Người Việt Thầm Lặng.
Nhu cầu thay đổi chiến thuật,
chiến lược
Trong đấu
tranh, khi sử dụng mãi một chiến thuật
nào mà không có kết quả thì sự khôn ngoan đòi hỏi phải thay đổi chiến thuật. Từ trước đến nay, người Việt hải ngoại đã
dùng những chiến thuật như biểu tình,
vận động chính giới, gửi thỉnh nguyện thư, chống văn công cộng sản, v.v...
những chiếnthuật này đã có những kết quả
khá tốt đẹp, nhưng dường như những kết quả tốt đẹp chỉ dừng lại ở đó, không
tiến xa hơn.
Vì thế nhiều
người nghĩ rằng phải sáng kiến ra những chiến thuật
mới. Chúng ta cần khuyến khích những sáng kiến đó và sẵn sàng cứu xét, đưa ra
thử nghiệm. Nếu những sáng kiến ấy không hợp ý ta, ta không nên vội vàng chê
bai, đả phá, nhất là không nên chụp mũ cộng sản cho những người có đầu óc sáng
tạo ấy. Như thế là làm thui chột mọi sáng kiến chính trị, vì những ai có sáng
kiến sẽ hết sức ngần ngại đưa ra vì sợ bị đả kích một cách bất hợp lý. Vả lại,
nếu ta không phải là nhà chuyên môn về chính trị, ta không nên coi những suy
nghĩ hay phán đoán của mình về chính trị như là chân lý, để rồi dựa vào đó mà
kết án những sáng kiến ấy!
Sáng kiến
nào cũng cần có thời gian thử nghiệm. Nếu thử nghiệm cho thấy sáng kiến ấy
không sử dụng được, thì lúc đó ta có chỉ trích cũng đâu có muộn? Nhưng nếu sáng
kiến nào đưa ra mà không hợp ý ta, ta cũng vội giập tắt nó từ trong trứng nước
bằng những chụp mũ vội vàng, thì sẽ có nhiều sáng kiến hay, tuyệt vời sẽ bị gạt
bỏ. Nếu cứ như thế, dù Khổng Minh có tái thế vào môi trường của chúng ta đây,
thì những mưu kế, chiến thuật, chiến
lược rất táo bạo của ông cũng khó mà được đưa ra thi hành! Vì những mưu kế táo
bạo của ông mấy ai hiểu được? nên vừa đưa ra thì sẽ bị chửi rủa, bị chụp mũ thế
này thế kia.
Chẳng hạn
trong trận Xích Bích giữa Ngô và Ngụy, Khổng Minh và Chu Du chủ trương áp dụng
chiến thuật “hỏa công”. Áp dụng
chiến thuật này thì điều cần thiết là
phải có gió, chẳng những có gió mà phải là gió Đông. Mà vào mùa ấy – tháng 10
âm lịch – theo kinh nghiệm bình thường thì làm gì có gió, hơn nữa lại là gió
Đông? Nếu chẳng may có gió mà là gió Tây thì dùng Hỏa công chẳng những không
thiêu đốt được quân Tào mà lại đốt chính quân sĩ của mình? Vào thời điểm ấy,
khí lạnh tràn xuống theo hướng tây bắc tức hướng về phía Đông Ngô, nếu như vận
dụng hỏa công thì xác xuất quân Ngô bị thiêu hủy là rất cao. Ngay cả Tào Tháo
cũng quyết đoán là sẽ không có gió, nhất là gió Đông, nên rất an tâm sử dụng
“Liên hoàn chiến thuyền trận thế” là dùng xích sắt khóa đoàn thuyền chủ lực của
mình thành một khối. Điều này vô cùng nguy hiểm nếu bên địch dùng kế “hỏa công”
mà có gió Đông.
Nếu dùng đầu
óc bình thường mà xét thì việc Khổng Minh quyết đoán phải dùng hỏa công để đánh
Tào đúng là điên, là quá táo bạo, xác xuất bại trận lên đến 80-90%. Và Chu Du
cũng là điên mới nghe theo lời quyết đoán của Khổng Minh khi mà Khổng Minh lúc
đó chưa giúp Lưu Bị đánh bại quân Tào được trận nào. Nhưng thực ra, nhờ đầu óc
“trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” mà Khổng Minh và Chu Du đã
quyết đoán được vào giờ G đó chắc chắn sẽ có gió đông nam (*). Nhờ sự quyết
đoán táo bạo đó mà quân Ngô đại thắng!
Tình hình
thế trận là quân Tào đông gấp 5,6 lần quân Ngô (quân Tào 27 vạn, quân Ngô chỉ 5
vạn), mà gió Đông thì theo kinh nghiệm thông thường hầu chắc là không có! Nếu
Khổng Minh và Chu Du mà sống vào thời đại này thì liệu đám đông trên các diễn
đàn Internet có để hai ông thi hành kế sách này không? Có kết án ông là điên
không? Có chụp mũ ông là phản bội, muốn nướng hàng vạn quân sĩ bằng chính ngọn
lửa của mình không?
Công cuộc
đấu tranh phải dùng mưu kế. Mà mưu kế thì không phải những người không chuyên
về chính trị có thể hiểu được. Những người không chuyên này (vốn chiếm tới 90
đến 95% trong lực lượng quần chúng đấu tranh) mà nhao nhao lên phản đối thì
những mưu kế ấy làm sao thực hiện được? Và như thế thì làm sao chiến thắng?
Trong lịch
sử, nước nhỏ như nước ta mà chiến thắng được đại quân của Tầu xâm lược chính là
nhờ mưu kế chứ không phải nhờ sức mạnh quân sự (**). Hiện nay, cuộc đấu tranh
giữa những người đấu tranh dân chủ và chế độ cộng sản là một cuộc đấu tranh
không cân sức. Nếu cho rằng chỉ cần dùng biểu tình, thỉnh nguyện thư, vận động
quốc tế, tố cáo tội ác cộng sản trên các diễn đàn Internet, trên các website,
trên radio và truyền hình là sẽ chiến thắng cộng sản, thì… chắc chắn đó là một
ảo tưởng! Những phương cách đấu tranh đó rất cần thiết cho cuộc đấu tranh,
nhưng không phải là mũi nhọn để chiến thắng!
Cộng sản Bắc
Việt đã chiến thắng VNCH ở miền Nam tự do là nhờ gì? Nhờ “địch vận”, nhờ chúng
cài người của chúng vào hàng ngũ của VNCH. Hiện nay, CSVN cũng đang cài người
của chúng vào hàng ngũ Người Việt Tị Nạn ở các quốc gia tự do để lũng đoạn các
cộng đồng Người Việt. Hậu quả là một số cộng đồng người Việt quốc gia bị chia
đôi chia ba và đánh phá lẫn nhau; rất nhiều người có thành tích đấu tranh chống
cộng bị chụp mũ là cộng sản, là thân cộng. Hiện nay, thử kiểm lại số người đấu
tranh chống cộng tương đối nổi tiếng, có thành tích tại hải ngoại xem có bao
nhiêu phần trăm đã bị chụp mũ là cộng sản hoặc thân cộng? Phải nói là khá
nhiều. Nếu thật sự là nhiều như thế thì hóa ra việc chụp mũ đó là một cách
tuyên truyền hữu hiệu cho cộng sản, rằng họ đã thu phục
được biết bao người Việt hải ngoại theo chúng, trong đó có biết bao người trước
đây đã từng hăng say chống cộng, lại có đầy đủ công ăn việc làm cũng như địa vị
trong xã hội! Phải chăng đó chính là thành quả công tác địch vận của CSVN nơi
người Việt hải ngoại?
Hiện nay số
cán bộ cộng sản âm thầm hoặc công khai bỏ đảng ngày càng đông. Có những người
đang được chế độ độc tài ưu đãi nhưng vì nhận ra thực chất đảng cộng sản là
gian tham bán nước nên không những đã từ bỏ đảng mà còn tham gia vào hàng ngũ
đấu tranh dân chủ như Nguyễn Đắc Kiên, Nguyễn Chí Đức, Trương Duy Nhất, v.v...
Những người có tính hay chụp mũ hãy xét lại xem những người có địa vị, có đời
sống kinh tế ổn định trong hàng ngũ Người Việt Quốc Gia đang sống trong thế
giới tự do này, họ theo cộng sản vào thời điểm này thì có lợi gì cho họ? Trong
khi các đảng viên cộng sản bỏ đảng ngày càng đông, chẳng lẽ CSVN lại có những
thứ hấp dẫn lôi kéo được nhiều người quốc gia đến như vậy từ bỏ hàng ngũ quốc
gia, từ bỏ lý tưởng dân chủ mà họ theo đuổi cả chục năm nay để đầu quân
theo chúng?
Ngày xưa,
Trần Bình Trọng đã trả lời cho Thoát Hoan, tướng nhà Nguyên, rằng: “Ta thà
làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”. Những người đã từng sẵn sàng
ra sinh vào tử để chống độc tài cộng sản, không dễ gì vì mấy bả danh lợi rẻ
tiền của CSVN mà lại đầu hàng theo chúng. Chẳng lẽ chúng ta đánh giá người quốc
gia có thành tích chống độc tài trong quá khứ thấp như thế sao? Những hành động
của họ đâu phải lúc nào cũng dễ hiểu nếu không chịu suy nghĩ sâu xa!
Không nên vì một hành động mình không hiểu rõ dụng ý mà đành chụp mũ những
người cùng chiến tuyến là thân cộng, bất chấp quá khứ đấu tranh của họ!
Có người
nhận xét rằng nếu so sánh những người chụp mũ và những người bị chụp mũ cộng
sản, ta thấy những nạn nhân bị chụp mũ thường có thành tích chống cộng cao hơn
những người chụp mũ. Họa hiếm lắm mới có trường hợp những người có thành tích
chống cộng cao đi chụp mũ những người có thành tích thấp hơn. Điều đó có nghĩa
gì? Có thể việc thích chụp mũ, vu khống xuất phát từ mặc cảm hay từ tâm lý bệnh
hoạn nào đó!
Cộng sản Bắc
Việt đã thắng VNCH nhờ địch vận, nhờ tuyên truyền. Hiện nay, chúng cũng cài
được người của chúng vào hàng ngũ người Việt Quốc gia để đánh phá, gây chia rẽ
giữa các cộng đồng Người Việt hải ngoại. Tại sao ta không sử dụng chiến thuật địch vận đó ngược lại với chúng mà lại đi
tiếp tay cho chúng sử dụng chiến thuật
đó với ta bằng cách chụp mũ cộng sản những người cùng chiến tuyến với mình?
Để làm công
tác địch vận, chúng ta cần cài được người của chúng ta vào hàng ngũ của chúng,
để chia rẽ hàng ngũ của chúng, để chúng nghi ngờ lẫn nhau (như chúng đã làm
người Việt Quốc gia nghi ngờ nhau), để chúng chụp mũ nhau là phản động (như
chúng đã làm chúng ta chụp mũ nhau là cộng sản để rồi không còn tin tưởng
nhau). Nếu chúng ta chưa cài được người của mình vào hàng ngũ của chúng, chúng
ta nên khuyến khích những ai đang có ý định từ bỏ đảng để gia nhập hàng ngũ dân
chủ, hãy nằm lại trong hàng ngũ của chúng để làm công tác địch vận thay chúng
ta.
CSVN cho
phép bọn nằm vùng trong hàng ngũ quốc gia được phép chửi cộng sản, tố cáo tội
ác cộng sản, và tỏ ra chống cộng còn mạnh hơn cả những người chống cộng đích
thực chính là để những người quốc gia coi chúng như cùng chiến tuyến với mình.
Có vậy chúng mới hoàn thành tốt công tác địch vận của chúng. Cũng thế, những
người quốc gia làm công tác địch vận trong hàng ngũ cộng sản cũng phải hành xử
sao để người cộng sản tin họ thì họ mới làm tốt công tác đó được. Thiết tưởng
người quốc gia cần khôn ngoan hơn người cộng sản trong lãnh vực này mới thắng
họ được!
Hiện nay,
nội bộ của đảng cộng sản đang chia rẽ trầm trọng, và nếu cứ đà này mà tiếp tục
thì chế độ cộng sản sẽ phải sụp đổ. Đây là lúc thuận
lợi nhất để chúng ta làm công tác địch vận.
Chúng ta cần
hoan nghênh, ủng hộ những chương trình “nói với người cộng sản” của các đài
phát thanh, của các trang web dân chủ để các cán bộ cộng sản thấy được họ đã bị
đảng cộng sản lợi dụng lòng yêu nước của họ thế nào; những hy sinh của họ nhằm
làm lợi cho dân tộc hóa ra lại làm cho đất nước đau khổ đến cùng cực!
Chúng ta cần
hoan nghênh và ủng hộ những đảng viên cộng sản đã, đang hoặc sẽ ra khỏi đảng
sẵn sàng làm công tác địch vận bằng cách vận động những đảng viên khác từ bỏ
đảng để đứng hẳn về phía người dân. Những người đã, đang là đảng viên cộng sản
chắc chắn làm công tác này thuận lợi
và hữu hiệu hơn những người quốc gia rất nhiều.
Người sống dưới chế độ cộng sản hàng chục năm trở lên đã bị
cộng sản nhồi sọ hằng ngày, có thể ngay từ thuở
ấu thơ. Quá trình giác ngộ của họ vì thế rất cần thời gian. Điều đó quá dễ
hiểu! Nhờ công tác địch vận của các đảng viên cộng sản đã giác ngộ, những người
bị nhồi sọ ấy sẽ dần dần tỉnh ngộ. Trước khi tỉnh ngộ hoàn toàn, chắc chắn
những tư tưởng hay lời nói không thể giống như những người đã tỉnh ngộ hoàn
toàn. Chúng ta nên khuyến khích họ bằng thái độ yêu thương đón nhận. Đừng đẩy
họ trở lại về phía cộng sản. Hãy thông cảm với họ vì quá trình giác ngộ này
không phải dễ dàng, trái lại nó đầy chông gai và gian khổ mà họ sẽ phải dũng
cảm chấp nhận. Hãy xem cách cộng sản đối xử với những cựu đảng viên cộng sản đã
giác ngộ như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Anh Kim, Nguyễn Đắc Kiên, Trương
Duy Nhất, v.v... để thông cảm những lo sợ cũng như những nỗi khó khăn của họ.
Để từ bỏ đảng và đứng về phía nhân dân, họ phải chấp nhận mất công ăn việc làm
cùng những thuận lợi về vật chất mà họ
đang hưởng, chấp nhận cả những sách nhiễu, tù tội do chế độ gây ra. Thử đặt
mình vào hoàn cảnh và vị thế của họ ta mới thông cảm được những khó khăn ấy.
Nếu trong
quá khứ đã có những người từ hải ngoại về nước đấu tranh chống cộng bất chấp
nguy hiểm, thì chắc chắn cũng có những người quốc gia yêu nước sẵn sàng làm
công tác địch vận bất chấp sự hiểu lầm, chê bai của những người cùng chiến
tuyến. Chấp nhận sự hiểu lầm này cũng là một sự can trường hiếm có. Làm sao để
những người lãnh đạo cộng sản nhận ra con đường dân chủ hóa đất nước là có lợi
cho bản thân và gia đình họ nhất, giúp họ “hạ cánh an toàn”, vừa bảo vệ được
tính mạng và tài sản của họ, vừa là cơ hội để họ “đái công chuộc tội”. Cứ ngoan
cố bảo thủ chế độ độc tài chắc chắn sẽ ngày họ phải đền tội. Đó là một trong
những cách đấu tranh có thể tiết kiệm xương máu và rút ngắn thời gian đấu
tranh.
Tóm lại,
không nên quá bảo thủ hay quá dị ứng với những cái mới. Hãy để cho những sáng
kiến mới trong đấu tranh có cơ hội được thử nghiệm. Có thế chúng ta mới tìm ra
được những phương thức đấu tranh hữu hiệu để chiến thắng!
Người Việt
Thầm Lặng
_______________________________________
(*)
Trận Xích Bích được một người mô tả trên mạng như sau:
“Ngày
22 tháng 11 năm 208, vào lúc buổi chiều, gió bỗng đổi hướng. Đến khoảng 9 giờ
tối, gió đông nam bắt đầu mạnh, mười chiếc thuyền nhỏ của Hoàng Cái xuất phát,
trận chiến Xích Bích bắt đầu.
- Hoàng Cái đích thân đứng trên mũi thuyền thứ nhất, chín
chiếc thuyền còn lại theo cơn gió đông lịch sử, lướt băng băng theo sau. Trong
chớp mắt đã tới gần thủy trại của Tào Tháo, chỉ còn cách trên dưới hai dặm,
Hoàng Cái quát một tiếng ra lệnh:”CHÂM LỬA!”. Lập tức mười mũi tên lửa bừng
sáng giữa đêm mùa đông ùa vào bãi thuyền của Tào Tháo, đem theo giấc mơ của ông
ta xuống lòng sông Trường Giang.
- Các thuyền lửa chia nhau chạy lọt vào các kẽ. Thuyền bắc
quân bị vòng sắt khóa chặt vào nhau, không nhúc nhích được cứ lần lượt bốc cháy
rần rần. Thuyền bè bắt lửa nhanh chóng, chiếc này lan qua chiếc khác, bao nhiêu
mảng thuyền lớn nặng nề trở mình không kịp, đành nằm trơ ra giữa hỏa
ngục.
- Sức nóng khủng khiếp lúc ấy lên tới cả ngàn độ C, thiêu
cháy mọi vật xung quanh ra tro. Tình hình lúc đó cực kỳ hỗn loạn, khói bốc mù
mịt, ánh sáng rực trời. Kế lại nghe bên kia sông pháo lệnh nổ rền trời khuya,
hết thảy các đội hỏa thuyền Đông Ngô lướt sang một loạt, đốt khắp cả một rừng
chiến thuyền quân Tào.
- Thế là trên mặt Tam Giang khẩu gió cuộn đùng đùng, tàn lửa
tung ngùn ngụt, trên trời dưới nước đỏ rực liền nhau ,tưởng như mặt trời vừa sa
xuống bờ sông Xích Bích, ánh sáng chói lòa chân mây lẫn mặt đất !
- Tào Tháo lập tức rút chạy đến
doanh trại phía bắc, song gió thế gió rất lớn, không lâu cả trại trên đất liền
cũng bị cháy. Quân sĩ trên bờ gặp phải liên quân Tôn Lưu cùng giáp kích, tan
tác hoàn toàn. Tất cả, từ Thừa tướng đến binh tốt đều điên cuồng bỏ chạy. Cuộc
rút chạy đáng sỉ nhục này, đối với bản thân Tào Tháo mà nói đây là đòn đánh
nặng nề chưa từng có kể từ lúc dựng nghiệp đến giờ !”
(**) Trước cuộc chiến thắng này,
dân ta ví von:
“Nực cười
châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng!”
Vũ khí’ bảo vệ Biển Đông
Hà Sĩ Phu
Cùng tác giả:
Bàn
về hiệu quả thực tế của những “vũ khí” giữ gìn Biển Đông
Trước
hết xin cảm ơn anh Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm Minh triết đã có thư mời
tôi đến dự cuộc họp mặt các tác giả có công trình về chủ quyền Biển Đảo Việt
Nam.
Tôi
rất muốn có mặt để trực tiếp được nghe ý kiến các tác giả đã dày công nghiên
cứu sưu tầm tư liệu về chủ quyền nước ta tại Hoàng Sa - Trường Sa và chia sẻ
quyết tâm sắt đá giữ gìn Biển Đảo, nhưng do điều kiện sức khỏe không ra Hà Nội
dự được, tôi xin có một lời bàn ngắn ngủi gửi đến cuộc họp mặt, với sự hiểu
biết còn hạn hẹp, cũng mong góp phần nhỏ vào cuộc trao đổi thân mật và rất có ý
nghĩa này.
Trước
hết, dù là vũ khí chính trị, vũ khí ngoại giao, quân sự, lịch sử, văn hóa, dân
vận… xin gọi chung là “vũ khí”.
Về
vũ khí lịch sử, chúng ta đã sưu tầm được những văn bản, những bản đồ, hiện vật
chứng minh từ hàng thế kỷ nay Hoàng Sa - Trường Sa đã thuộc vùng quản lý của tổ
tiên ta, trong khi chính bản đồ của Trung Quốc từ năm 1904 đã cho thấy ranh
giới của họ chỉ đến đảo Hải Nam, những tư liệu lịch sử ấy rất quý giá, kết tinh
tấm lòng và công sức của nhiều người, như những vũ khí rất có giá trị.
Đã
có nhiều tác giả, nhiều công trình, nhiều sáng kiến đáng tôn vinh trong buổi
gặp mặt này, nhưng để các “vũ khí” phát huy được hiệu quả mong muốn, tôi xin bổ
sung mấy điều sau đây:
1/
Phải có chỗ cho chứng cứ phát huy
Ta
nói đó là những chứng cứ “không thể tranh cãi”, nhưng không thể tranh cãi là
trong một môi trường có CÔNG LÝ và NHÂN TÂM, chứ vô tác dụng trước một kẻ đã
quyết một bề truyền kiếp xâm lược, chỉ cãi chày cãi cối, ngồi xổm lên Nhân tâm và
Công lý, những lời thiện tâm chỉ là giả vờ để che mắt và bịt miệng. Vậy làm thế nào để buộc đối phương phải đối mặt với Công
lý và Nhân tâm?
-
Về Công lý, muốn buộc đối phương phải đối mặt cần đưa các bằng chứng ấy lên Tòa
án quốc tế, mà Philippinesđã
cho ta một tấm gương. Chủ trương đối thoại tay đôi với kẻ mạnh đang ức hiếp
mình chính là vô tình hay hữu ý tiếp tay cho nó “ngọt ngào thôn tính” đất nước
mình. Không chống được sai lầm này thì
những chứng cứ của ta cũng vô tác dụng.
-
Về nhân tâm, nếu song song với những chứng cứ lịch sử, mà nhà nước lại bỏ tù
những người lên tiếng chống kẻ xâm lược thì khác nào tạo ra một môi
trường phản nhân tâm, cả nhân tâm trong nước và nhân tâm thế giới,
còn ai tin vào kế sách chống xâm lược của một nhà nước như thế? Trong
một môi trường thiếu vắng sức mạnh của Nhân tâm như vậy thì chứng cứ lịch sử
phỏng có giá trị gì?
2/
Giá trị thời gian trong chuỗi chứng cứ
Trong
môi trường của Nhân tâm và Công lý thì những chứng cứ lịch sử càng có niên đại
xa xưa càng có giá trị, càng đáng tin cậy, càng thuyết phục lòng người. Trái
lại trong môi trường “chày cối” và ức hiếp thì dẫn chứng càng xa xưa càng không
đáng để ý, càng thua kém những sự thực đang diễn ra trước mắt.
Để
dễ hiểu ta lấy ví dụ vườn tược nhà anh A bị anh B láng giềng bày mưu chiếm
lĩnh. Anh A đem gia phả nhà mình ra chỉ cho tên hàng xóm thấy chủ quyền của A.
Tên hàng xóm chẳng hề nao núng, liền bảo: Tôi cóc cần biết đây là của
cụ 5 đời hay 10 đời của anh, đấy là việc của gia đình anh, chỉ biết mới năm
ngoái chính bố anh lúc còn sống đã xác nhận khu vườn ấy là của tôi rồi, có chữ
ký của bố anh rành rành ra đây! Con cháu đã đem gán nợ cho người ta rồi còn giở
gia phả làm chi cho rách việc?
Vì
thế công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là một căn cứ quan trọng để họ khẳng định ý
kiến của Việt Nam đã chấp nhận Hoàng Sa - Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc,
bất chấp những bằng chứng xa xưa. Muốn giữ Biển Đảo thì phải phủ định giá trị
pháp lý của Công hàm ấy là việc cần phải làm. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, những
ký kết, những nhượng bộ và những thái độ im lặng (hay chỉ phản đối lấy lệ)
trước những hành vi xâm lược diễn ra sau Công hàm 1958, từ cuộc cầu hòa ở Thành
Đô đến nay, của đảng và nhà nước Việt Nam còn mang giá trị cam kết cao hơn
nhiều so với Công hàm 1958. Cứ thế, bước đi sau còn tệ hơn bước đi trước. Ta
biết trong chuỗi các văn bản, chuỗi các ứng xử, các cam kết thì cái sau luôn có
giá trị hơn cái trước, nhưng những cam kết bí mật những năm gần đây giữa hai
ĐCS thì dân lại không được biết, chúng ta không được biết!!!
3/
Mặt trận giữ nước phải liên hoàn
Tóm
lại việc trưng ra những chứng cứ lịch sử phải đi kèm với việc đưa ra Tòa án
quốc tế, với sử dụng sức mạnh đa phương, với việc trả tự do và vinh danh những
người đã dũng cảm lên tiếng chống bọn xâm lược mới, với việc không chấp nhận
thủ đoạn 16+4 (là thứ yêu thương giả để cắn xé thật)… nếu không thì những chứng
cứ lịch sử quý giá mà ta tìm được cũng chỉ để cho ta “nhâm nhi” nâng chén tự
sướng với nhau trong khi kẻ cướp cứ yên chí lấn dần bờ cõi! Đất nước sẽ mất dần
trong sự đã rồi, trong sự lãng quên của cộng đồng thế giới vốn đầy rẫy cảnh cá
lớn nuốt những con cá bé ham mồi, dại dột và cô độc.
Nếu
không đấu tranh từng bước liên hoàn với những hoạt động trong và ngoài nước như
trên đề cập thì tôi e công phu sưu tập vũ khí lịch sử của chúng ta chẳng những
bị uổng phí, mà biết đâu nếu nạn Bắc thuộc trở lại (dưới cái áo khoác mới) thì
những chứng cứ quý giá ấy của dân tộc Việt Nam mình sẽ bị thu sạch, đốt sạch
hoặc mang về Bắc quốc như lịch sử nghìn năm Bắc thuộc còn ghi!
4/
Phải giữ nước trước tiên bằng “vũ khí chính trị”
Sau
cùng xin nói: Đánh giặc giữ nước tất nhiên cần vũ khí quân sự. Nhưng vũ khí nào
cũng cần một bộ phận châm ngòi “phát hỏa” như cò súng, ngòi nổ hay các nút bấm…
Những nút bấm điều khiển ấy luôn thuộc về thuộc bộ phận CHÍNH TRỊ!
Kế
hoạch giữ nước trước hết là phải giữ nước từ Chính trị và bằng Chính trị. Một
nền chính trị ưu việt để giữ nước mạnh hơn mọi vũ khí. Một quyết định chính trị
khôn ngoan có thể hiệu quả hơn hàng tỷ đô la mua vũ khí. Nếu không biết những
nút bấm thuộc về đâu thì tàu ngầm, tên lửa, máy bay hiện đại mua của Nga của
Mỹ… cũng đều vô dụng, có khi còn tự hại mình.
Xét
về giá trị trong đấu tranh thì chính trị cao hơn quân sự, thực tại cao hơn quá
khứ, hành động cao hơn ngôn từ, thực tế cao hơn mơ tưởng… Chỉ khi nền chính trị tạo được sự đồng thanh cả
nước một lòng chống giặc, từ người lãnh đạo cao nhất, đến các lực lượng võ
trang, đến các trí thức và mỗi người dân, với sự hỗ trợ của thế giới văn minh,
thì khi ấy những “vũ khí” trong đó có vũ khí quân sự và vũ khí lịch sử của
chúng ta mới được sử dụng, mới có ý nghĩa. Một khi nhà nước thì “hợp
tác chiến lược” với giặc Bành trướng bằng kế sách 16+4, trong khi đất nước
và nhân dân thì khốn khổ vì kế sách đó, là đối tượng bị xâm hại bởi kế sách đó,
thì tôi không hiểu những vũ khí sẽ dùng để làm gì, nằm trong tay ai, ai sẽ sử
dụng?
Tôi
tin tất cả chúng ta trong cuộc gặp mặt này cũng đều hiểu điều đơn giản ấy. Điều
đơn giản ấy chắc người cầm quyền cũng thừa sức nhận ra, nhưng vì sao không dám
chọn lối ra sáng sủa ấy, trả lời câu hỏi này chắc hẳn cần những bài viết và
những cuộc thảo luận khác nữa [*].
Xin
gửi đến cuộc họp mặt một lời thân thiết và trân trọng. Mong được tiếp nhận
những cao kiến từ cuộc họp mặt thân mật này. Vô cùng cảm ơn.
Đà
Lạt ngày 30/7/2013
H.S.P.
Blogger Điếu
Cày Nguyễn Văn Hải ngừng tuyệt thực từ ngày 27/7/2013
DienDanCTM
Cùng tác giả:
Vào lối 17giờ30 anh Nguyễn Trí Dũng
đã ra khỏi trại giam số 6 huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Chúng tôi không thể
liên lạc được với số máy điện thoại di động của anh Dũng để hiểu rõ tình trạng
sức khỏe của blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. Liên lạc với bà Dương thị Tân thì
được biết, từ lúc ra khỏi cổng trại giam máy điện thoại của anh liên tục nhận
được các cuộc gọi của kẻ xấu khủng bố tinh thần.
Bà Dương Thị Tân được con trai thuật
lại cho biết: Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã ngừng tuyệt thực từ ngày
27/07/2013; sau khi đã nhận được sự trả lời của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Nghệ An về đơn kiến nghị của mình.
Nhà văn
Nguyễn Xuân Nghĩa
Theo lời kể lại của chị Nguyễn Thị
Nga vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, hiện nay tù nhân lương tâm Nguyễn Xuân Nghĩa
vẫn đang bị biệt giam sau khi tiết lộ tin blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tuyệt
thực. Giám thị trại giam đã đưa một tù nhân đến ở cùng thường xuyên giám sát,
đe dọa tinh thần anh.
Chị Nga tỏ ra rất lo ngại về tính
mạng của chồng là tù nhân lương tâm Nguyễn Xuân Nghĩa đang bị đe dọa rất nguy
hiểm./.
Vân Quang tường thuật
Mời đọc
GS Nguyễn Xuân Vinh
Theo Dòng Lịch Sử
Chúng ta ai cũng có những ưu tư về tương lai của đất nước,
và một câu hỏi thường đặt ra là: “bao giờ chế độ cộng sản VN sẽ sụp đổ?”.
Có một lần tôi hỏi ông Douglas E. Pike câu này. Ông là chuyên gia nổi tiếng
nhất của Hoa Kỳ về chiến tranh VN. Ông từng là giám đốc Indochina Archive ở UC
Berkeley từ năm 1981, sau này từ năm 1997 ở Texas Tech University cho đến khi
nghỉ hưu và qua đời vào ngày 13/5/2002. Câu trả lời của ông là: “Không
bao giờ tôi trả lời câu hỏi này …. ”.
Tôi thật thông cảm với ông Pike vì, với sự hiểu biết của ông,
tuy không nói ra nhưng tôi chắc ông nghĩ rằng: “cộng sản sẽ sụp đổ
duy chỉ khó lòng tiên đoán được ngày giờ mà thôi”.
Đi ngược lại dòng lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy rằng mỗi
khi có sự thay đổi quan trọng trên đất nước, thì tình hình chính trị, và tất
nhiên là tình hình quân sự, bao giờ cũng đột biến. Tuy vậy, trước đó thế nào
cũng có những triệu chứng báo hiệu rằng có việc quan trọng sắp xẩy ra, nhưng
khó tiên đoán được ngày nào sẽ xẩy ra.
Trở lại hơn một trăm năm trước đây, qua hoà ước Patenôtre ký năm
1884, khi triều đình Việt Nam dâng đất nước cho thực dân Pháp thống trị, thì
trước đó những người theo dõi tình hình đưa quân viễn chinh chiếm thuộc địa của
những nước Tây Âu cũng biết được rằng vấn nạn mất nước của những tiểu nhược
quốc sẽ xẩy ra, duy chỉ không đoán được vào thời điểm nào mà thôi. Vào thời đó,
trên đất nước ta, thì Nam kỳ đã hoàn toàn là thuộc địa của chính phủ Pháp. Rồi
tới năm 1882, khi quân Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ hai và sau đó tiếp tục đánh
chiếm những tỉnh thành khác ở Bắc kỳ, thì triều đình nhà Nguyễn không còn uy
thế nào với người dân Việt. Để làm áp lực với Triều đình Huế, ngày 15 tháng 7 năm
Qúi Mùi (1883) Toàn quyền Harmand và Đô đốc Courbet đem chiến thuyền vào đánh
cửa Thuận An là cửa ngõ vào kinh thành. Triều đình Huế đang gặp cảnh bối rối vỉ
Vua Dực Tông vừa băng hà. Các quan Đại thần phải ký hoà ước nhận sự bảo hộ của
Chính phủ Pháp. Văn bản chính thức đưa Việt Nam chịu Pháp thuộc được ký kết
ngày 6 tháng 6 năm 1884, năm Âm lịch là
Giáp Thân, khi Công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre trên đường đi nhậm
chức, nhận được chỉ thị của Chính phủ ở Paris đi cùng với Khâm sứ Rheinart ra
Huế thương lượng với Triều đình nước ta để sửa đổi vài khoản trong hiệp ước Qúi
Mùi cho thích hợp với chính sách chia để trị của Pháp.
Nhửng lần khác, có sự thay đổi chính thể trên đất nước ta, cũng
có những diễn biến tương tự. Trước tiên là có những dấu hiệu suy thoái để dẫn
tới một biến động. Mồi lửa châm ngòi nổ cũng đột ngột. Lấy thí dụ tiếp theo là
ngày 9 tháng 3 năm 1945 khi chỉ trong một đêm quân đội Nhật
tước khí giới quân đội Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Diễn biến này cũng bất
thường nhưng sự việc cũng có thể biết trước duy không biết là ngày nào xẩy ra
vì lẽ dễ hiểu là hai lực lượng quân sự, Pháp và Nhật, mà không phải là đồng
minh trong một trận chiến toàn cầu, thì tất nhiên không thể nào cùng sát cánh
đứng chung dài lâu được. Đầu mối làm quân đội Nhật phải phát động là Toàn quyền
Đông Dương khi đó là Đô đốc Jean Decoux, tuy trực thuộc chính phủ Vichy ở Pháp
nhưng có dấu hiệu đã liên lạc với Hải quân Hoàng gia Anh ở Viễn Đông.
Tiếp theo là ngày 15 tháng 8 năm 1945 khi Nhật xin
đầu hàng Hoa Kỳ. Sự việc này có thể đoán trước được khi chiến cuộc Thái Bình
Dương thu dần về Okinawa và tiến vể Tokyo. Dấu hiệu báo trước là ngày 26 tháng
7 năm 1945, khi Hội nghị các nhà lãnh đạo Đồng minh ở Postdam ra tuyên cáo đòi
Nhật đầu hàng. Ngòi nổ báo động sự việc là hai quả bom nguyên tử thả xuống
Hiroshima và Nagasaki những ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945. Vào dịp này Việt Minh
đã lợi dụng thời cơ cướp chính quyền vào ngày 19 tháng 8 năm
1945. Sau đó, Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam độc lập
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhưng vào ngày này thế giới chỉ chú trọng vào Lễ
đầu hàng của Nhật do Đại Tướng Douglas MacArthur chủ toạ trên chiến hạm USS
Missouri đóng neo ngay ở ngay vịnh Tokyo.
Thời điểm lịch sử tiếp theo là ngày 7 tháng 5 năm
1954 khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ. Đây là ngòi nổ đưa đến hiệp
định Genève chia đôi đất nước vào ngày 20 tháng 7, năm 1954 và
dẫn đến sự thành lập Việt Nam Cộng Hoà ở dưới vĩ tuyến 17. Sự việc này cũng là
đột biến vì trước đó một năm hay chỉ là vài tháng thôi, không ai nghĩ đến chuyện
có giòng sông Bến Hải ngăn cách Bắc và Nam, hai miền của đất nước.
Mốc lịch sử tiếp theo mà chúng ta không ai quên được là
ngày Quốc Hận 30 tháng Tư năm 1975.Biến động này bắt
nguồn từ ba năm trước đó, sau khi Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon sang thăm Chủ
Tịch Trung Cộng Mao Trạch Đông để sau đó cho Henry Kissinger mật đàm với Lê Đức
Thọ soạn thảo hiệp định ngưng chiến ký ngày 27 tháng Giêng năm 1973 cho Nixon
được rút quân Mỹ về nước nhưng lại để cho VC với sự trợ giúp khí giới của Nga
sô mở cuộc tấn công toàn diện vào miền Nam VN bắt đầu từ ngày 13 tháng Chạp năm
1974. Những ngày cuối cùng, quân viện không đầy đủ, Quân Lực VNCH bị bó tay, đã
chiến đấu tới viên đạn và giọt xăng cuối cùng. Ngòi nổ báo động lần này chính
là vụ Watergate đã xẩy ra để cho Nixon phải từ chức ngày 9 tháng 8 năm
1974.
Qua nhửng sự phân tích kể trên, nếu chúng ta muốn biết đất nước
Việt Nam, dưới sự cai trị độc tài và thiếu nhân tính của Đảng Cộng Sản sẽ đi về
đâu, và muốn đoán được thời điểm nào chế độ cộng sản Việt Nam sẽ tàn lụi thì
phải theo thứ tự:
·Tìm dấu hiệu
suy sụp.
·Tiên đoán dài
hạn.
·Tìm điềm báo
hiệu.
Một nhận xét chung là mỗi lần quốc biến như vậy bao giờ cũng có
sự tham dự của các nước liên hệ trực tiếp như Pháp và Hoa Kỳ và gián tiếp như
Nga và Trung Quốc. Xét về tình hình hiện tại trên nước nhà mà muốn có một nhận
xét về tương lại của đất nước, ta phải xét về sự liên hệ giữa hai nước Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà ta viết tắt là VN và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
mà ta dùng chữ quen thuộc để viết tắt là TQ. Ngoài ra trong bài viết này, khi
nói đến những chế độ cầm quyền độc tài cộng sản thì chúng tôi dùng nhửng danh
từ là Việt cộng và Trung cộng.
Hiện Tình Chủ Quyền Đất Nước
Tình hình thế giới đang trở nên căng thẳng . Quyết định cuả Hoa
Kỳ quay trở lại Á Châu đã nói lên vấn đề trầm trọng cuả mối đe doạ đến từ Trung
cộng. Sau khi nước này lớn mạnh do nhận được sự đầu tư cuả chính Hoa Kỳ và các
nước Tây Phương, Trung cộng đã duy trì toàn bộ hệ thống chính quyền cai trị sắt
máu thời cách mạng vô sản và hệ thống kinh tế chỉ huy quốc doanh, tích lũy toàn
bộ nguồn vốn khổng lồ vào Nhà Nước. Người dân hoàn toàn không được hưởng mọi
điều, kể cả nhân quyền và đời sống vật chất thường ngày. Trung cộng dùng nguồn
vốn thu thập được mang đổ vào Phi Châu và Nam Mỹ để khai thác tài nguyên khoáng
sản trong đó có dầu mỏ. Trung cộng cũng đã dồn nguồn vốn vào nỗ lực trang bị
quốc phòng và canh tân vũ khí. Những nhà nghiên cứu chính trị quốc tế phải nhìn
thấy ngày nay Trung cộng tin rằng đã đủ mạnh về kinh tế để có thể hất cẳng các
nước Tây phương ra khỏi lục địa Phi châu và đe doạ quyền lợi cuả Hoa Kỳ tại
chính Mỹ Châu và Trung Đông, đồng thời lấn chiếm, gây bất ổn khắp nơi trên thế
giới, trong đó có Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Riêng với Việt Nam thì Trung cộng là nước lân bang “Sông liền
sông núi liền núi” đã từng có “Hạt gạo cắn làm đôi” thì VN không thể không bị
ảnh hưởng và bị xử dụng như một “Chiến trường lớn cho Hậu phương lớn của Trung
cộng lần thứ hai” trong bối cảnh hiện nay. Ta hãy nhìn tình hình Chủ Quyền đất
nước hiện nay trong tình hình tranh chấp Biển Đông như thế nào. Đối với thế
giới, Tập Cẩm Bình khi họp thương đỉnh tại Hoa Kỳ ngày 8 tháng 6 năm 2013 đã
ngang ngược coi thường Quốc Tế, và dám tuyên bố với Tổng Thồng Barack Obama
rằng: "Thái Bình Dương mênh mông đủ chỗ cho hai
nước lớn Hoa Kỳ và Trung Hoa”.
Việt Nam trong lịch sử từ cổ chí kim, luôn bị Trung quốc từ
phương Bắc tìm cách thôn tính và bằng mọi cách đồng hoá trong 4 thời kỳ Bắc
thuộc nhưng đều bị thất bại. Ngày nay Trung cộng đang hung hãn chiếm đoạt toàn
bộ Biển Đông một cách thô bạo và ngang ngược, bất chấp chủ quyền cuả các nước
trong vùng, bất chấp luật lệ quốc tế vả các yếu tố lịch sử đã thành văn có
chứng tích qua nhiều niên kỷ. Trung cộng đã ngang nhiên tự vẽ lằn ranh biên
giới trên biển với hình lưỡi bò lấn sát vào bờ biển các nước mặc dầu Quốc tế đã
quy định về thềm lục điạ cuả mỗi nước là hai trăm hải lý. Trung cộng đã lấn sâu
vào bờ biển các nước trong vùng Biển Đông chỉ còn hai mươi hải lý và tuyên bố “chủ
quyền này không thể tranh cãi”. Với hành động này, Hải lộ quốc tế trên Biển
Đông đi từ Nhật Bản, Nam Hàn qua Ấn Độ Dương, để đi tới Phi châu và Trung Đông
sẽ đi qua vùng Trung cộng kiểm soát. Trên đất liền, Trung cộng cũng không từ bỏ
mọi hành động thôn tính các nước lân bang, và đã chiếm đoạt và sáp nhập Tân
Cương và Tây Tạng vào lãnh thổ Trung cộng. Việt Nam cũng không tránh khỏi mưu
tính này.
Trong Chiến Tranh Lạnh, miền Nam Việt Nam đã từng là vị trí
chiến lược mà Hoa Kỳ đã hiện diện trong nhiều thập niên để ngăn cản không cho
làn sóng Chủ Nghiã CS tràn xuống Đông Nam Á và Nam Bán Cầu. Nhưng với Hiệp Ước
Paris, Hoa Kỳ đã bí mật ký kết để cho Hà Nội tiến chiếm Miền Nam thống nhất
lãnh thổ để thiết lập thế Chiến Lược mới khi quyết định xoá bỏ VNCH để đổ nguồn
vốn khổng lồ đầu tư vào Hoa Lục trong kế hoạch Toàn Cầu hoá nền Kinh Tế Thế Giới.
Trung cộng đã không bỏ lỡ cơ hội khi Hoa Kỳ rút khỏi VN, và đã bằng mọi cách,
gây ảnh hưởng mạnh mẽ vào đất nước này. Hiện nay ta có thể coi như là Trung cộng
đã kiểm soát VN hoàn toàn. Mở đầu là cuộc chiến biên giới năm 1979, khi Đặng
Tiểu Bình nói là phải “Dạy cho VN một bài học”. Sau đó, Hà Nội hoàn toàn cúi
đầu thần phục Bắc Kinh.
TQ coi VN như một điạ điểm chiến lược trên đất, gắn liền với
Biến Đông. Ảnh hưởng mạnh mẽ cuả TQ đến VN đang thể hiện trong nhiều lãnh vực
từ chính trị, kinh tế, môi trường đến văn hoá và lịch sử dân tộc. Trước hết là
kế hoạch khống chế hai nguồn nước Hồng Hà và Cửu Long cuả hai đồng bằng vựa luá
lớn cho cả nước. TQ đã đắp nhiều đập ngăn nước trên thượng nguồn cả hai con sông chính của
VN. Với dòng sông Hồng sau khi các đập thuỷ điện trên thượng nguồn sông Đà và
Sông Hồng bên kia biên giới đóng lại thì toàn vùng luá gạo đã bị kiệt nước nhiều tháng. Các con đập trên thương nguồn sông Mekong phiá TQ đã làm lượng nước phù sa giảm đi nhiều khiến nước biển tràn vào cửa sông Cửu Long làm nước ở
cửa biển bị nhiễm mặn. Một khi con đập cuối cùng tại Lào đắp xong thì Trung cộng có thể vắt kiệt nước sông Cửu Long. Hiện nay đang có sạt lở khắp nơi tại Cà Mau, là vùng đất
phù sa bồi nhiều trăm năm trước. Thêm vào nữa, vì TQ kiểm soát lượng nước ở
thượng nguồn nên ngoài việc hạn chế được sự sản xuất của hai vựa lúa ở những
đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, còn làm cho cuộc sống của ngừoi dân Việt
làm nghề chài lưới càng thêm khốn khổ.
Từ ngày Việt Minh cướp chính quyền, và trong suốt thời gian
chống Pháp, và sau này trong cuôc tấn công để cưỡng chiếm miền Nam, Việt cộng
đã lệ thuộc hoàn toàn vào Hoa Lục, với sự chỉ đạo trực tiếp cuả Trung cộng. Tới
thời gian hiện tại, mọi chỉ thị cuả Bắc Kinh đang được âm thầm thực hiện, đều
theo kế hoạch làm biến toàn thể VN thành một bộ phận của TQ. Đất nước đang bị
Cộng Sản Hà Nội giao hoàn toàn cho Bắc Kinh quyết định.
Các rừng đầu nguồn, từ Bắc chí Nam đã cho quân Trung cộng âm
thầm chiếm đóng trong kế hoạchcho thuê rừng đầu nguồn dài
hạn 50 năm. Các làng TQ mọc lên khắp nơi tại VN cũng như kế hoạch khai thác Bô
Xít tại cao nguyên Gia Rai và các công trình trúng thầu xây cất nhà máy ở khắp
nước mà công nhân được tuyển dụng tại TQ, và khí cụ được chuyển sang từ phương
Bắc. Việt cộng đã bị ép buộc phải bỏ chiếu khán nhập cảnh cho Trung cộng và
điều này làm cho cuộc di dân TQ tràn ngập sang VN. Tại VN, người dân bị cướp
đoạt mọi quyền tự do nên cho đến nay không có một cuộc kiểm tra thống kê chính
thức để biết kế hoạch kiểm soát và Hán hoá VN đã tiến hành đến mức độ nào hay
đã vượt quá mức báo động như đã lên tới 40% xẩy ra trước đây ở Miến Điện.
Tình Hình Quân Sự
Để chuẩn bị xâm chiếm miền Nam của chính phủ VNCH, Việt cộng đã
từng có một đạo quân gồm hơn một triệu người được tiếp viện võ khí đầy đủ bởi
Liên Sô và có sự hậu thuẫn và cố vấn của Trung cộng. Sau thời điểm 1975, Việt
cộng bị giằng co giữa hai thế lực cộng sản là Trung cộng và Liên Sô. Để làm
giảm lực lượng của Việt cộng nên Trung cộng đã viện trợ quân sự cho Căm Pu Chia
dưới sự lãnh đạo của Khmer Đỏ để giúp cho quân đội nước này quấy rối biên giới
VN và có lần đánh chiếm đảo Phú Quốc, và bắt đi mấy trăm người dân Việt sống
trên đảo. Vì muốn chấm dứt tình trạng này nên vào ngày 13 tháng 12 năm 1978
Việt cộng đã tấn công toàn diện và chiếm đóng Căm Pu Chia để lật đổ chế độ
Khmer Đỏ. Chiến dịch này đã làm cho giới lảnh đạo Trung cộng nổi giận và mở đầu
cho cuộc chiến Việt-Trung kéo dài từ ngày 17 tháng 2 cho tới ngày 18 tháng 3
cùng trong năm 1979, chỉ chấm dứt khi Trung cộng tuyên bố là đã thực hiện được
kế hoạch trận chiến đánh chiếm 6 tỉnh biên giới và tuyên bố lui quân. Tuy chỉ
diễn ra trong thời gian ngắn ngủi nhưng cả hai bên đều thiệt hại nặng, số tử
vong mỗi bên đều lên tới hàng mấy chục ngàn quân binh. Vì trận chiến diễn ra
trên phần đất VN nên người dân thường đã phải trả giá nặng nề về nhà cửa và
nhân mạng. Sau cuộc chiến tranh chính thức, những cuộc xung đột biên giới còn
kéo dài thêm mười năm cho đến năm 1989 mới tạm ngưng tiếng súng. Qua cuộc chiến
này cả hai bên cùng rút được nhiêu kinh nghiệm, nhưng khi đem áp dụng thì lợi
thế lại về bên Trung cộng. Trong những ngày đầu đưa quân qua biên giới, Trung
cộng có “đạo quân thứ Năm” xuất hiện là những người Việt gốc Hoa dã từ lâu sinh
sống ở những tỉnh địa đầu và những kiều dân này đã hướng dẫn những đoàn quân
tiên phong chiếm đánh những vị trí quan trọng. Một kinh nghiệm đau thương nữa
cho VN là đoàn quân Trung cộng đã rất dã man, bắt và hãm hiếp phụ nử không kể
là người dân thường hay cả những phu nữ mặc quân phục bị bắt như là tù binh.
Những sác người loã lồ còn để lại bị cắt vú, mổ bụng, hình ảnh trông thật
thương tâm, mà Việt cộng phải che dấu vì nếu công bố ra sẽ làm lòng dân phẫn
nộ, hận thù Tàu khựa, và đàn anh Trung cộng nổi giận. Những hình ảnh này mới
đây đã được tìm thấy và công bố trên các mạng lưới toàn cầu. Bài học cho phe
Trung công là, dùng bộ chiến, họ đã đánh giá thấp sự phản công của Việt cộng và
trong hai ngày đầu lâm trận phe Trung cộng đã có 4000 binh sĩ thương vong. Với
một quân số vào khoảng 120 ngàn tràn qua biên giới bằng ba ngả mà phải nhiều
ngày mới chiềm được ba tỉnh thành lớn là Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn.
Rút kinh nghiệm chiếm đóng VN bằng võ lực không phải là đắc
sách, Trung cộng nay đã dùng chính trị và kinh tế để ép được Việt cộng phải
hàng phục, dâng đất, dâng biển và trên thực tế đã chiếm trọn được toàn thể VN
bằng những biện pháp di dân, lũng đoạn kinh tế và mua chuộc lãnh đạo. Khởi đầu
trong kế hoạch di dân để thành lập “đạo quân thứ Năm” trên toàn quốc, Trung
cộng đã cho quân sang làm
thường dân tiến qua biên giới, từ xa lộ huyết mạch Hoa Nam nối với Đường Trường
Sơn vào tới Bình Dương nơi lập raĐông Đô Đại Phố là một trung tâm kinh tế lớn
với kiến trúc hoàn toàn đặc
trưng văn hoá Hán Tộc. Các làng TQ đã mọc
theo, người TQ tự làm, tự quản không tiếp xúc với người Việt mà chỉ xử dụng
Đường Trường Sơn qua xa lộ Hoa Nam để về nước. Các kế hoạch bố trí quân sự cuả
Trung cộng đã làm cho một số cấp chỉ huy quân sự Việt cộng nay nghỉ hưu phải lo
ngại. Một vài người đã lên tiếng về kế hoạch trồng rừng và chiếm lĩnh cao điểm,
trá hình là trung tâm khai thác Bô Xit, thuộc vào chiến lược quân sự của Trung
cộng, nhưng không được chú ý. Các lực lượng tranh đấu cho nhân quyền trong
nước, đang từng bước đòi hỏi sự bạch hoá này cho toàn dân được biết, nhưng đang
bị đàn áp khốc liệt.
Với chiến lược gài quân ở khắp nơi, dùng những đập nước ở thượng
nguồn để làm áp lực kiểm soát sự sản xuất lúa gạo, và cùng một lúc khủng bố dân
Việt làm nghề chài lưới ở Biển Đông, Trung cộng nay đã hoàn toàn khống chế Việt
cộng về kinh tế. Chiến tranh biên giới Việt-Trung như năm 1979 chắc chắn không
thể xẩy ra được nữa. Trong chuyến sang Bắc Kinh của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang những ngày 19-21 tháng 6 năm 2013 để nhận chỉ thị của Tập Cận Bình trước
khi sang Hoa Kỳ theo lời mời của Tồng thống Barack Obama, TQ và VN đã ra một
Tuyên Bố chung. Những ai đọc bản thông báo này đều thầy ngay là một bản dịch
sang tiếng Việt từ bản chính viết bằng Hoa ngữ. Nội dung chỉ là toàn thể mọi
bàn thảo nào trong tương lai đều phải dựa trên phương châm “láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” với
tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt”. Đặc biệt là sáu tỉnh trên đất Việt ở sát biên
giới là Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh đã bị Trung
cộng chiếm đóng trong trận chiến năm 1979 thì nay Trung cộng đề nghị là có sự
hợp tác điều hành chung ở những nơi đó và còn cộng thêm Điện Biên Phủ, không
phải là tỉnh biên giới vì nằm sâu trong nước Việt. Trung cộng đã nhìn ngay thấy
đây là một địa điểm chiến lược nằm trên Đường Trường Sơn và họ cần được quyền
kiểm soát và quản lý nên ghi là một vị trí hợp tác. Nội dung của bản Tuyên Bố
chung từ đầu đến cuối chỉ dựa trên căn bản “gác tranh chấp, cùng
chung khai thác” nhưng mọi vấn đề tranh chấp, đất và biển đều xấy
ra trên đất nước Việt Nam. Ngoài ra hai bên cùng hứa xây dựng Trung tâm Văn hoá
của nước này ở nước kia, nhưng trên thực tế sẽ chỉ là chương trình phổ biến dậy
tiếng Hán và văn hoá TQ cho trẻ em Việt, từ những lớp tiểu học chứ có bao giờ
Việt cộng được phép mang những bài “Bình Ngô Đại Cáo” hay “Hịch Tướng Sĩ Văn”
sang giảng dậy cho Tầu khựa.
Lực lượng quân sự của Việt cộng khi xưa đã có lần tấn công ào ạt
sang Căm Pu Chia và có thời kỳ chống trả lại một cách quyết liệt sự tấn công
qua ba ngả biên giới của Trung cộng thì nay chỉ còn lại như kiểu dân quân tự vệ
để cho Đảng xử dụng trong những cuộc càn quét dân chúng phụ lực với lực lượng
công an. Theo tin chính thức thì quân lực Việt cộng nay gồm có 400.000 Bộ binh,
50.000 người cho Hải quân và 30.000 người cho Không quân. Cộng thêm vào có thêm
60.000 người cho Bộ đội Biên phòng và ước lượng có 260.000 người cho lực lương
Công an Cảnh sát. Một mặt khác, để tranh dành ảnh hưởng giữa những cấp lãnh đạo
đảng trong những năm vừa qua đã có nhiều sự thanh trừng trong nội bộ, hoặc cho
về hưu nhiều tướng lãnh, hoặc cho thăng chức lên cấp tướng nhiều sĩ quan ở các
phe phái nhưng chưa có một ngày chiến trận, thậm chí có nhiều tin tức về tai
nạn mày bay làm tử nạn cả một bộ chỉ huy và tham mưu cấp quân đoàn. Những cuộc
thanh trừng xẩy ra liên tục đểtiêu diệt các thế lực đối kháng Trung cộng trong nội bộ lãnh đạo của
Việt cộng. Đã có những tin sau này được tiết lộ như toàn bộ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 tại Thanh Hoá khi bay
lên thị sát mặt trận Hải quân, bị bắn cháy chết toàn bộ. Một tin khác cho biết
phi cơ chở phái đoàn cấp Bộ trưởng từ Hà Nội đi Lào họp bị nổ tung trên biên
giới Lào Việt. Những tin tức này tất nhiên được giới lãnh đạo giữ kín, thỉnh
thoảng mới bị lọt ra và không được kiểm chứng. Tuy vậy, đã có những tin thanh
trừng được chính thức loan báo như việc toàn bộ Tư Lệnh của 7 Quân Khu khắp nước đã bị thay thế, đểkhông thể đồng lòng chống ngoại xâm Trung cộng. Điều mà truyền thông quốc tế
được biết và loan tải rộng rãi là toàn thể những người khởi xướng các phong
trào yêu nước, chống sự khống chế của Trung cộng đều lần
lựot bị bắt bớ giam cầm và xử án nặng nề. Những từ ngữ tuyên truyền khi xưa như“Quân
đội Trung với Đảng, Hiếu với Dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng” giờ đây không còn ý nghĩa gì nữa. Nói chung thì hiện nay
Quân Đội Nhân Dân Việt Nam chỉ là một lực lượng để cho giới lãnh đạo xử dụng
phòng ngừa sự nổi dậy của dân chúng mà thôi. Kẻ thù truyền kiếp là TQ thì hiện
nay đang điều khiển giới lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Những nhân vật
nắm quyền trong tay, giờ chỉ là những Thái Thú nhận lệnh của Trung cộng, và dựa
vào Đảng để chia chác quyền lợi. Ngay cả trong việc sửa đổi Hiến pháp họ còn bố
trí để có điều khoản là nhiệm vụ chính của Quân Đội Nhân Dân là bảo
vệ Đảng cộng sản Việt Nam. Ta chỉ cần xét những đề
nghị đòi hỏi phải sửa đổi bản dự thảo Hiến pháp do Việt cộng đưa ra năm 2012,
và bản đề nghị chung này đã có chữ ký của 72 nhân vật sáng giá ở đủ mọi thành
phần, nhiều ngưởi đã từng được chế độ ưu đãi. Đặc biệt là đề nghị sửa đổi điều
nói về quân đội được trích nguyên văn như sau:
“Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của
bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang
chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng
vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành
với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Chúng tôi yêu cầu
bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt
Nam.”
Quân Đội Nhân Dân Việt Nam không còn được bố trì để phòng ngừa
một sự tấn công qua biên giới phía Bắc nửa vì chiến thuật của Trung cộng là
dùng hoả tiễn tầm trung đặt tại Quảng Đông để cảnh cáo Việt cộng. Gần đây, có thông tin cho
hay Trung Quốc vừa thiết lập Lữ
đoàn 827 tại thành phố
Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông xử dụng loại hoả tiễn Đông Phong có tầm bắn vào khoảng
1.200 km. Kế hoạch chiến lược của Trung cộng đưa hỏa tiển tầm trung tới Hoa Nam
không hẳn chỉ dùng để doạ đàn em Việt cộng nhưng trong trường hợp Biển Đông dậy
sóng có sự hiện diện của Hải quân Hoa Kỳ thì những hoả tiễn này có thể được đưa
ngay xuống dọc đường Trường Sơn, nơi đây đã có những căn cứ Trung cộng được
thiết lập với đầy đủ quân số trong kế hoạch khai thác rừng và khoáng chất mà
Việt cộng đã nhường cho Trung cộng. Những dàn hoả tiễn đặt theo Đường Trường
Sơn sẽ là khí giới mãnh liệt để trấn giử Biển Đông cho Trung cộng. Tin tức mới
đây đưa ra là VN đã đặt mua 6 tầu ngầm loại Kilo của Nga và sẽ nhận chiếc đầu
tiên vào năm 2013 đã làm cho những nhà nghiên cứu chiến thuật thắc mắc không
biết VN đề phòng hải phận để chống Hải quân nước nào.
Khi bài này được soạn thảo gần xong thì Việt cộng đang hồ hỡi
loan tin về Chủ tịch nước Trương Tấn Sang được Tổng Thống Barack Obama mời sang
thăm viếng Hoa Kỳ và tiếp đón tại Toà Bạch ốc ngày 25 tháng 7 năm 2013. Nhưng
thử hỏi cách đây hơn một tháng, những ngày 19-21 tháng 6, Trương Tấn Sang đã
sang Bắc kinh triều kiến Tập Cận Bình để nhận chỉ thị và ký văn kiện chính thức
dâng nước cho Trung cộng, trong bản tuyên bố chung dài khoảng 3 trang từ đầu
đến cuối toàn những điều tuân theo, gồm có 60 chữ “hợp tác”, 29 chữ “nhất trí”
và 7 chữ “toàn diện” để thực hiện những sự cải cách ngay trên đất nước mình
theo ý kiến của TQ, thì Việt Nam còn gì nữa đâu để trao đổi với cường quốc Hoa
Kỳ. Theo những nhà bình luận chính trị thì Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã
không được tiếp đón như một quốc khách theo đúng lễ nghi. Chuyện thăm viếng chỉ
cốt làm cho Tổng Thống Hoa Kỳ ghi được thêm thành tích là đã gặp gỡ tất cả mọi
Quốc trưởng các nước trên địa cầu và rồi đây được mời tới cả những nơi chưa
được ánh sáng dân chủ và tư do soi tới.
Kết Luận
Qua 4 thời kỳ Bắc Thuộc, trong Lịch sử Dân Tộc VN chưa hề có một
lần dân Việt chịu khuất phục Bắc Phương, bị Hán hoá hoàn toàn. Các cuộc nổi dậy
dành lấy Độc lập và Tự chủ bao giờ cũng do lòng người dân phẫn uất với chế độ
cai trị bạo tàn, và nổi lên chống quân xâm lươc. Ngày nay một khi Đảng cộng sản
Việt Nam còn đàn áp người dân yêu
nước thì điều hiển nhiên là Việt cộng đang tiếp tay cho Trung cộng để tạo ra
một cuộc thống trị lâu dài đất nước, xáp nhập và đồng hoá hoàn toàn VN vào TQ.
Chế độ hiện tại đã đồng loã với ngoại bang để đặt ra chương trình học chữ Hán
từ cấp tiểu học trở lên, để chuẩn bị cho một thời kỳ Bắc Thuộc. Ta có thể nghĩ
đó là điềm báo hiệu có sự thay đổi sau nhiều năm tháng dài chờ đợi. Toàn thể
dân tộc VN tất nhiên không thể chấp nhận một cuộc Bắc Thuộc lần thứ năm và chắc chắn một cuộc khởi nghiã sẽ phải
bùng lên.
Năm 2001 Luật Sư Lê Chí Quang đưa lên mạng lưới bài “Hãy
cảnh giác với Bắc Triều” trong đó người trí thức trẻ vì đau lòng
với vận nước, đã viết:
“Các triều đại phong kiến của ta chưa bao giờ phải mất một tấc
đất nào cho Trung Quốc. Ngay cả những kẻ hèn nhát như Mạc Đăng Dung quỳ gối xin
hàng giặc hay Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà cũng chưa dám dâng đất cho
Trung Quốc. Thế mà giờ đây, khi cộng đồng nhân loại đã văn minh hơn, cá lớn
không thể nuốt cá bé dễ dàng như xưa thì ai đó lại cam tâm cúi đầu mãi quốc cầu
vinh xin dâng phần lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc để mong sự bảo trợ cho
quyền lãnh đạo độc tôn của mình!”
Bài viết này đã làm cho anh bị bắt bớ, và tù đầy. Hơn mười năm
sau nhiều bạn trẻ trong nước đã lên tiếng chống Tầu khựa và không còn sợ hãi
đảng cầm quyền. Vấn đề hiện nay không còn giới hạn là “cảnh giác” nữa, cũng
không còn ở mức “hiểm hoạ” nữa mà thật sự đất nước Việt Nam đã mất vào tay
Trung Quốc. Thị thành dọc biên giới đã mất, rừng mất, biển mất, cao nguyên mất,
người TQ tràn ngập lãnh thổ do lệnh bỏ chiếu khán nhập cảnh qua biên giới. Theo
những tin tức đưa ra từ trong nước, giới lãnh đạo già nua còn ngoan cố, chia
nhau quyền lợi để tham ô vơ vét tài lợi, bám lấy địa vị độc tôn, nhưng tuổi trẻ
đang nổi giận. Lòng Yêu Nước trong mỗi thanh niên đang bùng cháy. Một Lê Chí
Quang, một Lê Công Định, một Việt Khang và ngày nay các sinh viên Đinh Nguyên
Kha, VũPhương Uyênlấy máu mình viết thành lời nguyền chống
“Tàu Khựa” và họ đã bị đàn áp khốc liệt, nhà tù đang mỗi ngày một đông. Người
Việt ở hải ngoại phải cùng nhau đoàn kết, hết lòng hỗ trợ những nhà tranh đấu
cho dân chủ, và nhân quyền ở trong nước. Họ đang chờ đợi những tiếng nói và
những hành động cụ thể của chúng ta. Chúng ta cũng nên cảnh giác những mưu đồ
thâm độc của Việt cộng hòng chia rẽ người Việt ở khắp nơi qua Nghị quyết 36.
Chúng ta nên tránh đừng để sa vào bẫy xập của Việt cộng. Ở mỗi nơi, có một tổ
chức ái hửu hay đồng hương vừa thành hình thì Việt cộng lại mưu đồ lập thêm ra
một tổ chức khác trông như vẻ cạnh tranh nhưng thửc ra là gây chia rẽ. Hàng
ngày chúng tung lên mạng lưới nhưng tin tức về người này, đảng phái nọ, tôn
giáo kia, hầu hết là những chuyện bịa đặt, cốt để gây tranh cãi, làm chúng ta
quên được sự việc bán nước, tham nhũng đang xẩy ra trên quê hương. Những hành
động gây chia rẽ này sẽ làm cho những người có lòng phải nản chí. Riêng với
người viết bài này, và những người đồng chí hướng, thì những thủ đoạn chia rẽ
nhau của Việt cộng chỉ làm cho chúng tôi thêm ý chí muốn cùng nhau đoàn kết mà
thôi.
Phụ chú:
1/ Bài viết này ghi lại những lời thuyết trình của tác giả tại
buổi Hội thảo về “38 Năm Nhìn Lại-Hiện Tình và Tương Lai Việt
Nam” do Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An - Nam California tổ
chức ngày Chủ Nhật 14 tháng 7 năm 2013 tại Le-Jao Center của Đại Học Costline
Community College, thành phố Westminster, với 5 diễn giả là những GS Nguyễn
Xuân Vinh, GS Lưu Trung Khảo, GS Phạm Cao Dương, GS Trần Huy Bích và GS Trần
Lam Giang.
Tác giả ghi nhận sự giúp đỡ tìm kiếm tài liệu của Ban Nghiên Cứu
- Tập Thể CSVNCH/HN.
2/ Buổi Hội Thảo được Ban Điều Hành tổ chức rất trịnh trọng và
đúng giờ với số người tham dự lên tới trên 300 người ngồi chật hội trường và
chăm chú nghe suốt chương trình từ 1:00 giờ trưa tới 4:00 chiều. Sau phần thuyết
trình, khán thính giả quan tâm tới vận nước đặt ra rất nhiều câu hỏi. Về những
câu hỏi đặt ra với diễn giả muốn nghe câu trả lời về “bao giờ chế độ
cộng sản VN sẽ sụp đổ?” tác giả đã kể lại kỷ niệm vui là trong
buổi gặp gỡ trước đây, chuyên gia về Chiến Tranh Việt Nam là ông Douglas E Pike
có hỏi lại là: “Ông là giáo sư về Astrodynamics tại Đại Học danh tiếng
University of Michigan và cũng đã từng giảng dậy ở UC Berkeley, vậy ông có thể
tiên đoán được hay không về thời điểm chính xác khi một vệ tinh nhân tạo hết
hạn kỳ và rơi trở lại tan vỡ ra thành từng mảnh vụn trong bầu khí quyển của
trái đất?”. Câu trả lời của diễn giả là sau khi quan sát qũy đạo một thời gian
người ta có thể biết là “vệ tinh nhân tạo sẽ có ngày rơi vào bầu khí
quyển duy chỉ khó lòng tiên đoán được ngày giờ mà thôi”.
3/ Câu chuyện bên lề là nhiều khoa học gia đã viết bài về lý
thuyết “Life-time of artificial Earth satellite”. Về lý thuyết trở về bầu khí
quyển của phi thuyền hay vệ tinh nhân tạo tác giả có viết một sách chuyên khoa
với đề là “Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics” viết
chung với nhà bác học người Đức là GS Adolf Busemann và khoa học gia Hoa Kỳ là
GS Robert D Culp. Một cựu sinh viên tiến sĩ của tác giả là ông James M
Longuski, khi làm việc tại Jet Propulsion Laboratory thuộc cơ quan NASA, có cho
JPL ấn hành một phần luận án của ông với đề là “Analytic Theory of
Orbit Contraction and Ballistic Entry into Planetary Atmospheres” .
Theo lý thuyết này, được kiểm nghiệm rất chính xác thì khi vệ tinh nhân tạo có
hình ellip với cận điểm thấp gần bầu khí quyển thì mỗi lần chạy qua, có sự cọ
xát với làn không khí dù rất mỏng manh cũng sẽ làm giảm dần vận tốc và làm cho
viễn điểm hạ thấp dần để cho qũy đạo co lại. Khi viễn điểm tới bằng cận điểm,
qũy đạo thành hình tròn, đó là điềm báo hiệu chỉ còn vài ngày là vệ tinh rơi
vào bầu khí quyển và trong mấy vòng cuối cùng sự chuyển đổi qũy đạo sẽ rất mãnh
liệt chứ không còn đều đặn như trước. Tiến sĩ Longuski nay là giáo sư Đại Học
nổi tiếng Purdue University ở Lafayette, Indiana.
Chuyện sụp đổ của chế độ cộng sản Việt Nam có lẽ cũng tương tự,
và giống như những chế độ độc tài ở các nước Trung Đông. Người dân sẽ mất dần
lòng tin, và khi lòng dân uất hận đã lên cao độ và bùng nổ thì chính biến xẩy
ra kéo xập chế độ chỉ trong vài ngày.
4. Để trả lời câu hỏi đặt ra, tác giả đã nhắc lại tập thơ “Đố
Vui Việt Sử” viết cùng với học giả Đào Hữu Dương. Cụ Đào Hữu Dương
viết ra 100 câu hỏi theo thể thơ lục-bát, và tác giả đã trả lời mỗi câu hỏi
bằng hai câu thơ cũng theo thể thơ lục-bát. Hai câu hỏi cuối cùng trong tập thơ
là
99 Mùa Xuân nào phá quân Thanh?
100 Bao giờ trở lại thanh bình Việt Nam?
Để làm kết luận cho bài viết này tác giả xin ghi lại những câu
trả lời
99 Quang Trung thần tốc phát binh,
Mùa Xuân Kỷ Dậu chiếm thành Thăng Long.
100 Lời ca con cháu Tiên Rồng,
Cộng nô tiêu diệt, non sông thanh bình.
Nhận Định
VỀ LỜI TUYÊN BỐ LẾU LÁO CỦA
TRƯƠNG TẤN SANG
LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI VIỆT TỴ
NẠN TẠI HOA KỲ
Để có sự nhận định đúng đắn về lời tuyên bố hàm hồ của Trương
Tấn Sang, một nhân vật tượng trưng cho chế độ độc tài cai trị hiện nay tại Việt
Nam, chúng ta đọc dưới đây nguyên văn lời của Trương Tấn Sang nói trong cuộc
họp báo ngày 25-7-2013 trong phòng tiếp khách tòa Bạch Ốc, liên quan đến người
Việt Tỵ Nạn cộng sản.
Trương Tấn Sang (nói bằng tiếng Việt):
Tôi cũng đã dành thời gian trao đổi với TT
Obama bày tỏ lời cảm ơn chân thành của chính phủ chúng tôi về sự chăm sóc hết
sức chu đáo của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ trong suốt quá trình mấy mươi năm
qua đối với bà con người Việt Nam sinh sống và làm việc mà bây giờ là người Mỹ
gốc Việt trên đất nước Hoa Kỳ….
Chúng tôi thành thật cảm ơn ngài TT và chính
phủ cũng như (nhân dân) Hoa Kỳ đã giúp đỡ rất là nhiều, phần lớn hầu hết (nhân
dân) Việt Nam, đồng bào của chúng tôi là những người Việt gốc Mỹ làm ăn ở Hoa
Kỳ hết sức thành đạt kể cả các (hoạt động) chính trị….
Nhân dịp này tôi cũng bày tỏ một sự mong muốn
của chính phủ Việt Nam rằng bà con người Việt đang sinh sống và làm việc tại
Hoa Kỳ sẽ là chiếc cầu vững chắc nối liền tình hữu nghị của nhân dân hai nước
và sự phát triển mạnh mẽ hai nước Hoa Kỳ Việt Nam trong thời gian tới…
Dưới đây là phần nhận định:
1- TTS gọi Cộng Đồng Người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ
là “đồng bào” của ông ta, tức là đồng bào với đảng CSVN
Đây là quả một sự “lộng ngôn” của Trương Tấn Sang, một lời tuyên
bố hết sức hàm hồ. Chắc chắn người Việt Tỵ Nạn cộng sản khắp nơi không thể là
“đồng bào” của Trương Tấn Sang và của đảng cộng sản Việt Nam. Đảng CSVN là tập
đoàn bán nước, dâng đất dâng biển cho Tàu Cộng với châm ngôn “4 tốt, 16 chữ
vàng”, cam tâm làm tay sai cho Tàu Cộng. Trương Tấn Sang vừa mới ký những văn
kiện 10 điểm hiện còn chưa ráo mực, dâng chủ quyền cho Tàu Cộng khi đến bái
kiến Tập Cẩm Bình tại Bắc Kinh vào cuối tháng 6 vừa qua.
Người Việt Nam chân chính không thể chấp nhận là “đồng bào” với
đảng CSVN, một tổ chức đã phạm những tội ác tày trời đối với dân tộc Việt Nam,
mang chủ nghĩa cộng sản về dầy xéo dân tộc, gây chiến tranh giết hại hàng triệu
người dân của hai miền. Vì thế Trương Tấn Sang và đảng cộng sản sẽ không thể
được xem là đồng bào với toàn dân Việt Nam.
2- “Chúng tôi thành thật cảm ơn ngài Tổng Thống
và chính phủ cũng như nhân dân Hoa Kỳ đã giúp đỡ rất là nhiều, phần lớn hầu hết
(nhân dân) Việt Nam..”
Sự thành hình của tập thể người Việt tỵ nạn trên thế giới nói
chung, tại Hoa Kỳ nói riêng là do không thể sống dưới sự cai trị độc tài, tàn
bạo của đảng cộng sản. Họ ra đi không phải vì lý do kinh tế, mà là lý do chính
trị, ra đi để tìm tự do.
Hàng triệu người khác đã bị nhà cầm quyền cộng sản cầm tù. Họ
được thả vì có áp lực của Hoa Kỳ khi bang giao với Hà Nội; họ ra đi định cư vì
không muốn ở lại với chế độ, và được Hoa Kỳ đón nhận trong chương trình nhân
đạo.
Đây là tội ác khác của đảng CSVN .
Chính phủ Hoa Kỳ là người bạn tốt của người dân Việt Nam. Dân
tộc Hoa Kỳ là một dân tộc rộng lượng, với truyền thống tự do, dân chủ, nhân
quyền đã hao tốn rất nhiều tiền bạc và xương máu để bảo vệ nền tự do cho miền
Nam Việt Nam. Chẳng may do bàn cờ quốc tế biến chuyển, Hoa Kỳ đã phải tạm thời
rút lui, để lại dân chúng miền Nam chịu bao cảnh đọa đày, hàng ngàn vạn người
chịu cảnh tù đày, hàng triệu người đã liều chết ra đi, nhiều ngàn người đã bỏ
thây trên biển cả, số may mắn được định cư ở các nước trên thế giới trong đó có
Hoa Kỳ. Chính phủ Mỹ đã đền bù sự đau khổ đó cho phép những người tỵ nạn cộng
sản được định cư tại Hoa Kỳ. Hầu hết đã thành đạt đúng như lời của Trương Tấn
Sang.
Sự thành công của người Việt tỵ nạn nói chung, người Mỹ gốc Việt
nói riêng là do sự do sự cần cù, thông minh, chịu khó của họ trong những môi
trường tự do dân chủ, với lòng vị tha, rộng lượng của Hoa Kỳ và các nước tự do
khác trên thế giới, là nơi có những cơ hội tốt dành cho mọi người. Sự thành công
của họ hoàn toàn không có liên hệ gì đến đảng cộng sản VN.
Người cám ơn ở đây phải là dân tộc Việt Nam, là của người tỵ
nạn. Đảng cộng sản Việt Nam không đủ tư cách đại diện cho bất cứ ai để lên
tiếng cám ơn nước Mỹ.
Chúng tôi yêu cầu Trương Tấn Sang hãy rút lại lời nói vô duyên,
trơ trẽn này của ông và của tập đoàn cộng sản tại Việt Nam chính là nguyên nhân
của mọi cuộc vượt biên, vượt biển, đào tỵ...
3- Người Mỹ gốc Việt là chiếc cầu vững chắc nối
liền tình hữu nghị của nhân dân hai nước và sự phát triển mạnh mẽ hai nước Hoa
Kỳ Việt Nam
Đây lại là lời tuyên bố không biết xấu hổ khác của Trương Tấn
Sang.
Cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ và ở các nước khác không
chấp nhận chế độ cộng sản tại Việt Nam, nên không thể là nhịp cầu tiếp tay cho
đảng CSVN sống còn, tiếp tục ngự trị quê hương Việt Nam. Ngược lại, họ sẽ là
nhịp cầu, là đòn bẩy hỗ trợ đồng bào trong nước đứng lên giải thể một chế độ mà
toàn dân trong và ngoài nước đều căm ghét và oán hận. 90 triệu người dân đều
muốn sống trong một chế độ tự do dân chủ, không cộng sản.
Chính phủ Hoa Kỳ có thể trong giai đoạn nào đó vì lý do chiến
thuật, chiến lược toàn cầu, tạm thời liên kết với chính quyền cộng sản Việt Nam
hiện nay, nhưng về lâu dài, Hoa Kỳ không thể là bạn với những chế độ độc tài
như chế độ cộng sản Việt Nam.
“Trương Tấn Sang, go home”, “đả đảo cộng sản”, “đả đảo cộng sản
bán nước”, “freedom for Vietnam”, “human Rights for Vietnam”… là những tiếng hô
dõng dạc trước tòa Bạch Ốc, vang vọng xuyên thấu phòng họp trong lúc Tổng Thống
Hoa Kỳ Obama tiếp đón TTS một cách lạnh nhạt, miễn cưỡng, không cờ không quạt,
không kèn không trống, thì làm sao Trương Tấn Sang lại dám ngang nhiên tuyên bố
những lời xấc xược, vô liêm sỉ với người tỵ nạn như vậy.
VỀ LỜI TUYÊN BỐ CỦA NGUYỄN THANH SƠN:
Theo BBC: “Ông Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban về
người Việt Nam ở nước ngoài, nói với Phố Bolsa TV, một cơ quan báo chí ở Mỹ
thân nhà nước Việt Nam, rằng những người chống lại chuyến thăm của Chủ tịch
Trương Tấn Sang mới đây tới Mỹ là vì "còn cố tình giữ trong lòng mình một
cái chút hận thù cuối cùng." Và "có những người chỉ vì đồng tiền, có
những người chỉ vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì có một chút thu
nhập thêm mà tham gia những hoạt động" mà ông nói "chỉ làm cho các
quý vị thêm khổ tâm, thêm phiền não, thêm buồn bực và rồi chính bản thân những
người bạn Mỹ của chúng ta lại trách quý vị là cản con đường hội nhập của Việt
Nam và cản quá trình phát triển Mỹ - Việt mà họ đang mong muốn."
Bấm để nghe:
Lời tuyên bố trên của Nguyễn Thanh Sơn chứng tỏ hắn ta chỉ là
một con chốt hạng bét, là cái máy nói tuyên truyền ngu xuẩn cho chế độ một cách
vô lương tâm, vô liêm sĩ, chẳng đáng để chúng ta bàn thảo cho mất thì giờ.
Một tên thứ trưởng đặc trách "người nước ngoài" mà lại
bài bác đối tượng cần phải tranh thủ, chứng tỏ ngày tàn của chế độ không còn
bao xa.
Ngày 29-7-2013
Ban Báo Chí
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia
Liên Bang Hoa Kỳ
--
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia
Liên Bang Hoa Kỳ
4905 E. Colonial Dr, Orlando, Fl 32803
Tel: 407-927-0014. Fax: 407-895-5787
------------
Các Cộng Đồng Thành Viên
hiện tại:
Arkansas, AR; Arizona, AZ; South
California, CA; Pomona. CA; San Diego, CA; Northern California, CA; Sacramento,
CA; Connecticut, CT; Florida, FL; Central Florida, FL; Tampa Bay, FL;
Jacksonville, FL; South Florida, FL; Pensacola, FL; Louisiana, LA; Massachusetts,
MA; St Louis, MO; Minnesota, MN; New Hampshire, NH; New Mexico, NM; New Jersey,
NJ; South New Jersey, NJ; New York, NY; Oklahoma City, OK; Philadelphia, PA;
Pennsylvania, PA; Pittsburgh, PA; Allentown, PA; Lancaster, PA; Northeast
Pennsylvania, PA.; Nashville, TN; Middle Tennessee, TN; Houston, TX; Dallas,
TX;
Quý CĐ nào muốn tham
gia, xin vui lòng liên lạc với chúng tôi. Đa tạ.
Mh
Cùng nhau "giải thiêng"!
Nguyễn Ngọc Già gửi
RFA từ VN
2013-07-29
Đang loay hoay tìm ý tưởng viết đề tài đương kim Chủ tịch Việt Nam
qua Mỹ với bức thư của Hồ Chí Minh gởi Harry S. Truman cách đây 67 năm mà nó
được chuyển đến Barack Obama, bỗng bắt gặp "'Giải thiêng', thuật
ngữ của sự phá hoại?" [1], do ký giả Mặc Lâm phỏng vấn TS. Vũ Thị
Phương Anh về luận văn của Thạc sĩ Đỗ Thị Thoan đang ầm ào trên các diễn đàn,
người ta gọi là "cuộc đấu tố" thời đại mới, một "nhân văn giai
phẩm" thứ hai. Những con chữ này làm nhiều người rùng mình sởn ốc về tội
ác của người cộng sản.
Chẳng lẽ cho đến ngày nay, người cộng sản lại tiếp tục muốn máu và nước mắt dân
Việt tiếp tục tuôn chảy không dứt?
"Giải thiêng", tại sao không?
"Giải thiêng", nói nôm na, làm cho sự vật, hiện tượng
trở nên bình thường như vốn có với sự phát triển tư duy của con người thông qua
khoa học ngày càng thăng tiến. Nó không có nghĩa báng bổ hay chà đạp. Đừng
"đồng hóa" một cách thô lậu, thiển cận như nhiều chục năm về trước.
Giữa đời thực thế kỷ 21, với sự tiến bộ ào ạt của khoa học kỹ
thuật thì giải thiêng là điều hiển nhiên như chúng ta... ăn cơm mỗi ngày. Đặc
biệt, đối với xứ sở toàn trị độc đảng như Việt Nam, luôn muốn làm dân mụ mị
trong những trò mê tín dị đoan thì "giải thiêng" càng vô cùng cần
thiết và cấp thiết.
Giữa một thế giới năng động ngày nay, những ấu trĩ, ngờ nghệch cho
đến đạo mạo, răn dạy theo kiểu bề trên, nên lùi vào dĩ vãng của thời đại mà một
tiếng sét cũng gây hoảng hốt để gán ghép cho "ông thiên lôi" đang nổi
giận (!). "Lôi thần" với chiếc búa cùng bộ mặt dữ dằn đã mất
"thiêng" từ "khuya" rồi! Nên nhường "ông ấy" lại
cho các nhà làm phim thần thoại.
Đã qua rồi cái thời, con cọp được kính cẩn gọi là "Ông Ba
Mươi", con chuột được sợ sệt gọi là "Ông Tý" nhằm tránh phạm
húy, hay sợ "nó" nghe được, "về" bắt người ăn thịt và quậy
phá càng ác liệt, vì "cái tội" con người "dám" gọi đúng tên
là "cọp", là "chuột" (!)
Cọp có quyền gọi là hổ. Chuột có quyền gọi là con vật truyền dịch hạch số một.
Mọi sự vật, hiện tượng nên được đặt tên và gọi đúng tên, một khi con
người đã xác định đúng bản chất vốn có của nó. "Giải thiêng" không
chỉ là trả lại sự vật, hiện tượng tính đúng đắn của nó mà còn giải phóng
con người thoát khỏi sợ hãi.
Đừng chụp mũ nó bằng chữ "nổi loạn", bởi giới trẻ ngày
nay đang mắc kẹt giữa "sự tự do" và "nỗi sợ hãi".
Nguy hiểm là điều có thật, nhưng sợ hãi là một sự lựa chọn. "Người lớn"
cần làm điểm tựa cho thế hệ trẻ chọn đúng cái họ cần.
Luận văn của Nhã Thuyên nói về nhóm "Mở Miệng" trong đó
có những bài thơ mà TS. Vũ Thị Phương Anh bày tỏ:
"Trong đoạn văn của Đỗ Thị Thoan có nhắc
đến nhóm Mở Miệng, nhóm này có nhắc đến Hồ chủ tịch. Và trong bài của Chu Giang
coi chuyện đó như là tội trọng. Ông nói những hình tượng như Nguyễn Du và Hồ
Chủ tịch thì không thể nói bằng từ giải thiêng được. Đìêu đó coi như là tuyệt
đối thiêng liêng đời đời, chắc là như vậy. Tôi nghĩ đó là một thái độ rất trẻ
con".
Quả là ông Chu Giang - Nguyễn Văn Lưu không khác một đứa con nít!
Đứa con nít của thời đại đầu thế kỷ 20. Thời đại không có internet, không có
games show, chưa từng biết đến smart phone, chưa từng nghe hiphop. Một đứa con
nít cổ lỗ lạc hậu với đầu ba vá và quẹt mũi bằng vạt áo với đôi chân trần chạy
thoăn thoắt cùng những trò chơi: đánh đáo, ăn ô quan... và nghe tiếng sét trong
mưa thì hốt hoảng... cầu trời (!)
Ai đã biến Hồ Chí Minh trở nên "linh
thiêng"?
Tất nhiên ngoài bản thân Trần Dân Tiên tự ca tụng, còn hàng hàng
lớp lớp các "đệ tử chân truyền", sẵn sàng tung hô vạn tuế ông ta như
là "Hoàng a mã" bất diệt!
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn
(Bác ơi - Tố Hữu)
Ai người Việt Nam không biết Nguyễn Huệ với danh xưng "anh
hùng áo vải" qua câu thơ:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
(Ai Tư Vãn - Lê Ngọc Hân)
Có phải Tố Hữu đã chôm "áo vải" của vua Quang Trung rồi
khoác lên cho Hồ Chí Minh?
Tháp Mười đẹp nhứt bông sen
Việt Nam đẹp nhứt có tên bác Hồ
Bông sen dành để lễ chùa
Cụ Hồ mãi mãi tôn thờ trong tâm
(Bảo Định Giang) [2]
Ai người Việt Nam không biết hoa sen là biểu tượng hàng ngàn năm
qua gắn liền với Phật, có phải Bảo Định Giang bước đến bàn thờ Phật "xin
đểu" đóa sen để về gắn lên cho Hồ Chí Minh?
Bất kỳ ai nghi ngờ, có thể lên google vào phần "image" để thấy hằng
hà sa số hình ảnh ông Hồ Chí Minh được lồng, được ghép, được photoshop đủ các
kiểu với bông sen nhằm biến ông ta thành một "ông phật".
...Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
(Viếng lăng bác - Viễn Phương)
Sau này nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã dùng cả bài thơ để viết ra nhạc phẩm
"Viếng lăng bác".
Ai là người đã đặt ra "phong tục" quái dị: vừa đi vừa
xá, khi vào lăng Hồ Chí Minh? Họ có bao giờ nghĩ hình ảnh vừa trôi theo dòng
người vừa "xá lấy xá để" như nói rằng: "Bố ạ! con hãi lắm rồi!"
và bỏ chạy trối chết trước tai họa, "ngày ngày" hôm nay người dân
đang gánh chịu?!
Mặt trời thì đỏ. Không có gì để cãi. Và nó, cái màu đỏ đầy kích
động và hào nhoáng đó bỗng làm nhà thơ Trần Dần thẫn thờ, ngơ ngác, ủ ê và rời
rã:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Nếu chưa đủ thuyết phục, có thể lần giở những tập thơ ca ra thêm:
...Cụ Hồ Chí Minh ánh dương vào trong ngục tù,
Tay công nhân của thế giới mới lên.
Cụ Hồ Chí Minh, đế quốc tan tành hết với sức dân trào cuốn...
(Ca ngợi Hồ chủ tịch - Văn Cao)
Hiện nay trong ngôn ngữ đời thường xảy ra hàng ngày, người ta quen
tai với cách gọi Hồ Chí Minh: "ông Cụ", "Bác Hồ", "Hồ
Chủ tịch". Cần "giải thiêng" nốt cho Hồ Chí Minh để ông ta trở
về với đời thường như chính ông mong muốn thông qua di chúc cá nhân.
Ai "giải thiêng" hình tượng Hồ Chí
Minh?
Ai có tư liệu và đủ "dũng cảm" đưa những người vợ của
ông Hồ Chí Minh ra trước dư luận toàn thế giới?
Nói đến chi tiết này để nhắc về Vũ Kim Hạnh, người đã bị "lột áo" nhà
báo khi đề cập đến Hồ Chí Minh có vợ con. Bà Vũ Kim Hạnh đâu phải là người duy nhất
và trước hết biết vụ này. Bà chỉ gom góp tư liệu, đưa tin lại để rồi hứng chịu
trận đòn "hội đồng" trong thinh lặng.
Trong một vụ "đánh hội đồng" khác cùng "hai bao cao
su đã xài" nhơ nhớp ném thẳng vào mặt TS. Cù Huy Hà Vũ, báo Công An Nhân
Dân thông qua bút danh Quý Thanh đã "giải thiêng" hình ảnh Hồ Chí
Minh một lần nữa:
"Thường con người muốn lợi dụng ai thì trước hết biến người
đó thành một biểu tượng" [3].
Quý Thanh đã lật mặt những kẻ "chủ mưu" "giải
thiêng" một cách thô bạo hình ảnh Hồ Chí Minh bằng thủ đoạn "lợi dụng"
như vốn diễn ra hàng chục năm qua.
Điều làm người ta tức cười, chính người cộng sản "linh thiêng
hóa" để rồi tự "giải thiêng" ông Hồ trong cách thức ngô nghê của
họ cùng sự đau đớn của nhiều "đồng chí" vẫn không chịu thoát khỏi
giấc mộng "Đêm qua em mơ gặp bác Hồ". Tuy thế, người cộng sản không
chịu nhìn nhận chính họ "ngụy tạo" hình ảnh Hồ Chí Minh như phật, như
thần. Họ thích "đổ thừa" cho người khác một cách vô liêm sỉ, qua vụ
việc của Thạc sĩ văn chương Đỗ Thị Thoan.
Họ tự huyễn hoặc họ vẫn giữ hình tượng "linh thiêng" của
ông Hồ bằng những đợt "học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
nhưng họ quên khuấy, chính "đồng chí" Hồ Xuân Mãn, Bí thư Tỉnh Thừa
Thiên Huế đã báng bổ "vị cha già dân tộc", thông qua cái bộp tai của nữ
tiếp viên khi bị "ông" cộng sản này sàm sỡ. Hiện nay, "ông"
cộng sản này đang bị điều tra về tội "khai man" [4] để "hưởng
phúc" từ danh vị "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".
Người cộng sản "phong thành thánh", "biến thành
phật" đối với Hồ Chí Minh để cố gắng "giải chấp" khi món "nợ
đáo hạn" từ Trung Quốc không kham nổi, họ kêu gọi "người khác"
"cứu trợ", thông qua chuyến đi Mỹ của Trương Tấn Sang mới đây.
Trương Tấn Sang tự tay "giải thiêng" Hồ
Chí Minh?
Lần cuối cùng để đoạn tuyệt với quá khứ u mê hàng chục năm qua của
người cộng sản, thông qua bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi Tổng thống Harry
S. Truman?
Bối cảnh ra đời của bức điện tín nhiều người đã biết, lúc bấy giờ nước VNDCCH ở
tình cảnh "trứng nước" khi người Pháp quay lại Đông Dương.
Giờ đây, không còn gì để chối cãi, Hồ Chí Minh cũng là một con người bình
thường với đầy đủ "thất tình lục dục". Ông không "vĩ đại" đến
nỗi cần "sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta" (!). Lỗi không phải
toàn bộ ở ông Hồ mà góp phần lớn từ những kẻ đã lợi dụng hình ảnh ông ta như
Quý Thanh xác quyết.
Theo thông tin công khai trên báo chí, Trương Tấn Sang và Barack
Obama có cuộc họp kín trước khi xuất hiện trước báo giới.
Nhiều người nghĩ rằng, lá thư 67 năm về trước đã được trao trong buổi họp kín.
Có phải như thế, nên đài BBC đã viết [5]: "Ông Obama tiết lộ ông Sang đã
tặng bản sao lá thư lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Harry Truman
năm 1946, đề nghị Mỹ giúp đỡ"?
Nếu quả vậy, hành động của chủ nhân Nhà Trắng làm ông Sang bẽ mặt
và càng thêm khó khăn khi "báo cáo" về chuyến đi đối với Bộ Chính trị
ĐCSVN. Cũng không biết, "món quà" này do ông Sang tự chủ động tính
toán riêng hay được sự đồng ý của các "đồng chí" trong Bộ Chính trị
khi thực hiện chuyến Mỹ du?
Người Trung Hoa có câu: "Nếu là phúc không phải là họa, nếu là họa không
thể tránh". Hy vọng ông Chủ tịch Việt Nam biết câu này để ứng phó, nếu như
bức điện tín của ngày xưa, do ông "tự tung tự tác" thực hiện.
Dù tự ý hay được Bộ Chính trị đồng ý đem bức điện tín sang làm
"quà", điều phải chấp nhận là sự "muối mặt" trước người Mỹ
và thế giới với nhiều bài bình luận cho rằng người cộng sản Việt Nam đang
bất lực và cầu xin Hoa Kỳ giúp đỡ. Đó chẳng là "tội giải thiêng" của
Trương Tấn Sang đối với "Người là niềm tin tất thắng" sao? Một
thách thức cho giới cầm quyền trước khi có ý định "đấu tố" nhà văn
Nhã Thuyên?
Hồ Chí Minh chưa bao giờ "thiêng" trong con mắt các đời
Tổng thống Mỹ, nay Barack Obama "tiết lộ" lá thư, càng phơi bày trước
toàn thế giới nói chung và dân Việt Nam nói riêng, người cộng sản "làm
chính trị" ngày càng tệ so với "tiền nhân" và "tiền nhiệm"
của mình.
Giới cầm quyền hiện nay tỏ ra "phi nghệ thuật" khi mượn
hình ảnh nhạt nhòa Hồ Chí Minh cùng nỗi thất bại đắng cay trong quá khứ để mưu
cầu một thành công hôm nay trước sự leo thang ngang ngược của tập đoàn Tập Cận
Bình? Thảm!
"Thuốc súng kém chân đi không" đã từng rất oai hùng,
nhưng năm 2013, hình ảnh này không còn chỗ đứng để kêu gọi toàn dân như ngày
xưa nữa!
Chính sách ngoại giao Việt Nam - các nhà quan sát hay gọi - "đi dây" đã
lỗi thời trong tình thế hiện nay cùng với những tuyên bố huênh hoang từ cánh
ngoại giao quân sự [6]: "...đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, không tham
gia liên minh quân sự, làm bạn với các nước... Độc lập về chính trị, rồi đến
độc lập về kinh tế, văn hóa, độc lập về quốc phòng an ninh. ...", chỉ
trưng ra hình ảnh "anh hùng rơm" "chém gió", dù những đường
gươm nghe xoàn xoạt nhưng chẳng hề hấn đến ai, bởi Việt Nam chưa bao giờ "tự
chủ" nổi, ít nhất từ hội nghị Thành Đô 1990 với Nguyễn Văn Linh đã cam tâm
chấp nhận phận "chư hầu" để giữ đảng, không phải giữ nước!
Chuyến đi của Trương Tấn Sang để lại vị đắng bằng bức điện 1946,
có thể gọi là "đảng nhục" của họ mà người Việt Nam phải chịu lây,
mang tên "quốc nhục"!
Tiêu diệt một dân tộc chưa chắc từ vật thể, đáng sợ hơn, đó chính là tiêu diệt
văn hóa, bởi văn hóa là hồn cốt dân tộc một quốc gia. Người Tây Tạng đang chống
chọi với sự triệt diệt tàn ác của Bắc Kinh bằng lời tố cáo đanh thép từ bộ phim
"Lửa trong vùng đất của tuyết" [7].
Hãy "giải thiêng" hết đi! Ngay từ cái gọi là "16 chữ
vàng" và "4 tốt" hoặc là một Tây Tạng thứ hai đang trưng ra dần
trước mắt người Việt.
"Vội vã trở về" từ Trung Quốc, "vội vã ra đi" đến Mỹ,
Trương Tấn Sang không làm được gì mới, hơn là bám vào "vai gầy áo mẹ"
trong hành trang lếch thếch "Hà Nội ngày trở về" [8], thế sao?!
Nguyễn Ngọc Già
Tin, bài liên quan
Vũ Đại Phong Góp Phần Thổi Lửa!
Nguyễn Trung Tôn
Vì lương tâm
của một con người mà tôi đã từng bị trãi qua cảnh tù đầy trong nhà tù Cộng sản,
tôi cũng hiểu được phần nào những khổ sở thiếu thốn và tủi nhục và bị o ép của
thân phận một người tù lương tâm trong chế độ công sản.
Ra khỏi nhà tù Nam Hà đến nay đã hơn 6 tháng và còn bị
quản chế, tôi thường theo dõi những tin tức được đăng tải trên mạng về các tù
nhân lương tâm hiện đang bị giam giữ trong các trại tù trong mấy tháng gần đây.
Tôi nhận thấy một điều là dường như sự gia tăng đàn áp, đánh đập và đối xử tàn
nhẩn của các trại giam đối với tù nhân tại Việt Nam, càng ngày càng tàn nhẫn và
thâm độc hơn đặc biệt là với các tù nhân chính trị. Chỉ từ đầu năm 2013 tới nay
liên tục sự kiện các tù nhân lương tâm đã có chung một hành động tuyệt thực dài
ngày để phản đối chính sách khắc nghiệt và vô trách nhiệm của các trại giam.
Bắt đầu là việc chị Hồ Thị Bích Khương bị đánh Hội Đồng trong nhà tù K4 Trại 5
Thanh Hóa, chị bị kỷ luật biệt giam. Để phản ứng lại quyết định phi lý của trại
giam, chị đã tuyệt thực cho tới ngất xĩu ; sự kiện tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ tuyệt
thực cũng tại trại 5 Thanh Hóa được nhiều người theo dõi và lên tiếng ; tù nhân
Trần Minh nhật tuyệt thực tại nhà tù Nghi Kim tỉnh Nghệ An, phản đối trại giam
về chế độ giam giữ; sự kiện các tù nhân ở nhà tù Xuân Lộc Đồng Nai nổi dậy
khống chế tình hình trại giam phản đối việc bớt xen khẩu phần ăn của tù nhân.
Thông tin nóng bỏng và được nhiều người quan tâm theo dõi và lên tiếng là việc
tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hải tuyệt thực đã gần 40 ngày để phản đố trại giam
về việc không giải quyết đơn thư của anh và họ ép anh ký giấy nhận tội. Rồi nhà
Văn Nguyễn Xuân Nghĩa vì đã thông tin cho gia đình biết về tình hình của anh
Nguyễn Văn Hải tuyệt thực và bị biệt giam trong tù, nên nhà văn Nguyễn Xuân
Nghĩa cũng đã bị biệt giam trong trại 6 nhà tù Thanh Chương , Nghệ an. Mới đây
lại tới lượt tù nhân lương tâm Lên Văn Sơn bị đánh gãy chân ở nhà tù Nam Hà chỉ
vì (không chào cán bộ) Vậy là hàng loạt các sự kiện liên tiếp xãy ra trong nhà
tù Cộng sản mà rất có thể còn nhiều vụ việc khác chúng ta chưa thể biết hết
được. Nhưng chỉ chừng nấy sự vụ, cũng đủ để những người có lương tri nhận ra
rằng có những ngọn lửa không bao giờ tắt trong con người của các tù nhân lương
tâm tại Việt Nam. Dù sống ở trong hay ngoài cánh cửa nhà tù thì lửa ấy vẫn
không ngừng cháy. Trong hàng loạt các sự kiện trên thì có hai sự kiện tiêu biểu
và được mọi người trong cũng như ngoài nước quan tâm đó là trường hợp tuyệt
thực của TS Luật Cù Huy Hà Vũ và bloger Điếu Cày ( Nguyễn Văn Hải). Trước những
hành động kiên cường bất khuất của các tù nhân lương tâm trong nhà tù cộng sản
và sự ủng hộ nhiệt tình của đồng bào trong cũng như ngoài nước đang trở nên
ngày một lan tỏa. Công an trong nhà tù Cộng sản luôn có những chiêu thức
để ra tay đàn áp tinh thần các tù nhân bằng nhiều cách như tôi đã trình bày
trong bai viết “ Kinh Nghiệm Một Lần Tuyệt Thực Trong Nhà Tù Nghệ An.” http://duongtoitudo.blogspot.com/2013/07/kinh-nghiem-mot-lan-tuyet-thuc-trong.html.
( Do Nhà báo Huỳnh Hải viết.) Nếu không thể khiến tù nhân dừng tuyệt thực được
hoặc bị công luận lên tiếng mạnh mẽ thì nhà cầm quyền Cộng sản lại dở trò diễn
kịch, bịa đặt vu không ( Lật tẩy) theo kiểu diễn trò, để đánh lừa dư luận. Sự
kiện đang nóng bỏng hiện nay là việc anh (Điếu Cày) Nguyễn Văn Hải rất có
thể đang cận kề cái chết vì đã gần 40 ngày tuyệt thực. Mấy ngày qua mẹ con chị
Dương Thị Tân đã đi hết nơi này nơi khác trong các cơ quan nhà nước Cộng Sản
Việt Nam để kêu gọi giải quyết khẩn cấp những vấn đề liên quan tới việc anh
Điếu Cày tuyệt thực nhưng những người có trách nhiệm đều lẫn tránh, đùn đẩy…
Mới đây báo Công An Nhân Dân lại diễn trò đăng “Lật tẩy “chiêu tuyệt thực” của
Nguyễn Văn Hải của tác giả Vũ Đại Phong một cách hết sức trơ trẽn. Tưởng
rằng sau bài viết thì sóng gió sẽ ngừng nhưng có thể Báo Công An Nhân Dân không
ngờ rằng: Cái bút danh “Vũ Đại Phong” này nghe ra đúng là tay đang góp cho bão
to gió lớn rồi! Chẵng biết anh, chị ta làm nghề viết báo lâu chưa mà sao chẵng
có tinh thân trách nhiệm với bài viết của mình, cả cái ông Tổng Biên Tập của tờ
báo này cũng vậy sao lại phải bỏ trốn thế nhỉ ? Một bài báo mới đăng lên đã có
hàng loạt đọc giả kéo tới tìm tác giả và Tổng Biên Tập để “ Cảm ơn”,vậy mà quý
vị lẫn trốn đâu hết cả? Tôi thành thật hỏi Vũ Đại Phong nhé! Anh, chị làm ăn
kiểu gì vậy ? Nêu viết báo để kiếm ăn thì cũng phải viết cho đàng hoàng chứ sao
lại dựng chuyện bịa đặt rồi chạy trốn ? Anh, chị không biết lửa oan đang cháy
từ trong ra ngoài hay sao lại gieo gió vậy ? Lửa oan bây giờ đang ngún cả trong
và ngoài nước ngày đêm lan tỏa sao Vũ Đại Phong lại thổi tiếp vào thì nó sẽ
cháy cả Bộ Chính Trị, 16 UVBCT mà bị cháy mặt thì anh định chạy đi đâu để
sống ?
Trở lại với vấn đề hàng loạt các tù nhân lương tâm đã
tuyệt thực trong tù và hàng loạt người tuyệt thực bên ngoài để ủng hộ và những
chiêu thức diễn hài của Cộng Sản. Tôi muốn nói một điểu rằng: Lửa đã cháy và
gió đã thổi! Giờ đây phong trào dân chủ Việt Nam cần thêm nhiều nhiên liệu
cháy. Mỗi một người trong chúng ta hãy góp phần cùng Vũ Đại Phong thổi bùng
ngọn Lửa Điếu Cày vào tận hang cung của lũ độc tài tà trị và thiêu trụi lũ bất
nhân! Về phần tôi, tôi sẽ nhịn ăn 2 ngày 1 và 2 tháng 8 để cầu nguyện cho anh
Điếu Cày và đồng hành cùng anh. Tôi vô cùng cảm phục nhưng anh chị em đã cùng
mẹ con chị Tân đi khắp nới này nơi khác để lửa của anh Điếu Cày và những anh
chị em hác trong tù được cháy khắp mọi nơi!
Thanh Hoa ngày 31/07/2013
Nguyễn Trung Tôn
ĐT 01628387716
Hai bức
ảnh nói lên nhiều điều
Tổng
thống Obama tiếp bà Aung San Syu Kyi tại Tòa Bạch Ốc hồi tháng 9 năm 2012.
Tin
liên hệ
CỠ CHỮ
30.07.2013
Chỉ 2 bức ảnh có khi nói được nhiều điều còn hơn vài trang giấy. Đó
là 2 bức ảnh chụp cùng một nơi, Phòng Bầu dục của Tòa Bạch Ốc, nơi làm việc của
Tổng thống Hoa Kỳ. Bức đầu chụp khi Tổng thống Barack Obama
tiếp bà Aung San Syu Kyi hồi tháng 9 năm 2012, ngay sau khi bà đến thăm và được
mời phát biểu tại trụ sở Quốc Hội, tại đây bà đã được trao tặng Huy chương Vàng
của Quốc Hội (Congressional Gold Medal), vinh dự cao quý nhất của cơ quan lập
pháp Hoa Kỳ dành cho một nhân vật dân sự. Bức thứ hai chụp khi
Tổng thống Obama tiếp Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang ngày 25 -7- 2013,
sau khi hội đàm và ra tuyên bố chung về nâng cao quan hệ toàn diện giữa 2 nước. Trong
bức ảnh thứ nhất, nét mặt cả chủ lẫn khách đều tươi tắn, thân thiết, tuy là lần
đầu tiên gặp nhau trong cuộc đời hoạt động của mình. Chủ và khách đều là những người
đã được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa Bình hiếm hoi. Tại đây
Tổng thống Obama đã gắn lên ngực Bà Khách Quý tấm huân chương Tự Do. Tiếp
đó, sau khi trúng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ hai, ông Obama đã chọn Miến
Điện làm nơi đến công du đầu tiên và đã đến thăm bà Aung San Syu Kyi ngay tại
căn nhà nhỏ của bà bên bờ hồ ở Rangoon.
Tổng
thống Obama gặp Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại phòng Bầu dục của
Tòa Bạch Ốc, ngày 25/7/2013.
Trong bức ảnh thứ hai, giữa lúc ông Sang cám ơn Tổng thống Obama
đã quan tâm chăm sóc bà con người Mỹ gốc Việt (nói nhịu là «người Việt gốc
Mỹ »), những nạn nhân bi thảm do chính ách chiếm đóng tàn bạo của đảng CS
của ông gây nên, thì ông Obama đã không che dấu nổi sự sốt ruột và chán nản của
mình. Ông kéo thật cao cổ tay áo trái để lộ mặt chiếc đồng hồ lớn chĩa vào mặt
ông Sang, ngụ ý nhắc rằng: biết rồi, khổ lắm, nói dài thế, không còn thời gian
cho ông, tôi đang bận việc khác. Ba chục nhà báo quốc tế có
mặt nhìn ra cảnh này. Nét mặt bực mình của tổng thống Hoa Kỳ
hiện rõ bao nhiêu thì nét mặt ông Sang càng hiện ra nét bẽ bàng bấy nhiêu. Không
bẽ bàng sao được khi ra sân bay đón một vị mang danh chủ tịch nước chỉ có trơ
trọi viên đại sứ Hoa Kỳ từ Hà Nội chạy về đón, một đại diện Bộ Ngoại giao không
thấy nêu tên và chức vụ, không có đội danh dự, không có trống kèn và súng nổ
chào mừng, cũng chẳng có treo cờ 2 nước tại Tòa Bạch Ốc như lẽ ra lễ tân phải
như thế. Không bẽ bàng sao được khi mọi điều tốt đẹp vẫn còn là
những thách thức ở phía trước, chưa có điều gì chắc chắn cả. Có vào TPP (Tổ
chức Đối tác Xuyên Thái Bình Dương) hay không còn tùy ở Việt Nam có sớm thay
đổi luật buôn bán tự do, cho lao động quyền lập công đoàn tự do hay không, có
điều chỉnh khái niệm tệ hại lấy quốc doanh làm chủ đạo nền kinh tế hay không.
Và mong được đón tiếp Tổng thống Obama để thủ lợi riêng mọi mặt cho đảng CS
thì…còn xơi, nếu như vẫn giữ trong tù hàng mấy chục nhân vật yêu nước chống
bành trướng, vẫn bịt mồm làng báo, vẫn kỳ thị tôn giáo, vẫn bắt luật pháp và
tòa án phải tuân theo quyết định của đảng. Hai bức ảnh rất nên
mang về treo trong phòng Chủ tịch nước ở Ba Đình Hà Nội, để ông Trương Tấn Sang
và các quan chức tùy tùng tìm hiểu cho ra lẽ, vì sao lại có chuyện trong Tòa
Bạch Ốc nhất bên trọng, nhất bên khinh thế nhỉ! Qua ngắm 2 bức
ảnh, giới trí thức và mọi công dân yêu nước sẽ ngộ sâu thêm một điều thiết yếu,
phải thay gấp cả hệ thống chính trị từ độc quyền đảng trị sang đa nguyên dân
chủ pháp trị. Không có con đường tắt nào cả. *
Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải
với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của
Chính phủ Hoa Kỳ.
__._,_.___