết các cơ chế được tổ chức dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa và
một khi đã bị giải thể, hay bị chính quyền kế tiếp coi như là một thứ con ghẻ
không hề lưu tâm tới (trong thời Đệ nhị Cộng Hòa) tất nhiên sự kiện đó đã góp
thêm rất nhiều yếu tố thuận lợi cho biến cố Tết Mậu Thân, mà rõ ràng nhất là
hệ thống khu trù mật và ấp chiến lược được tổ chức và nâng lên thành quốc
sách dưới thời Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Ngày
nay ai cũng biết hệ thống tổ chức Khu trù mật và Ấp chiến lược là sáng kiến
rất đỗi lợi hại của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nhờ
đó mà bọn du kích Cộng Sản đã một thời khốn đốn không hoạt động được gì hữu
hiệu. Thật ra việc gom dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền
nhân trong lúc đất nước có chiến tranh. Người có sáng kiến tiên khởi về ấp chiến
lược có lẽ phải kể đến Tỉnh Man Tiểu Phủ Sứ Nguyễn Tấn (1820-1871), tỉnh Quảng
Ngãi. Năm 1863, Nguyễn Tấn đã áp dụng kế sách đó trong việc đánh dẹp người Mọi
Đá Vách, Quảng Ngãi. Một sử liệu của Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, đã ghi lại
như sau:
"Mới
đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tỉnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến
sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì
cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư. Lấy người
hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thứ án sát Thái Nguyên, khi
ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin
về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần
cấp hơn, bèn y cho.
Đến đây, chuẩn cho thăng hàm thị độc sung lãnh chức ấy, cấp
cho ấn quan phòng bằng ngà. Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ
dân cần làm những việc khẩn cấp trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân
ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn
đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho
bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thiếu cho. Còn 1, 2 nhà
nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà
dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm
nhà để ở. Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì
bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo (ít dân), thì phái quân đến phòng giữ,
ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thử sức dân." [9]
Thành
phố đổ nát
Cách
đây hơn nửa thế kỷ, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc sách
được ban hành như Khu trù mật và Ấp chiến lược, nhằm giải quyết cho công cuộc
định cư của gần một triệu đồng bào từ bắc di cư vào Nam, và sau đó, để đối
phó với chính sách khủng bố của du kích Cộng sản tái hoạt động ở các vùng
nông thôn miền Nam.
Trong
cuốn sách Chính sách cải cách ruộng đất Việt-Nam (1954-1994), tác giả Lâm
Thanh Liêm đã viết về Khu trù mật như sau: "Khu Trù Mật là một cộng đồng
nông nghiệp được chính quyền thành lập và gom thôn dân vào đấy sinh sống vì ở
trong những thôn xóm hẻo lánh, xa cách các trục giao thông, do đó, chính phủ
không thể kiểm soát được. Trước sự đe dọa của chiến tranh xâm lược Miền Bắc, Tổng
Thống Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật,
để tiện bề kiểm soát họ, đồng thời cô lập họ với "Việt Cộng", giống
như cá thiếu nước không thể sống tồn tại được. Mỗi Khu Trù Mật có khoảng
3.000 đến 3.500 dân, có hạ tằng cơ sở giống tựa như trường hợp của một thành
phố:
*
Một khu thương nghiệp (với một ngôi chợ xây cất bằng gạch và tiệm buôn bán).
*
Một khu hành chánh (có một chi nhánh bưu điện), xã hội (một Bảo sanh viện,
một nhà trẻ) và văn hóa (các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng
thông tin, nhà thờ và chùa chiền).
Các
Khu Trù Mật được điện khí hóa. Vị trí của chúng được chọn lựa kỹ lưỡng, hội
đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển (đất đai trù phú, gần các trục giao
thông).
*
Khu Trù Mật có thể phát triển nông nghiệp, diện tích đất trồng có thể được
nới rộng nhờ khẩn hoang thêm đất màu mỡ, để trong tương lai, các thế hệ trẻ
tấn lên trở thành điền chủ.
*
Khu Trù Mật có thể phát triển thương nghiệp và các lãnh vực dịch vụ khác,
cùng phát triển các tiểu thủ công nghệ liên hệ với ngành nông nghiệp địa
phương.
*
Nhờ Khu Trù Mật, chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn
dân: cư trú tập trung cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ
nhân dân, ít đòi hỏi nhiều đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng
hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh
v.v...)
Khu
Trù Mật là nơi bảo vệ dân chúng chống lại chiến tranh xâm lược của Cộng Sản
Bắc Việt. Ngoài việc kiểm soát dân chúng trong Khu Trù Mật, chính quyền địa
phương còn trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến Khu Trù Mật
thành một "tiền đồn", ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào
Nam.
Bởi
vậy các Khu Trù Mật thường được thiết lập tại các địa điểm có tính cách chiến
lược, dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một vành
đai an ninh. Đồng thời Khu Trù Mật cũng là thị trường tiêu thụ các nông sản
và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho mỗi gia đình
định cư một mảnh đất 3.000 m 2, để xây cất một ngôi nhà (với vật liệu do chính
quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà. Mỗi gia đình có
một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh."
Sử
gia Robert Scigliano, thuộc viện đại học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội
tuyên truyền phản đối chính sách Khu trù mật vì ngoài việc ngăn chặn Cộng Sản
xâm nhập vào nông thôn, các Khu trù mật được xây dựng ở những vùng chiến lược
chẳng hạn dọc theo một con đường chính hay một trục thủy lộ gây trở ngại rất
nhiều cho việc chuyển quân của Cộng Sản".
Và kế đến, người viết cũng xin
phép tác giả Trần An Phương Nam: Gia đình CB/XDNT Bắc Cali, để cũng được trích đoạn trong
bài:
"Từ quốc sách Ấp
Chiến Lược đến chương trình Xây dựng Nông Thôn"
như sau:
"Khi
thành lập công cụ xâm lược mang tên Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam" (MTGPMN) vào tháng 12 năm 1960. Cộng Sản Hà Nội quyết tâm thực hiện
giai đoạn khởi đầu trong sách lược thôn tính miền Nam qua mặt trận du kích
chiến, trọng tâm của mặt trận này là “lấy nông thôn bao vây thành thị” nói
cách khác là chúng muốn kiểm soát địa bàn nông thôn, tranh thủ nhân tâm người
dân nông thôn để lợi dụng lòng yêu nước của họ ngõ hầu buộc họ phải cộng tác,
nuôi dưỡng, che chở cho du kích quân cộng sản. Kế tiếp là chúng sẽ dùng nông
thôn làm bàn đạp để tấn công, tiến chiếm các thành phố để cướp chính quyền. Thoạt
tiên kế hoạch xâm lược miền Nam của cộng sản Hà Nội là như vậy, chúng mong muốn
thôn tính miền Nam chỉ cần sử dụng mặt trận du kích chiến mà thôi, không cần
sử dụng đến các mặt trận khác như trận địa chiến hay vận động chiến v.v...
Nắm
vững được sách lược của địch. Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp
Chiến Lược, đây quả là một đối sách đúng đắn và vô cùng lợi hại của chính
quyền lúc bấy giờ, việc thi hành đối sách này đã làm cho từ bọn đầu sỏ chóp bu
ở Hà Nội đến bọn công cụ tay sai MTGP ở miền Nam phải điêu đứng, hoang mang.
Bởi vì mục tiêu căn bản của Quốc Sách Ấp Chiến Lược là tách rời du kích quân
sự cộng sản ra khỏi nhân dân nông thôn, không cho chúng bám dựa vào nhân dân
để xây dựng cơ sở và hoạt động phá hoại, cuối cùng là cô lập hoàn toàn để
chúng phải chọn lựa, một là ra hồi chánh, hai là bị tiêu diệt.
Tất cả các Ấp
đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố bao quanh, các cổng chính ra vào được
canh gác đúng mức tùy theo địa thế, mỗi Ấp đều có từ một đến nhiều chòi canh
có tầm nhìn xa, ban ngày người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên
người lạ mặt muốn vào Ấp phải qua thủ tục kiểm soát chặt chẽ, ban đêm các
cổng chính ra vào được đóng lại, tuy nhiên các trường hợp cấp thiết của dân
chúng vẫn được giải quyết. Ngoài ra, các Ấp Chiến Lược đều có thiết lập hệ
thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp vào
Ấp. Việc quản lý Ấp do một Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do
lực lượng Phòng vệ dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng
Hòa của Ấp sở tại phụ trách. Ấp Chiến Lược được tổ chức theo phương thức tự
quản, tự phòng và tự phát triển.
Quốc
Sách Ấp Chiến Lược thực hiện rất hiệu quả, công việc tát nước để bắt cá, mặt
trận du kích chiến của cộng sản bị ngưng trệ, du kích quân và hạ tầng cơ sở
của chúng gần như không chốn dung thân, chủ trương bám dựa vào người dân bị
bẻ gãy từ trứng nước. Tóm lại, Quốc Sách Ấp Chiến Lược đang trên đà thăng tiến
và tỏ ra hữu hiệu thì bất ngờ bị hủy bỏ bởi chính những người có quyền cao chức
trọng trong chính thể VNCH. Thật đáng tiếc vô cùng!"
Trên đây, là những trích đoạn đã
viết về Ấp Chiến Lược, của hai vị tác giả Nguyễn Đức Cung và Trần An Phương
Nam; riêng người viết bài này, trước đây, cũng đã có viết qua bài: Những Mùa
Xuân Qua có một đoạn về Ấp Chiến Lược như sau:
Mô
hình của một Ấp Chiến Lược:
Tại quê tôi, ấp chiến luợc là
những vòng đai có hai vòng rào gai rừng, ở giữa hai vòng rào là những giao
thông hào sâu quá đầu nguời, rộng hơn hai mét, do dân làng cùng nhau đào,
dưới lòng giao thông hào có cắm chông làm bằng những gốc tre già đã được vót
nhọn, sắc, có ba cạnh. Còn vòng rào là những tấm gai cứng nhọn, có bề rộng
hai mét, bề cao hơn hai mét được ghép lại. Chúng tôi xin nhắc rằng: Vì để bảo
vệ tánh mạng và tài sản của chính gia đình của mình nên mọi người dân quê đều
hưởng ứng, họ rất vui vẻ với công việc này. Đặc biệt là lớp thanh niên, với
những nụ cười, tiếng hát với nhau trong lúc cùng nhau thực hiện Ấp Chiến
Luợc.
Ngoài ra, dân lành còn dùng những chiếc thùng thiếc, loại thùng đựng
dầu hỏa, hoặc thùng gánh nước đã bị hỏng, đem đục lỗ, cột dây thừng nhỏ đuợc
tết bằng những sợi mây rừng; ban đêm sau 20 giờ Chiến Sĩ Dân Vệ đóng cổng ấp
lại, rồi họ đem giăng dọc theo bờ rào Ấp Chiến Luợc và các lối đi ở bìa vuờn,
để ngăn bước chân của Việt cộng nằm vùng ban đêm thường lẻn xuống giết hại
dân lành và cuớp gạo, muối của dân mang lên rừng để sống. Bọn trẻ như chúng
tôi thì khoái đi giăng thùng lắm, chúng tôi đòi Chiến Sĩ Dân Vệ phải cho chúng
tôi đi theo, giăng thùng xong chúng tôi còn trông cho có ai đó, hoặc con vật
gì nó vướng dây để được đánh mõ còn nếu được "la làng" thì càng
thích hơn nữa.
Tôi vẫn nhớ mãi về những năm tháng
ấy thật vui, tôi nhớ dân quê tôi còn "phát minh" ra phong trào đánh
mõ và la làng. Ngoài các trạm gác đêm của cá Chiến Sĩ Dân Vệ, thì nhà nào
cũng sắm ra nhiều chiếc mõ tre; mỗi khi có tiếng thùng đổ thì mọi nguời đánh
mõ ba hồi một dùi; nghĩa là đánh ba hồi dài, sau đó đánh một tiếng, còn nếu
thấy có bóng dáng nguời xuầt hiện thì đánh mõ hồi một; nghĩa là đánh một hồi
rất gấp, rồi kèm theo chỉ một tiếng.
Lúc đó mọi nguời không ai đuợc đi lại
phải chờ cho các Chiến Sĩ Dân Vệ kiểm tra xem tại sao thùng đổ, nếu là Việt
cộng nằm vùng xuất hiện, thì các Chiến Sĩ Dân Vệ sẽ tri hô và mọi nguời đồng
thanh la làng: “Cộng sản bớ làng, cộng sản bớ làng”; sau đó, dân làng tay cầm
chiếc gậy có sợi dây thừng cuộn ở phía trên, tay cầm đuốc sáng trưng để vây
bắt Việt cộng.
Chính vì thế, mà tôi nhớ người dân đã bắt đuợc bốn cán bộ VC
nằm vùng, nhưng tôi chỉ nhớ tên hai nguời là Duơng Đình Tú và Đỗ Luyện, cả
hai đuợc đưa ra tòa sau đó họ ra Côn Đảo, đến khi trao trả tù binh họ chọn
con đuờng ra Bắc. Còn nếu do một con chó thì họ sẽ la to: "Bà con ơi!
chó vuớng thùng, đừng đánh nữa", thì dân làng họ mới thôi đánh mõ.
Một kỷ niệm mà không phải riêng
tôi, mà có lẽ còn hai "nạn nhân" trong cuộc chắc chắn khó quên: Ấy
là vào một đêm có đôi tình nhân đã hẹn hò nhau ở bìa vuờn, chắc họ đã ra đó
lúc chưa giăng thùng, nên đến khuya khi họ quay về nhà, chẳng may họ đã vuớng
phải dây và thùng thi nhau đổ, khi các anh Dân Vệ kiểm tra thì có bóng hai
nguời họ hô: “Đứng im”; lúc ấy có tiếng cả hai xưng tên và nói: "Tụi em
đây, xin các anh đừng bắn".
Nhưng lúc ấy, dân làng đã đèn đuốc sẵn sàng,
hai nguời mắc cỡ quá nên đứng im không dám nhúc nhích trông rất tội nghiệp.
Sau đó, đôi tình nhân ấy không hiểu tại sao họ lại chia tay. Bây giờ hai nguời
đều có gia đình riêng, ở cùng làng đã có cháu nội, ngoại. Cô gái vuớng thùng
năm xưa hiện nay lại là chị chồng của em gái tôi.
Tôi vẫn nhớ hoài những đêm vui kỷ
niệm; ngày ấy, đêm nào bọn trẻ con trong làng cũng trông mong cho có ai đó,
hay con chó, con mèo vuớng thùng để đuợc đánh mõ, vì cả làng đều đánh mõ hòa
với tiếng trống ở các trụ sở thôn làng, nghe thật vui tai, chúng tôi đứa nào
cũng thích, cũng đòi cha mẹ sắm cho những chiếc mõ thật tốt, kêu thật to.
Chúng tôi thích đánh mõ, đánh dai lắm, cho đến khi các Chiến Sĩ Dân Vệ đã la
to lên: "Chó vuớng thùng, bà con ơi đừng đánh mõ nữa" các anh cứ
la, còn chúng tôi thì vẫn cố đánh thêm mấy hồi nữa, vì mấy khi thùng đổ để
đuợc đánh mõ đâu.
Hậu
quả của việc phá bỏ Ấp Chiến Lược:
Mùa xuân năm 1964, Quê hương tôi
không còn thanh bình nữa; bởi lúc ấy, Nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã sụp đổ. Ấp
chiến lược bị phá bỏ, vì như mọi người đều biết, từ thưở xa xưa tổ tiên chúng
ta ở thôn quê quanh vườn người ta thường trồng tre, gai làm bờ rào, còn nhà
thì có bờ dậu có cửa ngõ, làng thì có cổng làng, mục đích để phòng gian, như
bài thơ "Cổng Làng" của Thi sĩ Bàng Bá Lân đã viết:
"Chiều
hôm đón mát cổng làng
Gió
hiu hiu thổi mây vàng êm trôi
Đồng
quê vờn lượn chân Trời
Đường
quê quanh quất bao người về thôn
Ráng
hồng lơ lững mây son
Mặt
trời thức giấc véo von chim chào
Cổng
Làng rộng mở ồn ào
Nông
phu lửng thửng đi vào nắng mai"
Như vậy, từ thưở xa xưa, tổ tiên
của chúng ta đã từng xây dựng Làng, có Cổng Làng mà mỗi đêm thường được đóng,
để bảo vệ dân làng, và mỗi ngày khi: "Mặt Trời thức giấc véo von chim
chào" thì "Cổng làng rộng mở ồn ào" để cho những "Nông
phu lửng thửng đi vào nắng mai"; huống thay là trong thời chiến tranh,
lúc cái "Mặt trận giải phóng miền Nam" do cộng sản Hà Nội cho ra
đời, thì những kẻ vì ngu xuẩn hay cố tình kia lại ra lệnh phá bỏ Ấp Chiến
Lược, là phá bỏ mọi trở ngại, khó khăn để cho Việt cộng đánh chiếm các làng
thôn một cách dễ dàng.
Tôi đã chứng kiến những ngày Xuân 1964,
đầy khói lửa, hoang tàn, từng đoàn người bồng bế, hoặc gánh con thơ chạy
trốn, dân quê tôi họ đã biết rất rõ về cái gọi là “Giải phóng miền Nam “ vì
cũng những người trong làng trước kia họ biết rõ là đảng viên cộng sản, sau
đó họ biệt tích, rồi một ngày họ bỗng dưng từ trên núi trở về lại tự xưng là
"Giải phóng miền Nam", nên dân quê tôi đã phân biệt Quốc, Cộng là
hể ở trên núi xuống là cộng sản, chúng nói gì họ cũng không nghe, thấy bóng
dáng cộng sản đâu là họ đều cõng - gánh con thơ tìm đường chạy trốn.
Kể từ đó, khi Ấp Chiến Lược bị phá
bỏ, thì quê tôi, quận Tiên Phước gồm 15 xã, mà việt cộng đã chiếm hết 11 xã,
chỉ còn có 4 xã nằm chung quanh quận lỵ, mà chẳng có xã nào còn nguyên vẹn,
vì xã nào cũng mất một vài thôn; riêng xã Phước Thạnh, tức làng Thạnh
Bình-Tiên Giang Thượng, gốm có 7 thôn, nhưng Việt cộng đã đánh chiếm mất 6
thôn, chỉ còn 1 thôn Đại Trung, nằm bên bờ Tiên Giang Hạ.
Và với những gì tôi đã viết trước
đây, là hồi ức của một thời thơ ấu không hề biết thêu dệt; nghĩa là viết một
cách vô cùng trung thực, thấy sao nói vậy, nhớ đâu viết đó, chứ không phải là
văn chương.
Vì vậy, một lần nữa, người viết
muốn lập lại là chỉ mong ước để cho lớp trẻ sau này còn biết đến một công
trình của người đi trước đã dày công xây dựng.
Pháp quốc,
20/10/2011
Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
|