Monday, April 27, 2015

: 40 NĂM TỘI ÁC, ĐCS CHỜ NGÀY KHAI TỬ


Tôi thiết nghĩ nên sửa lại nhan đề:
CON ĐƯỜNG SỤP ĐỔ CỦA CỘNG SẢN LÀ ĐIỀU TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ.
Dùng chữ "Điều kiện" [condition] ở đây xem ra không có nghĩa gì cả. Chữ "điều kiện" được dùng khi nói về một sự giả định. Còn tác giả bài viết muốn nói đến một sự khẳng định. 
Xin lỗi nếu tôi nói sai.
T.T.

2015-04-27 6:28 GMT+07:00 Gia Cao 
 
Cám ơn HV Nguyễn Tấn Ích; có lời khích lệ để anh em mình cùng góp phần với dân tộc bằng mọi hình thức trong công cuộc đấu tranh chính nghĩa, nhằm tiêu diệt
bọn CS bán nước, phản quốc, hại dân.

Thân kính và đa ta.
Trucgiang/CGia

Date: Sun, 26 Apr 2015 21:31:05 +0000
From: tanichn
To: trucgiang0
Subject: Fw: [ChinhNghiaViet] RE: 40 NĂM TỘI ÁC, ĐCS CHỜ NGÀY KHAI TỬ
Anh Trúc Giang thân kính
Bài viết "40 NĂM TỘI ÁC, ĐCS...." rất hay, sưu tập khá đầy đủ. Bài này sẽ giúp cho giới trẻ hiểu rõ về CS, và là tài liệu thiết thực cho học sinh tham khảo. Cảm ơn anh đã gởi bài này  lên diễn đàn.
Hạo Nhiên NTI

On Sunday, April 26, 2015 12:49 PM, "Gia Cao  [ChinhNghiaViet]" <> wrote:

 

      Con Đường Sụp Đổ của Cộng Sản                             
                       Là Điều Kiện Tất Yếu của Lịch Sử.
            Những câu nói sau đây mang tính chân lý và nguyên lý của phạm trù triết học; chính từ cửa miệng các lãnh tụ CS Nga, nơi khai sinh chủ thuyết CS làm đão lộn lịch sử hơn nửa thế kỷ 20 qua; nhân loại đã chìm đắm trong cơn ác mộng khôn lường. Người ta tưởng chừng cơn lốc CS quốc tế sẽ càn quyét đến tận cùng trái đất. Nhưng có ngờ đâu; cũng chính tại nơi khai sinh ra nó và cũng chính những lãnh tụ CS Nga khai tử và đào huyệt chôn nó, khiến nhân loại thở thào nhẹ nhõm! và đồng thanh tôn vinh là những anh hùng lịch sử thời đại của thế kỷ 20, qua các các câu nói bất hủ như sau:

            Tổng bí thư cộng đảng Nga Mikhail Gorbachev, sau khi khai tử chủ nghĩa CS và đắc cử Tổng thống Nga đầu tiên ông nói : “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.
            Bí thư thủ đô Moscow, Boris Yeltsin, Tổng thống Nga thứ 2, sau Gorbachev ông nói: “Đảng cộng sản không thể nào sữa chửa, mà phải đào thải nó”.
            Tổng bí thư cộng đảng Nam Tư Milovan Djlas nói: “20 tuổi mà không theo CS, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ CS, là không có cái đầu”.

     Chân lý và chính nghĩa Dân Tộc là trận chiến thắng cuối cùng giữa hai cực: THIÊN -  ÁC

Ta hãy đọc một trích đoạn của Gs/Ts. Martin Malia, viện sử học quốc tế chuyên nghiên cứu về CS đã nêu lên những luận cứ và kết luận như sau: “chủ nghĩa CS là một sự kiện lớn của thế kỷ 20. Nó bùng nổ và bước vào lịch sử tại một gốc trời Âu Châu, giữa sự tang tóc đau thương của thế chiến thứ Nhất, và sau biến động lớn của thời kỳ 1939 – 1945, nó tràn về phía Tây Âu ngay giữa lòng nước Đức, rồi nó khựng lại ở đó; chỉ tràn về phía Đông Âu; rồi tiến thêm về phía Đông Nam Á Châu đến tận bờ biển Trung Hoa, rồi len vào Việt Nam. Với kỳ công ấy, CS đã đạt đến tột đỉnh của vận may thống trị một phần ba nhân loại: chừng như nó ở vào tư thế sẵn sàng tiến tới không ngừng. Trong hơn bảy thập niên đó, CS luôn ám ảnh chính trường quốc tế; phân thế giới làm hai cực: Một bên cực tả là những kẻ tin tưởng rằng chủ nghĩa CS là cứu cánh cho xã hội loài người, và một bên cực hữu là những người cho rằng chủ nghĩa CS là phi nhân bản, vô cùng bạo ngực và chuyên chế nhất trong lịch sử.”

       Do vậy, người ta trông đợi các sử gia đương đại sẽ dành ưu tiên để giải thích thỏa đáng hiện tượng tại sao bánh xe chủ nghĩa CS trên đường lăn tới; thì bỗng một sớm một chiều, sụp đổ nhanh chóng như ngôi nhà làm bằng giấy hàng mã vậy?!
            Chúng ta hãy tuần tự lượt qua các tội ác của chủ nghĩa CS chúng rập khuôn, áp dụng từ độc tài, tàn bạo và dã man nhất trong giai đoạn lịch sử của thế kỷ 20 nầy, thì chính những dã man đó là mồ chôn chúng qua ngạn ngữ “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” hoặc “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”.

            Thật vậy, chủ thuyết độc hại nầy đã tạo ra những thời kỳ tàn bạo nhất, sâu rộng và thảm khốc nhất cho dân tộc đó và nhân loại. Nó bắt đầu thực hiện ở Sarajevo năm 1914 và kết thúc ở Moscow năm 1990, đã đóng vai trò chính trong tấn thảm kịch của thế kỷ 20. Chủ nghĩa Cộng Sản (CNCS) ra đời trước chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa Quốc Xã, chẳng những nó tồn tại lâu hơn mà còn tạo những tác động rộng lớn hơn đến toàn thế giới.

            Ý nghĩa của cụm tù “chủ nghĩa Cộng Sản” được đề cập đến trong phạm trù nầy là gì? Để trả lời câu hỏi nầy, chúng ta cần phân biệt giữa hai học thuyết CS và sự áp dụng học thuyết nầy trong thực tế. Chủ nghĩa CS đã tồn tại trong nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm, như một triết thuyết chính trị. Triết gia Platon, trong cuốn “Cộng Hòa”, đã đề ra khái niệm một thành phố lý tưởng, trong đó có con người chẳng những không bị hủ hóa bởi quyền lực và tiền bạc mà trí tuệ, lý trí và công lý còn được thể hiện đầy đủ. Thomas More, một học giã và là một chính khách nổi tiếng từng giữ chức vụ nhiếp chính của Hoàng Gia Anh năm 1530, bị vua Henry VIII ra lịnh hành quyết, cũng từng mô tả một xã hội lý tưởng trong cuốn “Utopia” hay “Xã Hội Không Tưởng” Triết học không tưởng có thể đóng một vai trò cần thiết trong việc đánh giá một xã hội. Vì triết học nầy tồn tại dựa trên các ý niệm, mà ý niệm lại chính là mạch sống của các nền chính trị dân chủ trên thế giới. Tuy nhiên, chủ nghĩa CS mà chúng ta đề cập ở đây không thể nào tồn tại trong phạm trù ý niệm. Chủ nghĩa nầy là một hiện thực tồi tệ đã tồn tại ở những nước nhất định vào những thời điểm lịch sử quan trọng, và được thực hiện bởi những lãnh tụ khét tiếng tội ác như: Vladimir IIich Lenin, Josif Stalin, Mao trạch Đông, Hồ chí Minh, Fidel Castro; và tại Pháp cũng có những lãnh tụ CS nổi tiếng như Maurice Thoze, Jacques Duclos và Georges Marchais.

            Các chế độ CS đã áp dụng những biện pháp trấn áp toàn diện, và triệt để, tổng hợp dưới một chế độ cai trị bằng khủng bố tàn bạo nhất và khủng khiếp nhất để đạt cứu cánh. Như Ignazio Silone có nói “Cách mạng như một loại cây, chúng ta có thể xem trái mà biết được cây gì”. Và không phải là vô cớ mà những đảng viên Dân chủ - Xã hội thường được biết với cái tên là những người Bôn-sơ-vít, hồi tháng 11 năm 1917 đã quyết định tự gọi họ là “những người CS”. Thì tại sao họ không dựng lên ở điện Kremlin một tượng đài dành cho Thomas More và Campanella, là những người mà họ xem là các nhân vật tiền bối của phong trào Cộng Sản.

            Các chế độ CS, mục đích là củng cố quyền lực, đã vượt lên các tội ác riêng lẻ và những vụ thảm sát qui mô nhỏ có tính cách nhất thời, để biến những tội ác nhắm vào quần chúng như một cuộc khủng bố tinh thần, nhằm răn đe củng cố hệ thống chính quyền. Qua giai đoạn nầy, CS bắt đầu thi hành những biện pháp trấn áp thường nhật,và đồng thời kiểm duyệt tất cả mọi phương tiện truyền thông, vu cáo để bắt bớ, tống giam hoặc tống xuất những thành phẩn bất đồng chính kiến. Tất cả các chính quyền CS Nga và Đông Âu, đến Trung Cộng, Bình Nhưỡng, Việt Nam, Cu ba v.v... dưới tầm mắt quan sát của quốc tế, các nước Phương Tây, không một nước nào thoát ra khỏi qui luật nầy. Nhiều tài liệu từ các văn khố và những lời khai của nhân chứng, đã chứng minh rõ ràng là bất cứ ở vào thời kỳ nào của CS, thì khủng bố tinh vi, hoặc thô bạo là bản chất của chủ nghĩa CS hiện đại vậy.

            Qua những dữ kiện trên, qúy vị có thể thấy rằng cốt tủy của hiện tượng khủng bố không chỉ giới hạn ở những đối tượng theo một mô thức, mặc dầu chỉ trên thực tế, các chế độ CS khác nhau có thể phạm các tội ác đó ở một mức độ khác nhau. Mô thức nầy bao gồm việc hành quyết thông qua nhiều phương tiện, như xử bắn, đâm, chém, chôn sống tập thề, trói ké nhiều người bỏ bao có đá nặng thả xuống sông & biển; trong một số trường hợp dùng dùng hơi ngạt, thuốc độc, dùng xe ngụy tạo những tai nạn thanh toán lẫn nhau trong nội bộ đảng mà CS Hà Nội thường áp dụng. Ngoài ra, những sự tiêu diệt qua bệnh tật và đói khát bằng hình thức lưu đày lên nơi rừng thiêng, nước độc không có môi trường sống, cách ly mọi sự  tiếp tế. Trường hợp nầy dành riêng cho những phong trào nhân dân bất phục và nổi dậy.
Theo bảng thống kê của Tổ Chức Quốc Tế về truy cứu tội ác chủ nghĩa CS dựa theo ước tính có thể còn thiếu sót dưới các chế độ Cộng Sản từ khi nắm chính quyền cai trị như sau:
                        CS Nga Sô:        20,000,000.00 (20 triệu sinh linh)   ÂÂÂÂÂÂÂA
                        CS Tàu :             65,000,000.00 (65 triệu sinh linh)
                        CS Việt Nam:    02,000,000.00 (02 triệu sinh linh)
                        CS Bắc Hàn  :    02,000,000.00 (02 triệu sinh linh)
                        CS Cam Bốt:      02,000,000.00 (02 triệu sinh linh)
                        CS Đông Âu :     01,000,000.00 (01 triệu sinh linh)
                        CS Mỹ Châu La Tinh : 150,000.00 (150 ngàn sinh linh)
                        CS CS Phi Châu: 01,700,000.00 (01,7 trăm ngàn sinh linh)
                        CS Afghanistan :  01,500.000.00 (01,5 trăm ngàn sinh linh) 

            Ngoài ra còn có khoảng 10 triệu người chết vì phong trào Cộng Sản Quốc Tế và các đảng CS không nắm quyền cai trị. Qua con số to lớn gần 100 triệu người chết dưới nhiều hình thức của các lãnh tụ vô cùng dã man, tàn ác của chủ nghĩa Cộng Sản. Nếu tính theo tỷ lệ dân số thì Khmer Đỏ, Pol-bot là tội phạm số 1, đã giết 1/4 (1 phần tư dân số) trong vòng 3 năm rưỡi, thông qua những vụ giết rùng rợn nhất bằng nhiều hình thức của thế kỷ 20. Nhưng, nếu xét về số người chết vì một chế độ thì hạng nhất thuộc về CS Tàu dưới thời kỳ của Mao trạch Đông,  kế tới CS Nga, dưới thời của Lenin và Stalin, và tiếp theo là CS Việt Nam dưới thời Hồ chí Minh rập khuôn quan thầy Nga – Tàu.  
 
            Nếu luận tội một cách khách quan và công bằng từ nguyên nhân tới thủ phạm chính của tội ác là CS Nga, mà lãnh tụ đầu tiên là Vladimir Lenin (1917- 1924) chịu trách nhiệm về cái chết của 4 triệu người, tội ác giết người lớn nhất là nội chiến ở Nga, người kế tục là Joseph Stalin (1924-1953) chịu trách nhiệm về thảm sát từ 16 đến 20 triệu người Nga; tội ác diệt chủng khủng khiếp nhất về Trại tập trung Goulag. Khi nắm chính quyền Lenin từng nói như để mạ lỵ và “súc vật hoá” kẻ đối nghịch với chủ nghĩa CS là “kẻ thù nhân dân”, là “giống sâu bọ có hại” phải bị trấn áp và tiêu diệt. Và vả chăng, dòng mạch thừa kế di sản từ Stalin đến Mao, Hồ, Kim nhật Thành cho đến Pol Pot quá rõ ràng. Với mỗi lãnh tụ mới đều có nhận sự giúp đỡ từ vật chất đến nguồn cảm hứng ý thức hệ của quan thầy chủ nhân ông đi trước. Nhắc đến tên đồ tể qủy đỏ Pol Pot trong dịp được nhồi sọ đầu tiên chủ nghĩa Mác xít tại Paris năm 1952 (trong khi những loại triết gia như Jean Paul Sartre và Maurice Merleau-Ponty đang giải thích cách nào mà sự khủng bố lại là bà đỡ của“chủ nghĩa nhân đạo”). Vậy nếu như cuộc tranh luận chỉ dựa vào mức độ định lượng tàn bạo, cách áp dụng hai tiêu chuẩn khác nhau phải thất bại và CS hiện nguyên hình là chủ nghĩa chuyên chế phạm tội ác ghê gớm nhất. 

Theo ký giả Raymond Aron trước đây và nhà báo Francois Furet mới đây đều có lập trường rõ ràng rằng; CS làm là đánh trống, khua chiêng, rêu rao về tính chất cách mạng và nhân đạo của mình lại là lừa bịp, phỉnh gạt hàng triệu triệu người khắp nơi trên hành tinh nầy nhẹ dạ nghe theo, xử dụng họ làm thứ công cụ, rồi quay lại tàn sát họ một cách khủng khiềp tột bực, khi chiếc mặt nạ CS bịp bợm như thứ nọc độc, thứ ung thối khắp địa cầu bị rơi xuống.

            Trong thời kỳ 1937-1938 (khoảng thời gian nầy đôi khi được gọi là “Yezhovshchina” hay thời kỳ Yezhov) các nỗ lục củng cố quyền lực của Stalin dẫn đến sự leo thang thanh trừng, giam cầm, tra tấn, lưu đày và hành quyết trong nội bộ đảng, những thành phần bất đồng chính kiến lên đến cực điểm cho tới khi Stalin chết vào năm 1953. Với con số kỷ lục khoảng 7 trăm ngàn người (700.000) bị hành quyết (trong số đó có Khrushev chết hụt, và sau Malenkov, Khrushev được bầu vào Tổng bí thư, lãnh tụ thứ 4 CS Nga (1955-1964), ông ta ra lịnh quật mồ Stalin và bêu trên đường phố rửa hận cho đồng chí của ông cùng cán bộ dân chính bị tội đồ Stalin tàn sát).

            Các vụ bắt bớ của Stalin thường được viện dẫn phản cách mạng, trong đó bao gồm việc không báo cáo các hành động mưu phản. Trong một sửa đổi luật năm 1937, bị khép tội là không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong các vụ điều tra của cục an ninh nhà nước (GUGB NKVD) vào tháng 10 năm 1936 tới tháng 11-1938, ít nhất có 1,710,000 ngàn người bị bắt, và 724,000 ngàn người bị hành quyết.
            Tóm lại, theo các sử gia “biên niên sử của CS” tại Đại học Yale, Gs Jonathan Brent, Alexander Nikolaevich, Stephen G. Wheatcroft, trong số các lãnh tụ CS Nga thì Stalin là một hung thần qủy đỏ tắm máu dân tộc Nga tàn bạo nhất (trong suốt thời kỳ thống trị từ năm1924 – 1953).
                                              Về đàn áp & tiêu diệt tôn giáo:
            Đối với các chính quyền CS: Nga, Tàu và Việt Nam thì các giáo hội là một vấn đề nằm trong kế hoạch của tiến trình tiêu diệt dưới mọi hình thức. Michael EIIman đã nói rằng ... “ khủng bố chống giáo sĩ của Giáo Hội Chính Thống Nga và của các tôn giáo khác (1937-1938) cũng có thể hội đủ điều kiện như là nạn diệt chủng”. Trích tài liệu nhà thờ, Alexander Nikolaevich Yakovlev đã ước tính rằng hơn 100.000 Linh mục, tu sĩ và các nữ tu đã bị hành quyết trong thời gian nầy. Phần lớn các nạn nhân là các cựu “Kulaks” và gia đình của họ, với 669,929 người bị bắt và 376,202 bị hành quyết. Đặc biệt giáo hội Công Giáo trong hệ thống Vatican lãnh đạo, CS không thể nào có thể chấp nhận.

Vì thế giữa Moscow và Rome đối đầu nhau. Chiến lược tiêu diệt của CS Nga đã được vạch ra: gián đoạn tất cả mọi liên hệ của giáo hội Công Giáo, hay giáo hội Hy Lạp Công Giáo với Tòa Thánh Vatican, CS đặt các giáo hội dưới quyền chi phối của chính quyền. Để đạt tới mục đích và giảm thiểu ảnh hưởng của các giáo hội đối với đời sống dân sự, một sự kiểm soát gắt gao của chính quyền nơi nào chưa dẹp được thì biến nó thành công cụ của chính quyền. CS phối hợp việc trấn áp với các mưu toan mua chuộc và xâm nhập sâu vào hệ thống lãnh đạo giáo hội để chụp mũ phản động và cáo buộc nhằm tiêu diệt. Sau khi các chế độ CS sụp đổ; mở lại các hồ sơ mật mới thấy rõ; tại Tiệp Khắc, nhiều nhân vật trong hàng giáo phẩm, kể cà các Giám mục như là những kẻ en-ten “hợp tác” với cảnh sát mật. Trong đó cũng có một số ít muốn hóa giải, tránh cho giáo hội những điều hiểm họa, tồi tệ nhất!

            Cuộc trấn áp chống tôn giáo đầu tiên xảy ra ở Albanie, giáo chủ Gaspar Thaci, Tổng giám mục ở Skhoder, cương quyết không “hợp tác” đã chết do đầu độc trong khi bị giữ tại một nơi được chỉ định do cảnh sát bí mật canh giữ, GM Vincent Prendushi, tổng giám mục ở Durres, bị kêu án 30 tù khổ sai, đã chết vào tháng 2-1949 sau một trận tra tấn dã man. Tháng 2 năm 1945, 05 tu sĩ trong đó có các Giám mục Volai và Glini, phụ chánh của tòa Khâm mạng Tòa Thánh, đã bị kết án tử hình, xử bắn. Hơn 100 tu sĩ và nữ tu, các Linh mục đang theo học ở các dòng tu bị đem ra hành quyết hoặc chết trong khi giam cầm. Bị liên quan trong vụ tàn sát đó, nhiều nhân vật tôn giáo vạ lây; điển hình ông Mustafa Pipa, một luật gia bị hành quyết, do ông ta đứng ra bào chữa cho những tu sĩ dòng tu Fransiscains. Cũng nên nhắc lại rằng vào năm 1967, Enver Hoxa đã tuyên bố rằng Albanie là nước vô thần đầu tiên trên thế giới, nên tôn giáo là đối tượng tiêu diệt triệt để. Tạp chí  Nendori đã loan báo một cách ngạo mạn và tự hào rằng: “Đất nước Albanie đã làm sạch tôn giáo, các giáo đường biến thành kho chứa hàng, nhà hội hoặc phá hủy dựng cung văn hoá. Có tất cả 2,169 giáo đường, trong đó 327 thánh đường Công giáo.

            Tại Hung Gia Lợi, cũng thế; cuộc đối đầu giữa chính quyền CS và giáo hội bắt đầu vào mùa Hè năm 1948, với việc quốc hữu hóa tất cả hệ thống trường học của giáo hội, 05 linh mục bị kết án tù, rồi hầu hết các linh mục khác kết án vào mùa Thu năm đó. Giáo chủ Hồng Y Josef Mindszenty, bị bắt ngày 26 tháng Chạp năm 1948, sau hai hôm Lễ Giáng Sinh, bị kết án chung thân với cáo buộc “đồng lõa, âm mưu chống lại nước Cộng Hòa” và tội làm do thám cho các siêu cường tư bản v.v... . Một năm sau tới lượt các dòng nữ tu, đã trục xuất 12,000 ngàn nữ tu. Tháng 6 năm 1951, người phụ tá thân cận Đức Hồng Y Mindszenty là Gíam mục Grosz, giáo phận Kalorza đã cùng chung số phận với Đức Hồng Y. Việc trừng phạt các giáo hội và các dòng tu tại Hung Gia Lợi, chẳng những CS nhắm vào Công Giáo có liên hệ với Rome, mà cả Tin Lành, các tôn giáo khác đều bị bài xích.
            Trên đây, chỉ nêu lên sự tiêu diệt tôn giáo của CS trên vài nước tiêu biểu trong thế giới CS, khi Đông Âu và Nga chưa sụp đổ. Để nhân loại nhìn tận mắt cái quái thai chủ nghĩa CS là thứ qủy đỏ, vô thần, phi nhân bản. Bản chất chủ nghĩa CS lả độc tài, độc ác, độc trị giống nhau. Vì chúng rập theo khuôn mẫu CS Nga; từ màu cờ máu và biểu tượng búa liềm, đến hệ thống tổ chức và sự khủng bố tàn ác nhất, khủng khiếp nhất trên hành tinh nầy trong thế kỷ 20.

            Nhân loại rùng mình kinh tởm, khi nhắc đến những cái tên qủy đỏ Stalin, Hitler, Mao, Hồ và Pol Pot v.v..  Ngoài cái tội diệt chủng, tàn sát “đồng chí” còn thêm tội ác chiến tranh, tôi ác chống nhân loại, qua thảm sát vô số vụ dã man trong Thế Chiến Thứ 2. Xin nêu lên một trong những số vụ tiêu biểu bị nhân loại lên án nghiêm khắc đó là; Vụ thảm sát Katyn, được gọi là “Thảm sát rừng Katyn “Tội ác Katyn”. Là một cuộc thảm sát tàn bạo những người quốc gia Ba Lan do Bộ Dân Ủy Nội Vụ (NKVD), cảnh sát mật Nga thực hiện vào mùa hè năm 1940, do Stalin chỉ thị, ký và đóng dấu. Số lượng nạn nhân bị hành quyết được ước tính khoảng 22,000, trong tổng số nầy có khoảng 8,000 là các sĩ quan Ba Lan bị bắt làm tù binh trong cuộc xâm lăng Ba Lan năm 1939 và 6,000 nạn nhân khác là các sĩ quan cảnh sát, số còn lại là thành phần thuộc giới trí thức và bị coi là “nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, chủ nhà máy, luật sư, thầy tu và viên chức v.v..”.

            Trong Đệ nhị Thế chiến, chế độ trại tù tập trung trên đại lục Âu Châu, từ Oural cho tớ chân núi Pyrénées, nhưng lịch sử của nó không phải đã chấm dứt với sự bại trận của Đức và các đồng minh của Đức. Các “quần đảo ngục tù” nói theo từ ngữ của văn hào Nga Aleksandr Solzhenitsyn, đã được thiết lập ở Trung bộ và Đông Nam Âu Châu trong các năm 1949- 1950 của Cộng Sản. Tại Lỗ Ma Ni, số người bị bắt giam trong suốt thời kỳ CS từ 300,000 ngàn tới 1,000,000 triệu, con số thứ hai nầy có lẽ không chỉ gồm tù nhân chính trị mà còn là những thường phạm nữa. Còn về các trại, sử gia Anh Demis Deletanht cho rằng có 180,000 bị giam trong các trại tập trung ở Lỗ Ma Ni trong nhựng năm đầu của thập kỷ 50. Tại Tiệp Khắc, con số tù nhân chính trị trong những năm 1948- 1954 là khoảng 200,000 trăm người. Với một số dân là 12 triệu 6000 ngàn, có 422 trại tù. Con số tù nhân bị xét xử, hoặc không xét xử do chính quyền CS địa phương muốn bắt và gửi tới, họ bị hành xử một cách khắc nghiệt.
            Thế giới tù nhân của các nước CS cùng quan điểm giống nhau từ một nguồn mà ra đó là CS Nga. Cho tới khi Stalin chết, 3 năm sau với bài diễn văn của Khrushev, khi được bầu vào chức vụ TBT trong kỳ Đại hội 20, ông kết án các tội ác của Stalin, từ ấy các trại giam dành cho tù nhân chính trị bị đóng cửa tại Nga và các nước CS Đông Âu.

            Sau thế chiến thứ hai, CS Nga áp đặt ách độc tài lên các nứớc Nam Âu, Trung Âu và Đông Âu một cách thô bạo, những cuộc nổi dậy chống Stalin. Lần đầu tiên Nga đưa chiến xa tràn qua CHDC Đức ngày 17-6-1953 đàn áp Đông Bá Linh và các thành phố lớn khác những cuộc biểu tình của công nhân, bởi các điều kiện khắc nghiệt của chính phủ tay sai gây ra. Có ít nhất 51 người chết, một số khác bị xe tăng cán nát và một số khác bị toà án Nga kết án. Trước đó ngày 30- 6 có 5,171 người bị bắt và sau đó có hơn 7,000 người bị bắt.
            Tại Hung Gia Lợi năm 1956, và tại Tiệp Khắc năm 1968; trong hai trường hợp nầy, Nga phài dùng chiến xa đè bẹp những cuộc vùng dậy chống độc tài của mọi tầng lớp dân chúng. Cứ thế nhiều cuộc xung đột xảy ra khắp nơi, tại Salgotarjan hôm 8-12 có 131 người thiệt mạng do những làn đạn của quân Nga lẫn Hung. Những cuộc trấn áp tiếp theo những cuộc cách mạng Hung Gia Lợi năm 1957, đã liên quan tới hơn 100,000 ngàn người. Hàng chục ngàn bị bắt giam. Trong thời gian nầy, vụ án gây chấn động khắp Âu châu là vụ án Imre Nary, Thủ tướng Hung năm 1953, bị gạt khỏi chính quyền 1955, sau đó lại được ủy nhiệm làm Thủ tướng và đứng về phía nhân dân chống Nga. Vụ án Imre Nagy và những tòng phạm chấm dứt vào năm 1958. Có hai vắng mặt: một là ký giả CS Geza Lossonezy là cựu kháng chiến quân từng bị bắt giam 1951- 1954 và một Bộ trưởng trong chính phủ Nagy.

            Vụ án Thủ tướng Nagy cùng số tòng phạm là tướng Pal Maleter, Bộ trưởng Quốc phòng, và ký giả Miklos Gimes bị kết án tử hình, cùng 5 tòng phạm khác bị kết án cấm cố đến tù chung thân. Vụ án Imre Nagy đã tiến hành kín đáo trong toà nhà của nhà tù trung ương của Thủ đô Budapest, trong căn  phòng được trang bị đặc biệt cho vụ án. Những sưu tầm mới đây đã nhấn mạnh về sự tàn ác, những sự trấn áp của Nga là đáng xử dụng từ ngữ “khủng bố”. Trong thời kỳ Khrushev, 1960 các biện pháp bất thường đã chấm dứt, các trại tập trung được hủy bỏ.v.v...  Năm 1962 mới tiến hành việc thanh lọc cảnh sát chính trị liên hệ tới các vụ án gỉa tạo của thời kỳ Rakosi, Rajk và 190 nạn nhân khác đã dứt khóat được phục hồi. Năm 1963 một sự toàn xá được ban hành. Tuy nhiên việc phục hồi danh dự cho Imre Nagy và các đồng chí tòng phạm của ông chỉ xảy ra năm 1989, khi các cuộc cách mạng dân chủ toàn vùng Đông Âu vùng dậy đập tan các chế độ CS. Ngày mà nhân loại văn minh khắp thế giới “hân hoan chứng kiến trận chiến thắng sau cùng của mặt trận chính nghĩa dân tộc; họ đập tan, quét sạch tà thuyết vô thần của chủ nghĩa Cộng Sản, chiếc nôi khai sinh ra nó”.

            Tưởng cũng nên nhắc lại những tội ác tày trời của CS Nga. gieo rắc trên toàn vùng Đông Âu, sự kiện nầy là góp phần tàn bạo, là hiện tượng khách quan của  sự sụp đổ, là điều tất yếu của lịch sử. 12 năm sau Hung Gia Lợi, các chiến xa Nga tràn qua Tiệp Khắc gieo rắc sự kinh hoàng vào năm 1958, khác với sự can thiệp năm 1956 đàn áp các cuộc nổi dậy của dân chúng chống lại chủ nghĩa CS Nga. Muốn đề cập ở đây về thời gian và bối cảnh, về tình hình quốc tế bấy giờ, và tình hình đặc biệt của chế độ CS trên thế giới. Phần chính các đơn vị tấn công đàn áp là của Nga, nhưng có 4 nước CS khác trong khối Minh Ước Varsovie, Nga cưởng bức tham gia trong đó là: Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Ba Lan, Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Điều nhấn mạnh ở đây một sự khác biệt căn bản khác là Tiệp Khắc không có quân đội Nga đóng quân như 4 nước kia. Một nước bại trận, mà xem như có thể bị chiếm đóng và trong đó có các sư đoàn Nga can thiệp trong các trận đánh trên đường phố. Bộ tham mưu quân đội Nga dự liệu khả năng của một sự chống cự của quân đội Tiệp Khắc chống sự xâm lăng của Nga, nghĩa là một cuộc chiến tranh địa phương hay ở Âu châu?.

            Vì thế, có thể hiểu được khối lượng lớn lao về các phương tiện Nga đem ra xử dụng. Trong đêm 20 rạng ngày 21-8-1958, bằng khẩu lịnh mật “Danube” mà Nga chuẩn bị từ hôm 8-4 theo chỉ thị GOW/1/87654 của thống chế Gretchko, bộ trưởng quốc phòng Nga, đã huy động hầu hết các lực lượng Nga đóng rải rác trên các lãnh thổ của CHDC Đức, Ba Lan, Hung và Bảo Gia Lợi. Trước hết các đơn vị chiến xa tiêu biểu cho cuộc trấn áp quy mô ở khắp nơi, gồm 4,500 chiến xa, 160,000 quân; năm hôm sau, Tiệp Khắc đã bị 27 sư đoàn, số chiến xa tăng lên đến 6,300, và 800 phi cơ, 2,000 đại bác, huy động gần 400,000 quân, như ăn tươi nuốt sống tràn vào chiếm đóng Tiệp Khắc.

            Để có thể diễn tả được mức độ hung bạo của những con qủy đỏ khủng bố đó. Nên hồi tưởng lại năm 1940 Paris bị Quốc xã Hitler đưa 2,500 chiến xa tấn công, đánh tan nước Pháp trong vòng tuần lễ, cũng không gấp đôi như số lượng chiến xa Nga, và chỉ trang bị vũ khí nhẹ không như vũ khí Nga năm 1968. Trong khi đó với dân số 14,3 triệu và diện tích không bằng phân nửa nước Pháp.

            Theo các nghiên cứu mới nhất khi được biết các hồ sơ được công khai hóa, với con số chính thức đúng đắn, thì có hàng trăn ngàn người, binh sĩ và thừng dân, trong đó có những trẻ em mới 13 tuổi hay những cụ già 80, cũng bị lưu đày: 40,000 người của xứ Ukranine, của Tiệp Khắc bị Hung Gia Lợi chiếm đóng sau khi có hiệp định Munich năm 1938, và bị sát nhập vào Liên Xô năm 1944; Hung Gia Lợi có 9,000,000 dân, hơn 600,000 người có lẽ đã bị lưu đày vào thời buổi đó, trong khi các con số thống kê của Liên Xô chỉ có 526,604 ngàn người, con số đó đã được đưa ra sau khi tới các trại giam và không kể những người chết trong các trại chuyển vận ở Lỗ Ma Ni  (trại Brasov – Terrnsvar – Timisoara, Maramossziger- Maramures) ở Moldavie (Foscani) ở Bessarabie (Balty) hay ở Galicie (Sambor). Khoảng 75% các người bị lưu đày đã đi qua các trại đó. Việc trong các tiểu đoàn lao động của quân đội Hung Gia Lợi. Theo các sự ước lượng thì số người bị bịnh dịch chết tăng lên gấp đôi.
            Xứ Bảo Gia Lợi lúc bấy giờ có 7 triệu dân, ngay sau ngày 9-9-1944, ngày mà “mặt trận ái quốc” và việc quân Nga tiến vào nước nầy, cảnh vệ nhân dân và an ninh quốc gia do  Nga kiểm soát. Những cuộc thanh trừng dã man đã làm cho từ 30,000 tới 40,000 người chết, nhất là thành phẩn có uy tín địa phương. Nhờ có các nhân chứng, sau năm 1989 CS sụp đổ, người ta mới khai quật những hố chôn tập thể như CS Hồ chí Minh áp dụng Tết Mậu thân 1968 tại cố đô Huế và năm 1945 Hồ giết Cao Đài tại Quảng Ngãi và các tỉnh Miển Trung.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               
            Bây giờ nói tời tội ác Mao trạch Đông, con qủy đỏ Hoa Lục:
            Dư luận Âu Mỹ, xem Mao là một “Stalin của Phương Đông” với các tội ác khủng khiếp gây ra với chính nhân dân Trung quốc. Cuốn sách “Mao’s Great Famine” được trao giải 20 bảng Anh tại London. Cuốn sách đã ghi lại những dữ kiện lịch sử, một chứng tích lớn về nỗi đau của loài người mà Mao đã gây ra. Sách đã vượt qua 5 tác phẩm, gồm các cuốn về Bismarck của Jonathan Steinberg và cuốn về Caravaggio của Graham Dixon.

            Theo Ben Macintyre, tác phẩm của Dikotter lả sách “không thể thiếu cho những ai muốn hiểu lịch sử Thế kỷ 20”. Sau khi chiếm được Hoa Lục, chủ nghĩa CS được Mao thực hiện từ năm 1949- 1958. Giai đoạn đầu không thành công; nạn đói lan rộng. Kế hoạch Đại nhảy vọt (Great Leap Forward) 1958-1960 đưa tới hậu qủa tai hại, chủ trương nhảy vọt từ nông nghiệp sang kỷ nghệ lớn. Hậu quả là có khoảng từ 20 tới 40 triệu người chết đói. Năm 1957 Mao cho mở chiến dich “Trăm Hoa Đua Nở”, cho tự do phê bình nên có nhiều người chỉ trích chính sách sai lầm của Mao. Mao biết được thành phần bất phục mình, liền cho thanh trừng tàn bạo khoảng nửa triệu người (500.000) do Đặng tiểu Bình tổ chức. Năm 1957, Mao chỉ trích Khrushev TBT/CS Nga muốn sống chung hoà bình với các nước phương Tây, Mao không ngớt lời chửi bới “bọn xét lại Nga”. Kế hoạch “Đại nhảy vọt ngũ niên” lần thứ hai 1958- 1963 ra sức sản xuất thép cấp hạ tầng từ làng xã trở lên. Nhà cửa bị phá làm củi đốt, nồi niêu xoong chảo phải cung cấp nguyên liệu cho các lò, thành phẩm chỉ là sắt nguyên liệu, phẩm chất qúa kém, dù biết đây là kế hoạch điên rồ nhưng không ai dám hé môi lên tiếng e mất mạng, hoặc  bị tống giam với cáo buộc chống Mao.

            Vì số nông dân lao động chuyển qua là công nhân đúc thép nên vụ mù sút kém, cộng với thời tiết xấu, hạn hán, rồi lụt lội. Vào tháng 7-1959 sông Hoàng Hà gây lụt lội khiến cho khoảng 2 triệu người chết vì nạn lụt và nạn đóit. Tại miền quê buộc phải triệt để theo chính sách của Mao nên vô cùng thiệt hại, chết rất nhiều tại các nơi như An Huy, Cam Túc, Hà Nam, tỉnh Tứ Xuyên là nơi đông dân và mầu mỡ lại bị chết đói nhiều nhất.

            Kế hoạch nhảy vọt hai lần của Mao hoàn toàn thất bại, bị ngưng lại đảng phài nhập cảng gạo từ Úc, Canada, nạn chết đói giảm. Nhà nước chỉ chính thức tuyên bố chỉ có 14 triệu bị chết đói mà thôi, nhưng trên thực tế theo các nhà học giả ước tính số người chết từ 20 đến 40 triệu. Năm 1959 Mao từ chức Chủ tịch nước, Lưu Thiếu Kỳ lên thay, Đặng Tiểu Bình giữ chức Tổng bí thư đảng. Bành Đức Hoài, Bộ trưởng quốc phòng chống đối kế hoạnh của Mao, bị thanh trừng kết án theo Nga, giao lại cho Lâm Bưu. Thời kỳ nhảy vọt Mao ở tuổi 60, thời kỳ cách mạng văn hóa, Mao ở tuổi 70, thời kỳ bang giao với Mỹ, Mao ở tuổi 80. Khi Mao chết thì Đặng Tiểu Bình thay đổi chính sách cũ qua con đường kinh tế thị trường cứu vãn được sự sụp đổ nền kinh tế, chính trị của Trung Quốc kéo dài tới nay. Nhờ đó xã hội CS Trung Quốc đã nhanh chóng phát triển kinh tế, từ chỗ người dân bữa cơm, bữa cháo tiến đến hai bữa cơm no nhờ các doanh nghiệp Mỹ đầu tư, người dân có công ăn việc làm từ khi Đặng Tiểu Bình mở cánh cửa kinh tế thị trường. Và cũng từ đó; cán bộ đảng nhanh chóng biến thành “tư bản đỏ” và bè lũ tham nhũng, củng cố phe cánh, thanh trừng lẫn nhau.
            Mao có thể là nhân vật quan trọng đối lịch sử thế giới, nhưng ông ta ảnh hưởng tai hại với Trung Quốc và cả thế giới, đã đày đọa giết hại nhân dân suốt 26 năm thống trị. Không những thế, Mao đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra hai cuộc chiến Triều Tiên 1950- 1953 và Đông Dương 1950- 1975 làm chết hàng triệu, triệu người gồm Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Pháp & Mỹ. Chính Mao là tội phạm kéo lùi nước Tàu trở lại thời Trung cổ, chết đói, nghèo khó và lạc hậu cho đến cuối đời khi gẩn chết mới tỉnh mộng CS, vội bắt tay với Mỹ mới đưa đất nước ra khỏi cơn tối tăm, lạc hậu. Mà trước đó Mao đã mù quáng dắt dân Tàu “nhảy vọt vào vực thẳm chủ nghĩa CS ảo tưởng” đầy ngu xuẩn và sai lầm. Ấy thế mà bọn CS “đồng chí” đàn em lập lăng miếu thờ phụng, bắt dân sùng bái, ca tụng quả thật là điều quái gở. Trong khi tại Đài Loan, một đảo quốc nhỏ bé thực thi chế độ dân chủ đa nguyên, đa kinh tế đã biến đảo quốc nhỏ bé nầy lên hàng cường quốc kinh tế Á Châu.

                      Hồ chí Minh & tập đoàn tội ác đảng Cộng sản:
            Trong các chế độ độctài và bạo quyền CS; thì hệ thống tuyên truyền của chế độ cho đến Sách vở giáo khoa đều bắt học sinh cùng toàn dân phải suy tôn, thần thánh hóa nhân vật lãnh tụ như Hồ chí Minh, như Mao, như Kim nhật Thành và Kim chánh Nhật, phải xưng tụng là: “Vị cha già dân tộc”, “Lãnh tụ kính yêu”, “Anh hùng kiệt xuất”... Thậm chí sau khi Hồ chết; đã có lần bọn đồ tể đàn em bỏ công & của, cố vận động UNESCO cho Hồ vào danh sách những “Danh nhân văn hoá thế giới” mới kinh tởm chứ!? Nếu không có các tổ chức đấu tranh yêu nước tại hải ngoại, chống tội ác Hồ chí Minh và đảng CS. Diện mạo đích thực của Hồ là những tên tội phạm diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội phạm chiến tranh đã minh thị những bằng chứng cụ thể trưng dẫn. Lập tức UNESCO đã loại trừ; không thể nào mù quáng để bị rơi vào một sai lầm như bọn phản chiến Mỹ thời chiến tranh Việt Nam; chúng như một sự đồng loã với tội phạm CS Hà nội cho đến sau biến cố tang thương 30 tháng Tư 1975, họ mới sáng mắt ra và bắt đẩu sấm hối.

            Nhờ thời đại của trang mạng tin học “thông tin hóa toàn cầu” chỉ trong cái nháy mắt tin tức được truyền thông khắp thế giới, CS không còn ngăn chận, che dấu và bưng bít được nữa. Dưới ánh sáng mặt trời công lý; tội đồ Hồ chí Minh đã từ từ lộ diện một tên phản quốc, tên tay sai, tên Hán tộc ngụy trá, tên đại đồ tể. Qua các hệ thống Youtub, những Vedio của LM Nguyễn Ngọc Lễ “Lột mặt nạ tên gỉa trá Hồ chí Minh” mà dân tộc VN cùng nhân loại nhìn tận mắt, vô cùng kinh tởm. Do đó, tập đoàn phản quốc đảng CS, ra sức kêu gào và buộc người dân “Ra sức học tập tư tưởng, đạo đức Hồ chí Minh và làm theo lời bác” đã vô tác dụng, vứt vào sọt rác lịch sử.
            Theo những tờ báo lớn của Anh, One Response và tờ báo Ba Lan, Polska Times có số lượng truy cập lớn, thì Hồ chí Minh và đảng CSVN là một trong những tên trùm diệt chủng tàn ác nhất thế kỷ 20.
            Những tờ báo nầy, đã liệt Hồ chí Minh và Lê Duẩn là hai con qủy đỏ trong lịch Việt Nam và nhân loại. Ta hãy xem hồ sơ tội ác Hồ và đảng CS vào 3 thời kỳ theo thứ tự thời gian như sau:
                                   I.- Vào tháng 8-1945 tại miền Trung :
            Khi bị 2 trái bom nguyên tử liệng xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Hồ chớp thời cơ; liền quay qua diệt trừ đối lập tại quảng ngãi các nhà trí thức yêu nước nỗi tiếng như Tạ Thu Thâu, các nhân sĩ quốc gia chân chính như: Cao Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhân, Hồ Hồng và hàng loạt những nhà bất đồng chính kiến khác bị giết và cướp đoạt tất cà tài sản của họ.
             
            Trong 3 tuần lễ đầu, từ ngày 19-8-1945 đã thủ tiêu, tàn sát 2,791 chức sắc và đạo hữu Cao Đài bằng nhiều hình thức dã man như: chém đầu, chôn sống tập thề, thả biển, kể cả hình thức “tùng xèo” như thời trung cổ để răn đe và khủng bố tinh thần dân tộc. Các chức sắc cao cấp như: Đức Liễu Trần Chơn, Huỳnh Ngọc Trác, Gs Lê Đức, Gs Hoàng Ngọc Thành và các đạo hữu Nguyễn Trân, Lê Đường, Lê Quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kinh, Bùi Phụng, Nguyễn Tống, Trần Lương Hiếu, Lê Văn Ký, Phạm Văn Tỵ v.v...... . Tại Quảng Nam Gs Nguyễn Hồng Phong cùng 5 nhân sĩ khác tại làng Bầu v.v....  đây là lịnh mật “tận sát Cao đài” từ Hồ ban ra cho Nguyễn Chánh, Phạm Văn Đồng thi hành.

            Tiếp theo những năm 1949-1954, CS tiếp tục bắt bớ giam cầm, tra tấn tại Bồng Sơn, Bình Định, một phiên “Tòa án nhân dân” đấu tố 3 vị Phối Sư: Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đáng, Trần Nguyên Chất, bị kết án 10 năm tù và 97 đồng đạo khác từ 1 đến 8 năm tù về tội truyền đạo và hành đạo, cùng các Phối Sư và Giáo Sĩ trong các lao ngục CS, họ bị tra tấn và ngược đãi mà chết gồm có: Trần Nguyên Chất, chết tại lao xá Quảng Nam, Nguyễn Đình Anh chết tại lao xá Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, Phạm Nghĩa, chết tại lao xá Ha Ra, Phú Yên, Gs Cao Hữu Chí, xử tử hình bị hành quyết tại Quế Sơn, Quảng Nam năm 1953 v.v....... .
                            Tại Miền Nam (Các tỉnh miền Đông và miền Tây):
            Cao đài các tỉnh: Gò Công, Long An, Trà Vinh, Sa Đéc, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười và Biên Hòa số người bị hành quyết khoảng 30,000 người, bằng hình thức chôn sống và bắn tập thể, vùi thây chung vào một cái hố. Tại Trảng Bàng, Tây Ninh người ta tìm thấy hàng trăm xác người gồm đàn bà và trẻ con vô tội v.v...... .

            Ngoài ra, sau vụ hành quyết nhà yêu nước Tạ Thu Thâu tại Quảng Ngãi xong, Hồ tiếp tục thủ tiêu mấy chục lãnh đạo và cán bộ cao cấp Đệ Tứ Quốc Tế tại miền Nam. Theo dư luận cho biết các lãnh đạo Đệ Tứ tập trung tại Xuân Trường, cách Thủ Đức mấy cây số. Có một cuộc thảo luận rôi nổi về vấn đề nên trở về thành áp dụng sách lược đấu tranh bất bạo động như  Gandy, hay ở ngoài tiếp tục cuộc tranh đấu (lúc bấy giờ Pháp đã làm chủ tình hình ở Sài Gòn). Đa số không chịu về thành. Thế là lần lượt bị CS dụ bắt đem ra Ba Lòng Sông (Phan Rí) thủ tiêu hết. Đồng thời với việc săn bắt đức Hùỳnh Phú Sổ không thành, Hồ chiêu dụ Đức Huỳnh tham chính nên bị sa lưới. Chuyện kễ rằng: ngày 15-4-1947, Huỳnh Phú Sổ đang ở Đốc Vàng Thượng thì có Trần Văn Nguyên, thanh tra chính trị miền Tây tới mời  Đức Thầy đi Sadec để hoà giải những vụ xung đột quần chúng CS Việt Minh với Hòa Hảo, Huỳnh Phú Sổ chấp nhận ra đi với 4 cận vệ võ trang đến nơi hôi đàm với Trần văn Nguyên tại xã Phú Thành, Vùng Đốc Vàng Hạ, quận Tân Phú có Bữu Vinh, tới xin gặp Ngài và báo cáo: “Hoà Hảo Dân Xả Đảng” giết người của Việt Minh ở Lấp Vò. 

Do đó Bữu Vinh yêu cầu Ngài  đến đó để giải quyết. Ngài bảo Bữu Vinh cùng đi đến đó để giải quyết, thì Vinh đòi phải cho bộ đội võ trang của Y cùng đi thì Y mới đi. Đức Huỷnh Phú Sổ, không ngờ Hồ dụ Ngài hợp tác, tham chính là đã giăng mẻ lưới để thủ tiêu diệt con mồi khó diệt. Tới nơi đóng quân của Vinh cách đó không xa. Mặc dù cũng có đông đảo quân PGHH của Ngài án ngữ trong vùng. Do chủ quan nên Ngài chỉ dẫn theo 1 thư ký và 4 cận vệ quân cùng 1 liên lạc viên với 3 người chèo ghe. Đến nơi thì trời đã tối, theo tài liệu; vào cuộc họp, Ngài ngồi ngay giữa bàn, Vinh ngồi đối diện, 4 cận vệ đứng 2 bên Ngài, thình lình xuất hiện 8 tên sát thủ xông vào đâm 4 bảo vệ, 3 chết ngay tại chỗ, một chạy thoát ra ngoài bắn loạn xạ một tràn tiểu liên là Phan Văn Tỷ, chạy thoát thân. Đức Huỳnh vội tắt đèn căn phòng tối ôm, ở ngoài viên thư ký và 3 tay chèo phóng ghe tẩu thoát. Huỳnh Phú Sổ bị Vinh bắt sống. Quân PGHH tại Phú Thành hay tin liền báo động và toan kéo đến giải vây khoảng 11 giờ đêm. Thì bỗng có một tín đồ Hòa Hảo mang về một bức thư; nội dung chỉ thị cho hai ông tư lệnh Trần Văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ rằng: “Nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi (Đức Thầy) bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng náo động. Cấm chỉ mọi đồn đải, cấm chỉ kéo quân đến tiếp cứu, hãy đóng quân y tại chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bảo Vinh điều tra kỷ lưởng rồi sẽ về sau. Phải triệt để tuân lệnh”. Ông Mai Văn Dậu chánh văn phòng đối chiếu chữ viết từ nét bút và chữ ký là chính xác của Đức Huỳnh, nên mọi người tuân lệnh. Nhưng có ngờ đâu cái trò gian manh của Hồ từng áp dụng; chúng khủng bố tinh thần một cách rùng rợn, rồi đưa ra bản nháp chúng viết sẵn, dụ, hoặc khủng bố, ép đối tượng viết y như thế. Khi viết xong chúng thủ tiêu ngay, hoặc giữ làm con tin., tùy bối cảnh chúng thực hiện mưu ma chước quỷ.

            Vụ khác; đến lượt Hồ ra lịnh thủ tiêu Cha Trương Bửu Diệp tại xứ đạo Tắc Sậy, Bạc Liêu. chuyện kể rằng: trong thời gian năm 1945 – 1946, CS vô thần Hồ chí Minh khủng bố tôn giáo rất tàn bạo. CS đang hoạt động tại nơi ấy, bà con trong xứ đạo cũng bắt đầu di tản, Cha bề trên địa phận là Phêrô Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và Toà Giám Mục nhiều lần khuyên Ngài tạm lánh, khi nào tình thế cho phép thì trở lại, nhưng Ngài từ chối và trả lời: “Tôi là Linh mục sống giữa đoàn chiên và nếu chết cũng chết giữa đoàn chiên. Tôi không đi đâu hết”. Thế là chiều 12-3-1946, Ngài bị CS bắt cùng với trên 70 giáo dân bổn đạo tại Tắc Sậy, chúng đem nhốt Ngài chung với bổn đạo tại lẫm lúa của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Ngài thẳng thắn tranh cãi với VC, binh vực quyền lợi của giáo dân, quyền tự do tôn giáo, Ngài  nói thẳng vào mặt bọn VC rằng: “nếu bỏ tù, thì bỏ tù Ngài, hoặc giết thì cứ giết Ngài” chết thay cho giáo dân, đừng làm khó họ. Tối đó, chúng dẫn Ngai đi và thủ tiêu trong đêm; Ngài đã hiển thánh và báo mộng cho giáo dân biết Ngài bị VC giết; đến ao ông giáo Sự lấy xác Ngài. Qủa nhiên; giáo dân đến đó vớt xác Ngài lên thấy dấu chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giê Su trên Thập gía.

            Đối với tập đoàn CS vô thần, qủy đỏ Hồ chí Minh, thì các tôn giáo chúng thẳng tay tiêu diệt dưới mọi hình thứci. Từ Linh mục, Giám mục, Sư sãi, Giáo sĩ sống dưới chê độ CS là thời kinh hoàng nhất. Tiếng chuông chiều đã im bặc trên giáo đường, trên chùa chiền. Trên đây là tiêu biểu một trên muôn vàn trường hợp tội ác khác của Hồ và đàng CS từ khi chúng du nhập, tôn thờ tà thuyết Mac- Lê, chủ nghĩa CS về dày Mã Tổ Hùng Vương từ những năm 1945 tới nay.
      II.-Tội ác diệt chủng của Hồ và  ĐCS, qua cải cách & đấu tố địa chủ.
     “Món nợ tội ác đó của Đảng Cộng Sản ngày nào mới trả cho Dân Tộc Việt Nam ?”
            Theo thống kê nội bộ của ĐCS (chưa dám công khai hóa) như sau:
            - Số địa chủ thường từ : 51,480 -  82,777.
            - Số địa chủ tham gia kháng chiến từ : 290,000 – 586,000.
            - Số địa chủ cường hào ác bá từ : 20,493 - 26,453.
            Trong số 3,314 xã miền Bắc, hơn 80 ngàn gia đình địa chủ bị bắt đem ra đấu tố, hành quyết. Mỗi gia đình ước tính trung bình từ 4 đến 5 người bị liên quan, nên số nạn nhân có thể lên đến 400,000 người. Họ bị đấu tố.mất mạng, mất nhà và tiền của, số còn sống sót thì đói khát, ốm đau, suy kiệt; gia đình tan nát, đổ vỡ, con cái thất học và cô lập... . Số bị liệt vào tội cường hào ác bá, bị tra tấn và hành quyết dưới nhiều hình thức man sợ lên đến 26,000 người, tính cả những gia đình bị điêu đứng theo, thì con số nạn nhân có thể lên đến nửa triệu người (500,000).

            Chưa hết, theo thống kê nội bộ được tiến hành ở 2,876 chi bộ ĐCS, gồm có 15 vạn đảng viên CS (150,000) đã có đến 84 ngàn (84,000) đảng viên, cán bộ cũng bị các đội đấu tố cáo buộc, và xử lý như (bị tù, tra tấn, làm nhục và bị thủ tiêu) chiếm 47%. Con số khủng khiếp nầy nhiều hơn con số địa chủ bị đấu tố, đảng ra  lịnh dấu kín). Số nầy tra tấn tàn khốc hơn dân thường, cố tình cáo buộc, gán ghép phẩn tử thù địch, chui sâu, leo cao vào đảng để phá từ bên trong, hầu hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn.

            Bước đầu, các đội cán bộ cài cách ruộng đất (CCRĐ) và các làng xã áp dụng chính sách “3 cùng” ( cùng ăn, cùng ngủ, cùng tố) với các bần cố nông, và kết nạp họ thành “rễ” thành “cành” của đội đấu tố, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau: Phân định 5 thành phần theo chỉ thị:  (A) là địa chủ, (B) là Phú nông ; (C) trung nông 1 (sở hữu 1 con bò, 1 con heo, 1 đàn gà); trung nông 2 (sở hữu 1 con heo, 1 đàn gà); trung nông 3; (sở hữ 1 đàn gà và không còn gì cả); (F) bần nông; (G) cố nông (chẳng có thứ gì). Những gia đình có 2 con heo được liệt vào phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn, mà các đoàn và đội CCRĐ đều phải truy bức để đôn lên tỷ lệ địa chủ đạt chỉ tiêu 5% như quy định bắt buộc, gọi là “kích thành phần”. Tất cả thành phần được phân loại địa chủ, đội cãi cách phân loại một lần nữa: (Á1) là địa chủ gian ác; (À2) là địa chủ thường, (Ả3) là địa chủ ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội CC bắt ngay lập tức.
            Cuộc đấu tố diễn ra được mệnh danh “Ngày long trời, Đêm lỡ đất” máu đổ, thị rơi, xương tan, tiếng rên xiết dưới những tay đao phủ đội CCRĐ là thành qủa cách mạng phi thường của Hồ và ĐCS. -  Ta hãy nghe những vần thơ qủy đỏ khát máu của Tố Hữu  rợn người không chứ!
                        Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghĩ
                        Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
                        Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
                        Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt.@
Đây; qủa là thơ của qủy đúng nghĩa, chỉ có chế độ CS mới sản sinh loại mặt người dạ thú..
            Giã sử chính phủ ra “sắc lệnh” kêu gọi địa chủ hiến ruộng đất cho chính phủ để phân phát cho nông dân nghèo không có ruộng cày, chính phủ quy định số ruộng được để lại, phù hợp theo cuộc cách mạng xã hội mới (không được bồi hoàn). Nếu họ ngoan cố bất tuân, cố tình chống lại, thì chính phủ mới áp dụng biện pháp chế tài chứ?. Đằng nầy; ruộng đất của tổ tiên (ông cha họ di sản cho họ thừa hưởng theo luật lệ cũ, họ phạm tội gì?. Thế mà chế độ CS Nga, Tàu, Việt Nam lại quá tàn ác, dã man nhất trong lịch sử nhân loại từ Đông sang Tây. Một món nợ tàn bạo “Ngàn năm bia miệng, vẫn còn trơ trơ”. Chưa hết; ngay sau khi CCRD, Hồ theo mệnh lệnh Stalin và Mao đã cưỡng bức nông dân đi vào con đường tập thể hóa nông nghiệp; từ làng, xã thành hợp tác xã, theo kiểu Công Xã Nhân Dân tại Trung Cộng và Nông Trường Sô Viết tại Nga. Đất đai tập trung vào tay nhà nước qua việc thành lập những hợp tác xã, người nông dân đi làm công cho như một nô lệ cho ban quản lý HTX, người nông dân ngày càng trở nên đói rách hơn xưa, khi làm tá diền cho phú nông, địa chủ còn có miếng cơm, manh áo, khi thiếu thốn chạy đến được họ cứu giúp. Từ khi bác và đảng trao cái mỹ từ “làm chủ đất nước” làm “xã viên” biến thành nô lệ, kéo cày thay trâu cho một thứ chủ nhân bót lột kiểu mới đó là ĐCS.

            Hợp tác hóa nông nghiệp, máu không tuôn chảy, nhưng đó là con đường nghèo đói rã họng, chết dần mòn thiếu dinh dưỡng suốt từ năm 1958 – 1985, nông dân chỉ sống cầm hơi nhờ mảnh đất 5% dành lại cho từng hộ, trong khi đó 95% diện tích buộc đưa vào tập thể không sản xuất nổi sản phẩm ngang bằng 5% kia. Mặc cho nông dân nghèo đói cơ cực, mặc cho vô vàn đảng viên kêu trời về sự phi lý và ngu muội. Nông dân bị dồn vào thế khốn cùng phải liều mạng xé rào, đề cứu lấy mình, lúc ấy đảng mới “sáng suốt” mở mắt theo. Ngay sau khi nông dân thoát khỏi chiếc gông cùm tập thề hóa của ĐCS, được tư do sản xuất từ sau năm 1986, lập tức sản lượng lúa gạo nhảy vọt vượt kỷ lục. Việt Nam trở thành nước sản xuất gạo hàng đầu; điều nầy càng chứng tỏ ĐCS đắc tội về phá hoại, bần cùng hóa nông dân suốt 30 năm xuẩn độn bởi Hồ và tập đoàn ĐCS rập khuông Nga, Tàu.

            Cùng với tai họa khủng khiếp ấy; ĐCS cưỡng chế hàng triệu thanh niên vào quân đội nhân dân xua vào Nam với chiêu bài “giải phóng” nơi thanh bình, tự do, văn minh, trù phú và no ấm. Thế mà tập đoàn tay sai Hồ chí Minh, Lê Duẩn gieo vô vàn tang thương và đẫm máu dân tộc; lại còn dám khoe cái bản chất nô lệ “Ta đánh đây là đánh cho Nga, đánh cho Tàu” câu nầy khắc trên lăng mộ Duẩn mới trơ trẽn và mĩa mia không chứ?. Rồi theo lịnh Nga, Duẩn xua quân qua Campuchia; có hơn 50 ngàn quân bỏ mạng trên chiến trường, và hơn 200,000 bị thương tàn phế. Thế thì hiện nay ĐCS “Đền ơn đáp nghĩa” với đồng bào ra sao? Hãy nhìn tận mắt; những Mẹ anh hùng, những Lão thành cách mạng, Mẹ liệt sĩ nối đuôi nhau trước nhà “tiếp dân” tại Hà Nội, Sài Gòn đòi lại ruộng dất, nhà cửa đã bị quan chức đảng cường hào ác bá CS cướp đoạt bồi thường với giá rẽ mạt (1/100.000) khi chúng quy hoạch bán ra cho doanh gia nước ngoài.

            Vậy thì ĐCS hãy trả lời ! Cái món nợ tội ác đó khi nào phải trả?, Đồng ruộng, đất đai là sinh mạng của nông dân, và giang sơn của tổ tiên đem máu xương dựng nước, giữ nước trải qua chiều dài lịch sử 4 ngàn năm văn hiến, nay tập đoàn CSHN dâng hiến non sông cho Tàu,  kẻ thù truyền của dân tộc Việt Nam qua “Mật Nghị Thành Đô 1990” phản bội tổ quốc, phản bội dân tộc, cam tâm làm tay sai cho giặc bành trướng Bắc Kinh, mà mới đây tên bán nước Nguyễn phú Trọng, TBT/ĐCS công khai tuyên bố; sau khi thành phần cấp tiến trong quốc hội buộc Trọng trả lời, Trọng không còn che dấu, trả lời như sau:
            “Tôi đã nhiều lần giải trình rằng cơ chế Liên Bang XHCN Trung Quốc là một mô hình hiện đại, đã tỏ ra thành công ở nhiều nơi, tuyệt vời. Ví dụ như Liên Âu (EU), Mỹ (USA). Úc, Cannada. Nay Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu đề xuất và tham gia Liên Bang XHCN Trung Quốc (United States of Scocialist China – USSC). Trong khuôn khổ cơ chế nầy, hai Đảng Cộng sản dẽ hòa nhập hài hoà; vấn đề Nam sa, Tây sa được vĩnh viễn giải quyết dứt khoát trong tình hữu nghị Trung – Việt. Đây cũng là một mặt của qúa trình triển khai phạm trù triết học: “bảo vệ đảng, bảo vệ cơ chế và giúp chủ nghĩa xã hội ở Việt nam tiến lên với thế giới giàu mạnh, đẹp đẻ bên cạnh đại cường Trung quốc”.

            Lâu nay chúng cố che dấu như mèo “dấu cứt” thì bọn CS Bắc Kinh đã bạch hóa. Đồng bào và các giới trí thức trong hàng ngũ đảng viên quân dân chính phẫn nộ trước sự kiện nầy ĐCS trả lời, thì TBT Nguyễn phú Trọng mới thố lô về "Mật Ước Bán Nước, Thành Đô" qua nội dung trên.      
            ĐCS, còn che mắt được nhân dân? Còn dấu được tội bán nước? Có lòi mặt lũ chuột cống “Tư Bản Đỏ” tham nhũng hút máu đồng bào không? Nông dân và đồng bào Việt Nam ngày nay gọi chúng là “bọn thái thú mới” là giặc nội thù, là đảng cướp. Tội ác tày trời ngày càng chồng chất đã đến lúc “Trời không dung & đất không tha” “Hồn thiêng sông núi và anh linh tiền nhân hờn căm, phẫn nộ” nhất định sẽ thôi thúc dân tộc vùng dậy tiêu diệt bọn bán nước, hại dân, phản bội Tổ Quốc không còn xa nữa.
            Tóm lại, trong cái gọi là “cuộc cách mạng CCRĐ” nêu trên; Hồ và ĐCS rập khuôn quan thầy Stalin và Mao, đã nặng nợ máu xương với dân tộc cao như núi Thái Sơn; hiện nguyên hình những tên vô thần, qủy đỏ, tên trùm tội ác ghê gớm nhất với dân tộc Việt. Trong thời kỳ nầy; khắp vùng nông các tỉnh miền Bắc “trắng xóa những vành khăn tang, trắng đến lạnh người”. Xã hội Việt Nam từ ấy đảo lộn mọi luân thường đạo lý: “Con tố cha, vợ tố chồng, cháu gọi ông bà, cha mẹ bằng “mầy” “thằng nọ, con kia”. Đó là nền tảng đạo đức “cách mạng thời đại Hồ chí Minh”. Người học trò gương mẫu chủ nghĩa Mác- Lê là TBT Trường Chinh (Đặng xuân Khu) cánh tay mặt của Hồ, lôi cha mẹ mình ra đấu tố, xỉ nhục trước quần chúng bần cố nông.
            Liệu các chế độ vô thần, phản chân lý, phi nhân bản; qua khái niệm chủ nghĩa xã hội, một phạm trù ảo tưỏng được xây dựng trên nền tảng bạo lực, bạo tàn; cây độc dược dã man đó, bừng lên lớn dậy tại Nga và Động Âu cũng ngoài 70 năm. Nó đã đâm rễ, nẩy mầm muốn trường thọ “muôn năm” thì cớ sao bị trốc gốc lên chứ?!

III.- Tội Ác của Hồ & ĐCS Trong Trận Mậu Thân 1968 tại Cố Đô Huế:
            Nói đến CS là phải nói đến tội ác & lừa bịp: Hồ chí Minh và tập đòan CS khát máu lợi dụng tinh thần nhân bản của Việt Nam Cộng Hoà luôn luôn “Trọng Đạo Thiêng Liêng” văn hóa ngàn đời của Tổ Tiên & Dân tộc; nhất là trong dịp Tết Nguyên Đán, ai cũng có ông bà, tổ tiên trong mái ấm gia đình. Hồ đã đánh lừa ký  Hưu Chiến với VNCH trong những ngày Tết Nguyên Đán để binh sĩ về với mái ấm gia đình. Thì Hồ xua quân tấn công toàn diện các thành thị miền Nam. Binh sĩ rời đơn vị về ăn Tết với gia đình, Hồ tưởng rằng sẽ đánh bại được VNCH trong âm mưu nầy, nhưng Hồ đã vở mộng, bứt mạch máu nảo chết sau đó. Khi quân CS tràn ngập Sài Gòn và các thành thị, chúng không khác gì vào rọ, đưa chân vào tử huyệ; mà từ lâu quân đội VNCH và Đồng Minh hành quân truy kích trên các chiến trường, nơi rừng sâu. Chỉ trong những ngày đầu bất ngờ, và liền sau đó quân đội VNCH về đơn vị, chỉnh đốn hàng ngũ, phản công truy diệt toàn bộ đại đơn vị cộng quân. Những bô chỉ huy bị tiêu diệt, binh sĩ chạy tán loạn ngơ ngác tìm đường thoát thân mà không thấy nhân dân nổi dậy đón tiếp như Hồ tuyên truyền; mà bị dân Sài Gòn chỉ chúng đưa thân nạp mạng cho những đồn bót cảnh sát, hoặc quân đội VN CH.

            Theo Trần Bạch Đằng, tên tình báo chiến lươc CS. Trên một bài báo đăng trên tờ Sài Gòn Giải phóng sau 30-4-1975, Đằng đã đánh giá, nhận định và phê phán rằng: “Võ Nguyên Giáp đã rơi vào một sai lầm nghiêm trọng trong trận Mậu Thân, một thất bại lớn lao, nướng quân lên tới con số gần cả 100,000 ngàn.  Là một thất bại hoàn toàn vê quân sự, chỉ vớt vát về mặt chính trị tại Whashington là khơi dậy phong trào phàn chiến Mỹ từ đám cực tả mà thôi!

            Như trên đã nói; Hồ đưa quân vào rọ, cùng đường, buộc quân CS phải đánh liều mạng, tìm cái sống trong chết mà bọn chỉ huy tàn ác thường áp dụng. Hơn thế nữa; với dã tâm quyết chiếm cho bằng được Huế và Quảng Trị làm bàn đạp chiến lươc để xâm nhập qua ngã vĩ tuyến 17. Quân CS Bắc Việt tại Huế, bị quân VNCH và Đồng Minh khép chặt vòng vây. Trong thời gian gần cả tháng trời nầy, bọn nằm vùng như Hoàng phủ Ngọc Tường, Hoàng phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê văn Hảo, Nguyễn Hoá, bọn đồ tể dã man nầy thi hành mệnh lệnh của Hồ tại Hà Nội; những cuộc tàn sát đẩm máu đồng bào Huế; rùng sợn nhất, khủng kiếp nhất trong lịch sử  với khẩu hiệu “giết lầm hơn bỏ sót” của CS.
            Theo tài liệu thống kê của Pike Douglas như sau:
            * Tổng số dân sự tử vong : 7.600 người chết lẫn mất tích.
            * Bị thương vì chiến trường đôi bên giao tranh: gần 2,000 người.
            * Số tử thi tìm thấy trong đợt đầu sau cuộc chiến : 1,173 người.
            * Số tử thi tìm thấy trong đợt nhì : 809 người.
            * Số tử thi tìm thấy trong đợt ba : 428 người.
            * Số tử thi tìm thấy trong đợt tư : 300 người.
            * Số tử thi tìm thấy trong đợt năm 1969 : 100 người.
            * Số mất tích : 1,946 người (tính đến năm 1970) và một số không ai biết, để khai báo.
Ngoài ra còn phát giác các mồ chôn tập thể tại các địa điểm, khi cộng quân rút chạy:
            * 21 người tại Trường Gia Hội, 203 người tại Chùa Theravada, 43 người tại Bãi Dâu (Gia Hội), 25 người tại Cồn Hến, 101 người tại Tiểu Chủng Viện, 6 người tại Quận Tả Ngạn, 21 người, 25 người Phía Đông Huế, 203 người Lăng Tự Đức, Đồng Khánh, 20 người Cầu An Ninh, 7 người cửa Đông Ba, 4 người Trường An Ninh Hạ, 8 người Trường Văn Chí, 102 người Chợ Thông.

          Số thương vong của quân đội VNCH và Hoa Kỳ như sau :
            * 384 quân nhân tử trận và 1,830 quân nhân bị thương.
            * 74 Bộ binh mỹ tử trận và 507 bị thương.
            * 142 Thủy quân lục chiến Mỹ tử trận và  857 bị thương.

          Số tử vong của quân Cộng Sản Bắc Việt đếm được như sau :
            * 5,000 cộng quân bỏ xác tại trận, số bị thương chúng mang đi không kiểm chứng được.

            Số viên chức (Cán, chính VNCH) CS giết được thống kê như sau:
            * 790 Hội viên các hội đồng tỉnh, thị xã và xã, phường.
            * 1892 nhân viên hành chánh và 38 cảnh sát cùng hàng 100 thanh niên.
            * 1 Linh mục VN là LM Bửu Đồng và 3 LM Pháp dòng Benedicto Thiên An là Lm. Urbain và Lm. Guy và 1 Lm thuộc Hội Thừa Sai Paris là Cressonnier, và 4 GS người Đức và vợ chồng BS Gunther Krainick, Bs Raimund Discher, Bs AlterKoster, họ tình nguyện dạy tại Đại Học Y Khoa Huế. Số người bị VC bắt ngày 05-2-1968. Về sau xác họ được tìm thấy ở gần chùa Tường Vân.
            * 20 người Phi Luật Tân là những viên chức thiện nguyện về công tác (Dân sự vụ).
            Cộng quân sau khi tháo chạy, đã bắt dẫn đi đến vài ngàn người để làm phu khuân vác, làm con tin và làm bia đỡ đạn để tránh bị quân VNCH và đồng minh pháo kích hay chận đánh sợ bị chết dân mình để chúng an toàn rút vào rừng tẩu thoát. Khi cộng quân biến vào rừng chúng giết tất cả những người nầy. Chúng ra lệnh cho những người bị bắt phải đào hố tránh bom đạn, khi đào xong; cộng quân trói thúc ké tay chân những người nầy quăng xuống hố rồi lấp đấtchôn sống, không bắn sợ gây tiếng nổ lộ mục tiêu. Theo bản đồ các vị trí mồ chôn tập thể cho thấy cộng quân rút theo hai hướng:
            Hướng 1: qua đường Nam Giao đến lăng các vua Nguyễn lên vùng núi. Ngôi mộ tập thể xa nhất về hướng Khe Đá Mài là 428 xác, thuộc quận Nam Hà, cách Huế 40 cây số.
            Hướng 2: qua ngã Chợ Cống hoặc Dã Lệ. Ngôi mộ tập thể nầy xa nhất về hướng Vinh Thái có 135 xác, thuộc quận Phú Thứ, cách Huế hơn 40 cây số về phía đông Nam. Theo tài liệu thống kê có tất cà 19 khu vực chôn người tập thể một cách tàn bạo của CS. Đây là tội ác của tên quỷ đỏ, đại đồ tể Hồ chí Minh và tập đoàn CS khát máu có một không hai “vô tiền khoáng hậu trong lịch sử dân tộc”.

  VI: - Tội Diệt Chủng,  Tội Phạm Chiến Tranh 30-4-1975 và Tội Bán Nước.
            Tập đoàn tay sai, phản quốc CSHN, sau khi ký hiệp định hoà bình Paris năm 1973 chưa ráo mực. Lợi dụng tình hình chính trị rối ren tại Mỹ, TT Nixon từ chức vụ Watergate. CSHN, theo lệnh CS Nga, Tàu cùng khối CS quốc tế. Chúng xé hiệp định Paris; xua quân nhuộm đỏ miền Nam ngày 30-4-1975, khiến đồng bào như ong vỡ tổ; gần 3 triệu người (3,000,000) chạy ra biển Đông và đường rừng qua ngã Miên, Lào đến Thái Lan, để trốn thoát CS. It nhất có trên 5 trăm ngàn người chế (500,000) trên biển khơi và rừng thẳm. Những cuộc cướp bóc, vơ vét tài sản của đồng bào miền Nam đưa về Bắc; CS tái diễn những cuộc đấu tố điền chủ, tư sản, mại bản từ thành thị đến nông thôn, cướp đoạt tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, giam cầm, thủ tiêu; đuổi vợ con lên vùng rừng thiêng nước độc nhằm tiêu diệt lớp người nầy mà chúng buộc tội trí thức, tư sản là kẻ thù dân tộc.

            Thành phẩn quân, cán chính VNCH; chúng đánh lừa: kêu gọi tham gia học tập cải tạo tư tưởng và lao động (mang theo lương thực 20 ngày ăn đến 1 tháng). Thế là bị chúng lùa vào rọ bằng các trại tù tập trung lao động khổ sai khắp núi rừng từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vô Nam sau biến cố bị CS Tàu đánh chiếm 10 tỉnh biên giới phía Bắc năm 1978. Tù chính trị VNCH không có ngày về từ những năm tháng ấy. Đối tượng bị chúng liệt vào thành phần nguy hiểm bị gông cùm hành hạ, ngược đãi. Tù lao động khổ sai, đói rét; số người tử vong vì suy dinh dưỡng đưa tới bịnh tật tật, số khác bị thủ tiêu cũng lên đến con số mấy vạn.
            Mãi cho đến những năm 1981- 1985 thời TT Mỹ (ĐCH) Ronald Regan đắc cử. Một điều kiện khách quan lịch sử diễn ra: (cơ may bất ngờ mà người tù không bao giờ dám mơ ước có cơ hội thoát CS đến Hoa Kỳ). Bối cảnh diễn biến như sau: Trong một cuộc công du của Phạm văn Đồng, thủ tướng CSVN đến Pháp. Tại thủ đô Paris; trong một cuộc họp báo có đông đủ phóng viên các hảng thông tấn quốc tế tham dự, thì phóng viên Hoa Kỳ nêu câu hỏi  Phạm văn Đồng về tù “cải tạo” VNCH, yêu cầu Phạm văn Đồng cho biết lý do giam cầm không bản án, không có ngày về; mà trước đó chính phủ CS tuyên bố “đi học tập cải tạo lao động và tư tưởng từ 20 ngày đến 1 tháng”. Phạm văn Đồng hơi bối rối, nhưng với ngón nghề gian dối, tráo trở, bịp bợm Y có thừa câu trả lời từ một tên phù thủy đóng vai hiền triết. Đồng trả lời trước công luận rằng “Vì chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước CHXHCN/VN muốn đảm bảo an toàn cho thành phần ngụy quân, qụy quyền chế độ cũ mằc quá nhiều nợ máu nhân dân, nên Đảng và Nhà nước còn phải bảo vệ họ, nếu thả về sớm e rằng đồng bào còn căm hờn chưa nguôi sẽ gây nguy hại đến tính mạng, chính quyền không thể can thiệp kịp thời. Và nếu Mỹ muốn nhận họ, Đảng và Nhà nước sẽ trả hết cho Mỹ” Thâm tâm Phạm văn Đồng, nghĩ rằng Mỹ đâu dại gì đi nhận của nợ nầy, nên câu trả lời kia nhằm "thấu cáy" và che đậy tội ác, Đồng có ngờ đâu đã trở thành “lộng giã thành chân”. TT  Regan, sau đó liền cử tướng Westsey bay sang Hà Nội nhiều lần để đặt vấn đề và bắt đầu đi vào cuộc thương thảo, trao đổi. CSHN quen nghề tuyên truyền láo, mở miệng thì giả dối nên đã mắc quay. Do đó, vụ Phạm văn Đồng tuyên bố, chính trị bộ, TW đảng phải họp mật để mặc cả, đồng thời đưa ra chủ trương và đường lối học tập cán bộ từ trung ương, xuống tới hạ tầng để quán triệt cái diệu kế “điệu hổ ly sơn” mà chúng cho là nhứt cử lưỡng lợi; nghĩa là “tống khứ” không còn phải canh chừng đối tượng ngóc đầu dậy khi thả về; (giữa lúc cuộc chiến tranh biên giới với Tàu và cuộc chiến tại Campuchia chưa chấm dứt).
            Thế là cuộc định cư tỵ nạn CS của người TNCT Việt Nam (thường gọi là H.O) ra đi có trật tự giữa Hoa Kỳ và Hà Nội đã thõa thuận và chính thức bắt đầu. Sau khi phái đoàn do ông Funsetth dẫn đầu qua Hà Nội họp về việc nhận tù cải tạo vào tháng 1-1989. Và tiếp theo vào tháng 7-1989, Thượng viện Mỹ tuyên bố yêu cầu Hà Nội trả tự do cho tù cải tạo để Hoa Kỳ đón nhận. Cuộc ra đi đầu tiên vào tháng giêng năm 1990 là 15 gia đình H.01 bằng chuyến bay hạ cánh xuống phi trường quốc tế San Francisco. Cuộc định cư tỵ nạn CS kéo dài suốt 15 năm (1990 – 1995 và thêm 4 năm bổ túc đến năm 2009 mới chấm dứt).
            Trong điều kiện khách quan nào của lịch sử cũng diễn ra một cách bất ngờ, những cảnh vui, buồn đẫm lệ đau thương, tang tóc cho những người bất hạnh một con số vô cùng lớn lao.
            Theo thống kê của Tổ Chức Quốc Tế Thounsanh Tear Falling, đáng được tin cậy;  từ sau biến cố 30-4-1975 – 1987 con số kinh hoàng về tội ác ĐCS gây ra cho dân tộc Việt Nam như sau:
            Chết tù đày trong các trại giam trên dưới 1,040,000 người.
            Chết dưới mọi hình thức ...............................95,000 người
            Hành quyết ................................................. 100,000 người
            Chết trên đường vượt biên trên .................. 500,000 người
            Chết trong mọi tình huống đói rét .............. 750.000 người
            Chết binh tật thiếu thuốc men chữa trị ..... 1,000,000 người.@

Tội ác tày trời nầy của CSHN, chúng có chạy thoát khỏi số phận đền tội với dân tộc Việt Nam, có thoát khỏi số phận sụp đổ như CS Nga và Đông Âu không ?@     
                                    40 mùa Quốc hận (30.4.1975 – 30.4.2015).
                                                                  Cao Gia.
            




__._,_.___

Posted by: Toma Thien 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link