VIDEO Không Biết Nói Dối Đâu !
Kính thưa ông Triển!
Nếu sư VC Nguyễn Công Hoan dùng rơm đốt ông Thích_ Quảng_ Đức thì
gọi là bị thui không phải tự thiêu.
2013/1/7
Trien Do <
Giá như Nguyẽn
Công Hoan nó dùng rơm mà đốt ông Thích Quảng Đức, thì lửa đâu có cháy tèm
lem ra ngoài chỗ ngồi của ông Quảng Đức mà hắn lại dùng xăng nên chảy tèm lem
ra thân ông Quảng Đức nên lửa mới lan rộng ra chỗ ngoài chỗ ngồi ông
Quảng Đức nên mọi người từ xa thấy là bị đốt, chứ không không phải là Ông
Quiảng Đức tự đốt lấy ông ấy.
From:
Do Quang <
=> Hành tung bí ẩn của một nhà sư: 1 2 3
Ngọn " Lửa Từ
Bi " của Việt cộng. < Xạo, Tuyên truyền
Sư VC Nguyễn Công Hoan tự tay đổ xăng vào đầu,
vào người HT Thích Quảng Đức
Lửa Từ Bi
Bây
giờ, là những ngày đầu của mùa Xuân Canh Dần, 2010. Đã bốn mươi bảy năm dài
trôi qua, nhưng có lẽ không riêng tôi, mà rất nhiều người trong chúng ta
khi nghe đến tên «Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu», với ngọn «Lửa Từ
Bi» đã bừng bừng đốt cháy một người đã hôn mê qua những tấm hình trên các
trang báo. Có những tấm hình người ta đã cho thấy «Hòa thượng Thích Quảng
Đức» đang bốc cháy, hoặc có tấm hình cho thấy có một người cầm can xăng
đang đổ từ vai xuống người của Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Cách
đây, bốn mươi bảy năm, vào lúc 7 giờ sáng ngày 11-6-1963, (nhằm ngày 20-4
âm lịch) những kẻ sát nhân này; trong đó có Trần Quang Thuận đã chở Hòa
thượng Thích Quảng Đức đến ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng, Sài
Gòn, để đốt chết. Ngoài Trần Quang Thuận còn có Nguyễn Công Hoan là dân
biểu lưỡng triều. Nghĩa là trước 30-4-1975, Nguyễn Công Hoan là dân biểu
của Việt Nam Cộng Hòa và sau ngày mất nước Nguyễn công Hoan cũng tiếp tục
là dân biểu tỉnh Phú Khánh của bọn việt-gian-cộng-sản. Nguyễn Công Hoan
(Huỳnh Văn Thạnh) là người đồng hương với Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Theo những tài liệu cũ, thì suốt trong thời
gian cuối đời của Hòa thượng Thích Quảng Đức, sau khi đã «được» Phật giáo
Ấn Quang đã ra lệnh phải bức tử, Nguyễn Công Hoan luôn luôn ở bên cạnh
Thượng tọa Thích Quảng Đức, để «theo dõi sức khỏe». Nhưng, thực ra, là
mỗi ngày Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đóng vai là một y tá đã chích
cho Hòa thượng Thích Quảng Đức bằng «thuốc trợ tim» đến nỗi đã khiến cho
Hòa thượng Thích Quảng Đức từ từ biến thành một kẻ vô hồn. Bởi vậy, mọi
người đều thấy khi được dìu đến nơi để phải chịu đốt, thì Hòa thượng
Thích Quảng Đức đã hoàn toàn hôn mê, bất động và ngồi như một bức tượng
đá trong ngọn «Lửa Từ Bi».
Và,
chính Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh)
là tên giả sư đã tự tay cầm một can xăng để tưới từ trên vai xuống người
của Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Rồi
cũng chính Nguyễn Công Hoan đã dùng
chiếc Zipo loại lớn để bật lửa rồi đốt cháy Hòa thượng Thích Quảng Đức
trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn toàn, theo: Lệnh Bức Tử của Phật
Giáo Ấn Quang.
Trước
đây, tôi đã viết về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức và dân biểu
lưỡng triều Nguyễn Công Hoan, là lúc
Nguyễn Công Hoan đang có mặt tại nước Mỹ.
Tưởng
cũng nên nhắc lại:
Vào
năm 1977, trong lúc đương là Dân biểu của bọn việt-gian-cộng-sản của tỉnh
Phú Khánh, Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đã cùng Trần Bình Nam, tức
Trần Văn Sơn, cựu Trung tá Hải Quân – cựu dân biểu VNCH; nhưng Trần Bình
Nam vì là người thân của Dương Văn Minh, và là bạn chí thiết của Nguyễn
Công Hoan, nên không bị vào tù «cải tạo» mà vẫn sát cánh kề vai bên
Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là Dân biểu của Việt-gian-cộng-sản.
Cả
Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã dùng một chiếc thuyền chỉ có hai người
là bạn thân thiết với nhau cùng với người tài công, để lên đường «vượt
biển» tại bãi biển Nha Trang.
Sau
đó, cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã đến nước Mỹ. Tôi nhớ lúc đó,
đã có nhiều tờ báo; trong đó, có Văn Nghệ Tiền Phong của Ông Nguyễn Thanh
Hoàng đã lên tiếng và đặt nghi vấn về chuyện «vượt biển» của hai người
này. Song rồi theo thời gian, mọi chuyện cũng đã đi vào quên lãng.
Nguyễn Công Hoan hiện đang sống trên đất Mỹ, nhưng y
không hề ra mặt hay lên tiếng. Riêng Trần Bình
Nam, tức Trần Văn Sơn là thường xuyên viết bài đưa lên nhiều trang điện
báo.
Xin
mọi người đừng quên: Trần Bình Nam là bạn thân thiết của Nguyễn Công Hoan
(Huỳnh Văn Thạnh), từng hoạt động với nhau, và cũng cùng nhau lên thuyền
«vượt biển» vào tháng 5 năm 1977, là thời điểm bọn việt-gian-cộng-sản
đang kềm kẹp người dân trong trong bàn tay sắt thép một cách kinh hoàng
nhất; nhưng Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã thuận buồm xuôi gió trên
một chiếc thuyền du lịch để sang nước Mỹ.
Đến đây, tôi xin
được trích đoạn lại về cuộc đốt người này, qua cuốn sách “Trong Lòng Địch” của
Tác giả Trần Trung Quân, từ trang số 99 đến trang 114, đã xuất bản vào
năm 1984, như sau. Kính mời quý vị cùng theo dõi:
«Vào
khoảng 4 giờ rưỡi sáng, Vũ Mạnh Trường mới đi vào công tác cụ thể. Trung úy
Dương Quang Lâm, phụ tá của Vũ Mạnh Trường chăm chú ghi từng tên một, và
tên người được trao phó cho công tác. Chính Vũ Mạnh Trường cũng đã thấm
mệt. Nhấp một ngụm trà cho thấm giọng, Trường đưa đôi mắt đỏ lừ gườm gườm
nhìn Thích Trí Quang.
Làm
cách mạng không thể không có máu đổ. Nếu là máu nhà sư thì càng tốt nữa. Sự
thù hận của dân chúng đối với Diệm-Nhu càng ngùn ngụt bốc cao hơn không
còn sức mạnh nào ngăn chặn nỗi nữa.
Bộ
chính trị trung Ương đảng đã nhận rõ tình hình và quyết định rằng, chỉ vài
nhà sư chết thảm là bọn Diệm-Nhu sẽ sụp đổ vô phương cứu vãn. Cho nên
Đảng đã quyết định là phải giết sư để xúc tiến công cuộc thống nhất đất
nước. Đồng chí Kiều Tuấn Cương ( bí danh của Thích Trí Quang ) nghĩ thế
nào?
Thích Trí Quang: cán bộ csBV dội lốt
thấy tu Phật Giáo,dặc trách việc dốt cháy bằng xăng TT Thích Quãng Đức ..
mặc dầu Thầy TQĐức dã phãn dối là: việc tự thiêu di ngược lại giáo lý
Phật Giáo.
Thích
Trí Quang ấp úng:
-
Dạ … dạ …
Vũ
Mạnh Trường quắc mắt đập mạnh tay xuống bàn giận dữ:
-
Tôi yêu cầu đồng chí phát biểu ý kiến về sự thực hiện kế hoạch của đảng,
có yêu cầu đồng chí tán thành hay phản đối đâu mà đồng chí dạ …
Thích
Trí Quang ngồi im, gục mặt xuống. Cả hội trường không ai phát biểu ý kiến
nào. Trường đắc chí, hất mặt lên, lớn tiếng dõng dạc:
Đảng
ta đã trù liệu cả rồi. Bộ Chính Trị ủy ban Trung ương Đảng đã là những « đỉnh
cao trí tuệ của loài người ». Chúng ta bì sao kịp! mà địch cũng không thể
nào chống đỡ nỗi. Đảng có lệnh chúng ta phải khích động hoặc tạo điều
kiện khích động các sư tự thiêu để cúng dường tam bảo! Có thế mới hấp dẫn
được dư luận thế giới, mới gây căm thù sâu sắc trong dân chúng đối với
chính quyền miền Nam được. Này, đồng chí Cương, thằng Giác Đức nó dám tự
thiêu không?
-
Chắc là không đâu, đồng chí. Nó nói thì hăng lắm, nhưng chỉ ba hoa thôi. Nó
là học trò tôi, tôi biết rõ nó lắm. Háo danh, nhưng rất hèn.
-
Thế còn Thích Hộ Giác?
-
Hộ Giác cũng vậy, háo danh. Cái mộng của nó là mò lần lên chiếm ghế Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo đặng nở mặt với đời. Cái thứ như thế mà đòi hỏi nó hy sinh
thì thật là khó. Chỉ có ai hy sinh cho nó leo lên thì chắc nó ký cả hai
tay mà thôi.
-
Thích Thanh Từ thế nào?
-
Thích Thanh Từ là đệ tử của Thích Thiện Hoa. Thầy Thích Thiện Hoa còn ở Bến
Tre chưa lên. Không có lệnh của thầy thì hắn chắc không chịu làm việc gì.
Đến
đây, Cao Đăng Chiếm mới lên tiếng:
-
Việc này, đồng chí Hằng có thể làm được.
Hằng,
tức Thích Thiện Minh giật mình đánh thót, vội nhỏm dậy:
-
Thưa đồng chí …
Nhưng
Chiếm đã khoát tay ra dấu cho Hằng ngồi xuống, cười nhạt:
-
Tôi không bảo đồng chí tự thiêu đâu mà lo ngại. Đồng chí còn đắc dụng vào
nhiều việc khác. Tôi chỉ nói rằng, với tài miệng lưỡi của đồng chí và lòng
tín cẩn của Thích Quảng Đức nơi đồng chí, chắc đồng chí thừa sức cải tạo
tư tưởng của Thích Quảng Đức, để hắn tình nguyện tự thiêu.
Thích
Thiện Minh cười tít mắt. Cao Đăng Chiếm đã gãi đúng chỗ ngứa của tên đội
lốt thầy chùa để làm chính trị và có nhiều anh hùng tính cá nhân này.
Thích Thiện Minh vặn mình mấy lượt cho khắp hội trường phải ngó lại nhìn
hắn, rồi mới lên tiếng:
-
Cái đó, thì mấy anh khỏi lo. Quảng Đức đã bị tôi thuốc nước rồi. Ngày hôm
kia trả lời cuộc phỏng vấn của tụi báo chí ngoại quốc, tôi đã gài cho
Quảng Đức kẹt cứng rồi. Tôi đã nhân danh Thích Quảng Đức mà tuyên bố như
vầy: “Nếu Diệm không phóng thích tất cả tù nhân chính trị, không ban hành
một chế độ đặc biệt cho các tôn giáo, trong đó có Phật Giáo được treo cờ
Phật Giáo ngang hàng với quốc kỳ, thì thầy Thích Quảng Đức nguyện sẽ tự
thiêu để gióng lên tiếng chuông báo động với thế giới về những hành động
kỳ thị tôn giáo, nhằm tiêu diệt Phật giáo của chính phủ Diệm-Nhu. Và Hội đồng
Ấn quang sẽ đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc”.
Trường gật gù có vẻ tán thưởng:
- Thái độ của Quảng Đức lúc ấy như thế nào?
Quảng Đức không nói gì, chỉ cúi đầu nhìn xuống. Nhưng
tôi biết hắn có vẻ hơi thất vọng. Tuy nhiên, tính Quảng Đức rất ôn hòa và
vị tha, lại dễ xiêu lòng, nên sau đó, tôi đã thêu dệt cả một tòa sen rực
rỡ trên niết bàn đang chờ đợi ông ta, nhờ ông ta hy sinh vì Phật Pháp.
Ông ta sẽ đắc đạo, sẽ thành Phật, và bức chân dung của ông sẽ được thờ
phượng ở khắp các chùa sau này …
Kết quả có
đến 80 phần trăm là Quảng Đức nghe tôi và sẵn sàng hy sinh. Điều tôi lo
ngại là chúng ta không ra tay gấp, rủi gặp Hộ Giác, gặp những tên ba hoa
như Hộ Giác lỡ miệng xúi bậy ông ta bỏ ý định thì hỏng hết.
Ngày tự
thiêu của thầy Quảng Đức gần kề bao nhiêu, thì sức khỏe của thầy sa sút
bấy nhiêu. Tim thầy mệt cầm canh. Gần như cả ngày thầy không hề nói một
câu, ngoài việc tụng kinh niệm Phật. Ý thầy đã quyết chết và sẵn sàng “vị
pháp vong thân” rồi, nên tùy thân xác còn lưu lại nơi trần thế, hồn thầy
đã bay vào thế giới khác. Lúc này, Thích Thiện Minh ra lệnh cho Huỳnh Văn
Thạnh phải suốt ngày cận kề bên thầy Quảng Đức, không được rời thầy nửa
phút. Không phải hắn lo cho sức khỏe của thầy, nhưng là đề phòng mật vụ
VNCH bắt mất thầy thì thực là xôi hỏng bỏng không. Cộng sản đã mất bao
nhiêu thì giờ để thuyết phục vừa áp lực thầy tự thiêu cúng dường, thì
không thể sơ hở trong phút chót được. Thích Trí Quang đã thức trắng mấy
đêm liền để dọn tinh thần cho thầy, trong khi Huỳnh Văn Thạnh nâng giấc
thầy còn hơn cha mẹ, lo giặt giũ quần áo, lo từng miếng ăn tới ngụm nước
uống cho thầy. Để về sau, chính hắn đã tưới xăng lên người thầy và châm
lửa đốt thầy.
Huỳnh Văn
Thạnh theo cộng sản từ năm 1959, nhưng hắn không tập kết ra Bắc. Cộng sản
để hắn ở miền Nam làm công tác tình báo cho Việt cộng ở khu 5. Tới năm
1962, hắn được biệt phái qua khu Dương Minh Châu, cho xâm nhập vào Sài
Gòn hoạt động trong chiến dịch giáo vận. Năm 1964, cho phù hợp với đường
lối và chính sách mới của Việt cộng là “gây ung thối trong hàng ngũ quốc
gia” Thạnh được triệu ra khu, ẩn bóng một thời gian và sau đó Việt cộng
làm hộ tịch giả cho hắn mang tên mới là Nguyễn Công Hoan, và cho hắn về
Sài Gòn hoạt động chính trị công khai, đứng phe đối lập với chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1966 tới năm 1972, nhiều lần cán bộ nằm vùng vận
động tối đa rồi mới đưa hắn ra ứng cử dân biểu quốc hội VNCH, và hắn đắc
cử tại đơn vị Phú Yên.
Sau ngày
cộng sản chiếm Sài Gòn, Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, xuất đầu
lộ diện nguyên hình, tích cực tuyên truyền cho cộng sản và chỉ điểm cho
công an việt cộng bắt không biết bao nhiêu chiến sĩ quốc gia chân chính.
Để trả công cho hắn, việt cộng cho hắn vào quốc hội của cộng sản, để lừa
bịp dư luận rằng cái quốc hội của cộng sản không hoàn toàn chỉ gồm những
đảng viên hay tay sai của cộng sản, mà còn gồm cả một số dân biểu, nghị
sĩ “ Ngụy” đã biết ăn năn hối cải trở về với “cách mạng”.
Tuy
nhiên, Nguyễn Công Hoan vào múa may ở quốc hội của cộng sản một thời gian,
thì những tên chủ nhân việt cộng của hắn thấy cũng không lừa bịp nỗi ai,
nên bèn cho hắn “ vượt biên tỵ nạn” để ra nước ngoài làm công tác kiều
vận. Nguyễn Công Hoan đã vượt biển sang
Nhật, sau đó, nhờ thủ đoạn và móc nối chính trị hắn đã tới được nước Mỹ
một cách ngon lành. Nhưng cái mác dân biểu lưỡng trào của hắn và cuộc tỵ
nạn mờ ám của hắn đã bị đồng bào nghi kỵ, cho nên hắn chẳng làm được trò
trống gì. Hiện nay, hắn trùm mền núp bóng một tên sư hổ mang để chờ một
cơ hội khác.
Đó là những
chuyện xảy ra về sau, mà đa số chúng ta, nhất là bạn đọc của Văn Nghệ
Tiền Phong đều biết rõ.
Nay xin trở lại
với chuyện “ tự thiêu của thầy Thích Quảng Đức”. Vấn đề mà Việt cộng lo
ngại nhất là làm sao mang một thùng xăng khá lớn để có thể đốt cháy thầy
Quảng Đức ngay tức khắc để các cơ quan công quyền không kịp cứu.
Mang một
thùng xăng lớn tới nơi mà chúng định thiêu thầy Quảng Đức cho trót lọt
không phải dễ, vì an ninh VNCH đã rõ mưu đồ của việt cộng. Huỳnh Văn
Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, chính là tên đã được việt cộng trao cho
trọng trách cung cấp xăng đốt thầy Thích Quảng Đức, và Thích Thiện Minh
là người được đề cử để giám sát vụ này, nên hắn rất lo lắng. Đêm hôm
trước khi xảy ra vụ “tự thiêu”, chính Thích Thiện Minh biểu tài xế lái xe
chở đi gặp Huỳnh Văn Thạnh để cho biết rằng xăng đã được giấu trong hai
thùng nhỏ đựng dầu hôi trong gánh hàng của một nữ cán bộ việt cộng đóng
vai người đi bán hàng rong buổi sớm.
Bao nhiêu
lít ? Thích Thiện Minh hỏi.
-15 lít,
thưa thầy. Thạnh trả lời.
-15 lít đủ đốt không con?
-Dư sức mà thầy, 5 lít cũng đủ chết bà Quảng Đức rồi.
-Phần kế hoạch F2 con cẩn thận nhé.
-Thầy yên tâm, trước khi “ xuất hành”, con sẽ gửi thêm một mũi Trenxinne
nữa. sau đó, con sẽ bồi thêm hai mũi trợ tim Haldol là đủ.
Vậy à. Tốt lắm, công con to lắm …
Bảy giờ
sáng, ngày 20 tháng 4 năm 1963 ( ngày âm lịch ) dương lịch là ngày
11-6-1963, không khí bên trong chùa buồn như đám ma. Tăng ni ai nấy đều
mặt mày ủ rũ thương cho thầy Quảng Đức chỉ chốc lát nữa đây sẽ bị đưa lên
giàn hỏa để “ bảo vệ đạo pháp”. Ngoại trừ một số ít cán bộ việt cộng và
tay sai núp áo cà sa giết người cho cộng sản, là hăm hở chờ đợi giờ phút
xảy ra biến cố.
Ngay từ lúc
4 giờ sáng, Huỳnh Văn Thạnh đã vô giường thầy Quảng Đức, lật mông thầy
lên để chích cho thầy một mũi Trenxinne, mà hắn thỏ thẻ thưa là “thuốc
trợ tim” để thầy mau bình phục sức khỏe. Thầy Quảng Đức ngủ mê man, ngủ
say sưa như một đứa trẻ thơ trong nôi, sau khi đã no sữa, ống thuốc
Trenxinne thấm, cơ thể thầy Thích Quảng Đức bỗng mềm nhũn, ngắt véo, thầy
cũng không biết đau.
Lúc ấy,
Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, mới ra dấu cho đàn em chạy vào lau
mình mẩy cho thầy, và thay cho thầy bộ áo cà sa mới toanh. Thế là việt
cộng đã chuẩn bị xong để đưa thầy Thích Quảng Đức ra cúng tổ … Các …
Mác!!! “
Trên đây,
là những trích đoạn về lệnh bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức của Phật
giáo Ấn Quang, tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và
bọn việt-gian-cộng-sản, trong cuốn sách Trong Lòng Địch của tác giả Trần
Trung Quân.
Tôi cũng
cần phải nhắc lại:
Vào tháng
5-1977, Nguyễn Công Hoan, tức Huỳnh Văn Thạnh đã cùng Trần Bình Nam lên
một chiếc thuyền và rời bãi biển Nha Trang, chỉ có hai người này và tài công,
và cả hai hiện đang có mặt trên đất Mỹ.
Và, vì đây
là một bài viết có liên quan đến đoạn phim vừa đưa lên: You Tube video:
Bo Tat Quang Duc ( Monge budista suicidio ). Nên một lần nữa, tôi lại
phải mời quý độc giả hãy cùng đọc lại những lời của cựu Đại đức Thích Huệ
Nhật, tức Mục sư Tin Lành Nguyễn Huệ Nhật, trong cuốn sách “Từ Áo Cà Sa
Đến Thập Tự Giá”. Ông đang có mặt tại Đức quốc, để cùng nhau suy gẫm:
Cái chết tự nguyện là gì?
Những người tự thiêu cho đạo pháp
Nguyễn
Huệ Nhật
“Tôi xin
giới hạn trong phạm vi hiểu biết của cá nhân mình, và những gì tôi viết
sau đây cũng là một số kinh nghiệm và nhận xét của riêng tôi, sau ba lần
tưởng đã chết nhưng nay tôi còn sống ....
Người tự
thiêu đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại kỳ thị tôn
giáo dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Ngài là một vị tu sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi
tu. Con ruột ngài cũng là đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh.
Ngài chỉ nổi tiếng sau khi hy sinh.
Cũng như
tất cả các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo Pháp, bản thân Hòa
Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự hy sinh của
ngài chỉ là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của
ngài là lâu dài từ mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình
Diệm bị lật đổ, Phật giáo Việt Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng
bị CSVN lợi dụng sâu sắc hơn, và đưa những cuộc đấu tranh kế tiếp đến
ngày 30-4-1975, cho cộng sản Việt Nam lên cướp chính quyền.
Nhìn lại
quá trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hội
Phật Học VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời gian manh
nha đưa GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao thế
lực của họ. Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam
Quốc Tự và Ấn Quang.
Chưa bao giờ
lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù nhau, phân rẽ nhau tệ hại như
thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh trong mùa hè 1966, là một bằng
chứng suy tàn nhất của tinh thần và tổ chức Phật giáo Việt Nam. Nếu tôi kể ra những bất đồng
của các vị lãnh đạo PG trong vụ Đem Phật Ra Đường, thì rất phiền. Những
cuộc tranh giành đẫm máu trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự cho đến nay
vẫn còn giữ kín, trừ vụ kéo sập dãy nhà do Đại đức Thích Đức Nghiệp xây
lên sát lề đường Trần Quốc Toản là không thể dấu diếm được.
Tôi ngẫm nghĩ Thượng tọa Thích
Trí Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng sản Bắc
Việt. Ông bắt cóc niềm tin của đa số Phật tử, để biến họ
thành phương tiện hữu hiệu nhất cho cộng sản Bắc Việt vào xâm chiếm miền
Nam, và ông đã cho cộng sản Bắc Việt vắt chanh bỏ vỏ tất cả nhân, tài,
vật lực do niềm tin ấy mà có. Khi công việc bắt cóc ấy hoàn thành, mẹ mìn
Thích Trí Quang ngồi im lặng rung đùi và được cộng sản Việt Nam bảo vệ
kỹ, không ai dám động một sợi lông chân của ông.
Tôi tin
chắc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi hậu quả tang
thương về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói chung, qua
sự hy sinh của ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã trở
thành một vị Thượng tọa nổi tiếng tại ngôi chùa của ngài để lại trên
đường Trương Minh Giảng, đã sống ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm tiếng và
cũng bị tù đày trong chế độ cộng sản.
Lần tự
thiêu thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi theo sự sắp xếp
và tổ chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì tình hình
sao đó.
- Một người
khác là thầy Lưu Bổn, đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa TL, Huế, cũng đã
nhảy xuống giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa hè 1972, sau khi bị nghi ngờ một hành động xấu.
Mười lăm phút trước khi nhảy xuống giếng, thầy Lưu Bổn ngồi ăn trưa với
tôi một cách lặng lẽ.
- Một người
bạn khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại Đà Nẵng, ông mở
một trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng
đã tự thiêu vì một chuyện riêng, nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là
tự thiêu vì ý nghĩa lớn lao khác.
Trong thế
giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính trị thời Việt Nam Cộng
Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử
bằng cách tự thiêu đã được gán cho những ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả”
ấy được áp đặt cho mục đích khác, mà người tự thiêu không đặt ra, nhưng
sau cùng những người bà con của họ cũng được hưởng tiếng thơm “Thánh Tử
Đạo”.
- Cũng có
nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để giải quyết chuyện riêng, nhưng khi
thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để che đậy chuyện bậy bạ.
- Hoặc là
người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó mới được gán cho một ý
nghĩa thiêng liêng.
Thời đó,
nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm dụng. Người tình nguyện tự thiêu thì đông,
nhưng người đáng được chấp nhận thì ít. Vì một người có đời sống không
sáng sủa, nếu được chấp nhận cho tự thiêu, sẽ có nguy cơ làm mất niềm tin
của nhiều người khác.
Tất cả những người tình nguyện tự thiêu đều là những người không
sáng giá khi còn sống.
Những người
sáng giá nghĩ rằng mình cần sống để làm việc có kết quả hơn.
Những người
nêu trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số lý do tại sao họ đã
tự thiêu: Giống như những người thất tình, những thí sinh thi rớt, những
đứa con giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn … Họ không còn thiết
sống nữa. Họ tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí bằng
cái chết tự sát”.
Quý độc giả
vừa đọc qua những trang sách của tác giả Trần
Trung Quân và cựu Đại đức Thích Huệ Nhật. Nên biết, sau khi chiếm
được miền Nam tự do cho đến hôm nay, thì bọn việt-gian-cộng-sản đã trả
công cho Phật giáo Ấn Quang bằng rất nhiều hình thức; trong đó, có nhiều
con đường mang tên Thích Quảng Đức.
Riêng tôi, vì đã vô cùng căm phẫn trước những hình
ảnh của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã bị cả lũ người bất lương, vô nhân
tính và tàn ác, khi đem sinh mạng của Hòa thượng Thích Quảng Đức ra để
làm phương tiện cho cứu cánh. Bởi vậy, nên tôi phải viết lên
bài này, với tất cả tâm thành, tôi ước mong cho mọi người đừng bao giờ
đem sinh mạng của bất kể người đó là ai để làm vật hy sinh. Bởi mỗi sinh
mạng của một con người trên thế gian này, đều do Trời sinh, thì xin mọi
người hãy để cho Trời diệt.
Bọn
sư VC nằm vùng Phật giáo Ấn Quang; trong đó có: Lệnh Bức Tử: Hòa thượng
Thích Quảng Đức, đã được xác tín hơn nữa:
Với
cái tựa đề «Bằng đôi chân của mình mời người hãy đi lên», của Thích Đức Nhuận
« nguyên Tổng thư ký Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất » tức Ấn Quang.
Mở đầu
Thích Đức Nhuận đã viết:
«
Tôi viết những dòng chữ dưới đây thân gửi những tâm hồn luôn luôn thao thức
đến tiền đồ Dân tộc và Đạo pháp, dù bạn hiện ở trong nước hay ở ngoài
nước, xin hãy hướng lên Đức Phật từ bi cao cả nguyện cầu cho Tổ quốc và
đồng bào thân yêu của chúng ta: sớm chấm dứt mọi hận thù, biết tha thứ và
yêu thương nhau để cùng chung sức chung lòng góp phần xây dựng đất nước
Việt Nam Quang Vinh ».
Đến trang
số 09, Thích Đức Nhuận viết tiếp:
«
Năm 1963, Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc tài
gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được toàn
dân từ Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn giáo sụp
đổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập ».
Nên
ghi nhớ, vào đại hội thống nhất Phật giáo năm 1981, Thích Đức Nhuận đã được
bầu lên ngôi « Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản ».
Những kẽ mặc áo cà sa di biễu tình hoan
hô Hồ dâm tặc trên dây .. có phãi là các sư tăng Phật Giáo không??
Qua những lời của chính Thích Đức Nhuận đã viết. Thì rõ ràng là Thích Đức
Nhuận đã công khai nhận trách nhiệm của Phật giáo Ấn Quang với câu nói:
« Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống
chế độ… » là để đánh đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Điều quan trọng
hơn cả là: « Đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ ».
Như thế, đã quá rõ ràng, đã quá sáng tỏ, để cho mọi
người hiểu được rằng: Phật giáo Ấn Quang « phát khởi cuộc vận động chống
chế độ và đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ ». Nghĩa là gồm cả cộng
sản Bắc Việt.
Như vậy,
căn cứ theo những lời của chính hai người đã và đang đứng đầu của GHPGVNTN,
tức Ấn Quang thì cả hai đã công khai nhận trách nhiệm về cái chết của Hòa
thượng Thích Quảng Đức, và kéo theo là sự sụp đổ của Nền Đệ Nhất Việt Nam
Cộng Hòa và hệ lụy là ngày mất nước: 30-4-1975, với các sư sãi của Phật giáo Ấn Quang đã công khai đưa từng đoàn
xe ra tận núi rừng, để đón rước cộng quân vào các thành phố tại miền Nam
tự do, cùng với những màn bắn giết các vị là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng
Hòa, vào trước ngày 30-4-1975, để trả thù và để lập công với bọn việt-gian-cộng-sản.
Đưa bàn thờ Phật xuống đường!
Chính vì thế, Phật giáo Ấn Quang cho dù có ngụy biện
bằng cách nào chăng nữa, thì vẫn không bao giờ xóa được những tội ác của
một thời « tranh đấu » có bàn thờ Phật xuống đường, có máu đổ đầu rơi.
Chẳng những vậy, mà qua cái « Thông bạch của hàng
giáo phẩm đang đứng đầu Phật giáo Việt Nam đang hành đạo tại Hoa Kỳ »,
những người này đã bênh vực cho Thích Trí Dũng,
người đã công khai trên sách báo là «Vào Tết Mậu Thân, 1968, chùa Phổ
Quang là nơi khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất».
Vậy, để
biết thêm một cách tường tận hơn, xin hãy đọc lại bài:
Tưởng
Niệm Cuộc thảm Sát Mậu thân 1968.
Biến
động Miền Trung
Trịnh công Sơn và
những hoạt động nằm vùng
Năm 1981
trước sự thúc ép của Ban Tôn Giáo, đảng việt gian Cộng Sản đã cho một số
sư quốc doanh "vuợt biên" sang định cư tại Hoa Kỳ, để khuếch trương
các tổ đảng (molds) việt gian sư quốc doanh nằm vùng tại thủ đô người
Việt Tỵ nạn Cộng Sản.