Múa
Rối Biển Đông: Mặc Cả Quyền Lợi Quốc Gia
Lưu Nguyễn Đạt, TS, LS
January 19, 2013
January 19, 2013
I. Thế Nào Quyền
Lợi Quốc Gia
Quyền lợi quốc gia đối chiếu với hai thuật ngữ “National
Interest” [Anh ngữ] và “Raison d’État” [Pháp ngữ]. Theo những quan
điểm trên, quyền lợi quốc gia gồm [a] các quan tâm và tham vọng về
mặt quyền lực quân sự, kinh tế, văn hoá [b] mà một quốc gia đôn đốc thành
lợi ích cốt lõi, thành quốc sách hay định hướng căn bản.
Về mặt quốc sự, quyền lợi quốc gia thường có những thuật
ngữ bổ túc, liên đới như quyền tự quyết, quyền bá chủ, an ninh quốc gia, bí mật
quốc gia, bí mật quân sự, v.v.
Về mặt quốc gia sinh tồn, quyền lợi quốc gia thường phát
xuất từ các nhu cầu phúc lợi, thịnh vượng, phát triển kinh tế, sáng tạo kỹ
thuật, lãnh đạo tài chính, hiệp thương, v.v.
Về mặt văn hoá, quyền lợi quốc gia bao gồm những truyền
thống tư tưởng, ý thức hệ chỉ đạo; những tập tục, tín ngưỡng làm mạch sống tinh
thần của dân tộc hay của nhóm người lãnh đạo quốc gia.
Quyền lợi quốc gia, về mặt quốc tế công pháp, thường bầy tỏ
sắc thái chính trị thực tế,[1] đôn đốc quyền lực trong mọi giao dịch đối ngoại,
nhất là khi có đối tác rõ rệt.
1. Quyền Lợi Quốc gia của Hoa Kỳ
Vì quyền lợi quốc gia đặt trên căn bản phát triển kinh tế,
xã hội song song với hệ thống bảo vệ an ninh, quốc phòng, nên Hoa Kỳ ngay
từ Đệ Nhị Thế Chiến thường đôn đốc phát triển liên hợp tài chính quân sự kỹ
nghệ,[2] sẵn sàng nuôi dưỡng các đại cơ sở chiến lược về
quốc phòng [3] và năng lượng [4] như BAE Systems, Lockheed Martin, Boeing,
Northrop Grumman, General Dynamics, Raytheon, EADS, Halliburton, v.v. với tác
dụng hỗ trợ Quốc Phòng Pentagon và mọi khía cạnh an ninh quốc gia.
Thật vậy, từ chiến lược phòng thủ an ninh hoà bình của Hoa
Kỳ thường xuất phát song hành hiện tượng hợp lý hoá xung đột[5] bằng chiến tranh lạnh với chiến lược
kiềm chế/be bờ,[6] như
chiến tranh lạnh,[7] chiến
tranh khu vực,[8] và
gần đây chiến lược hỗ trợ các cuộc Nổi Dậy Ả Rập.[9]
Về mặt nổi/chính trị/ý thức hệ/, Hoa Kỳ luôn luôn đôn
đốc lý tưởng dân chủ tự do, bảo trọng nhân quyền và sự thịnh vượng chung trên
toàn cầu, nên sẵn sàng ra tay phát triển các quốc gia kém mở mang, cứu độ các
dân tộc nạn nhân của bạo quyền Phát Xít, Cộng Sản quốc tế, hoặc phòng ngừa viễn
tượng chiến tranh đề phòng [10] khủng bố phá hoại [preventive
war] do các nhóm phiệt Ả Rập cuồng tín Taliban, al-Qaeda v.v. gây biến tại
New York, Virginia-Washington, DC, Pensylvania[11] và trên khắp thế giới.
Về mặt đáy, Hoa Kỳ ứng dụng lý do tồn tại [12] của quyền lợi quốc gia theo yêu sách của tổ hợp tài chính quân sự
kỹ nghệ, song song với nhu cầu phát triển quốc gia, thêm phương tiện nuôi
dân Hợp Chúng Quốc.
Theo chiều hướng đó, nhà sách lược, nguyên Cố vấn An ninh,
nguyên Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Condoleezza Rice đã ghi nhận trong bài tham luận,
“Promoting the national interest,” Foreign Affairs Jan/Feb
2000, Volume 79, Issue 1:
With no Soviet threat, America has found it exceedingly
difficult to define its “national interest.” Foreign policy in a Republican
administration should refocus the country on key priorities: building a
military ready to ensure American power, coping with rogue regimes, and
managing Beijing and Moscow. Above all, the next president must be comfortable
with America’s special role as the world’s leader
[lược dịch: không có nguy cơ Nga Xô, Hoà Kỳ khó
định nghĩa rõ “quyền lợi quốc gia” của mình. Ngành ngoại giao Hoa Kỳ của
chính phủ Cộng Hoà nên đặt trọng tâm vào những ưu tiên chỉ đạo như sau: cập
nhật hoá thế lực quân sự để đương đầu với các chính thể gian giảo và cầm
chừng Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh. Nhất thiết, Tổng Thống kế vị [George W.
Bush] phải thích nghi với vai trò lãnh đạo thế giới].
2. Quyền Lợi Quốc gia của Trung Quốc
Đối với Trung Quốc, một siêu cường quốc hạng nhì đang nhô
lên, quyền lợi quốc gia là tham vọng phát triển một nền kinh tế ồ ạt, nhiều
lượng, ít phẩm, cốt để cầm hơi cho hơn một tỷ 3 trăm triệu dân tạp chủng Hán,
Thanh, Mông Cổ, Hồi, Tây Tạng, nhưng thật ra là để củng cố Đảng cộng phỉ đương
cuộc.
Quyền lợi quốc gia khi đôn đốc quá mức, nhất là khi tập
trung trong tay đại cường quốc tham lam, bất chính như Cộng sản Trung Quốc, dễ
chuyển thế thành bá quyền thống trị dưới hình thức tân đế quốc nhằm:
- “thuộc
địa hoá” những khu vực kém mở mang tại Phi Châu, Trung Đông, Nam Mỹ, Đông
Nam Á, cốt để trục lợi và làm giầu cấp tốc, không đếm xỉa tới tình trạng
phá sản, xuống cấp nơi khai thác.
- lấn
ranh, mua rừng, khai thác quặng Bauxite với giá rẻ mạt của Việt Nam;
- xây
đập thủy điện trên sông Lan Thương (tên Trung Hoa của sông Mékong), “lợi
bất cập hại”– ảnh hưởng đến giao thông hàng hải, thủy lợi, bất chấp mọi
phá phách thủy lộ, ô nhiễm môi sinh nơi dòng dưới, tức Mékong [Mae Nam
Khong], tại Lào, Thái Lan, Kampuchia và dòng Cửu Long, tại Nam Việt;
- cũng
như đã tìm cách phóng đường tầu cao tốc Đông Phương nối Thượng Hải, Nam
Kinh với Malaysia, Singapore, mà không ngần ngại lấn đất Myanmar [Miễn
Điện], Lào, Kampuchia, Thái Lan. Dân làng Bopiat, Boten, miền bắc
nước Lào là những nạn nhân đầu tiên của chương trình phóng đường sắt, khi
công trình này phá ấp, cắt làng cốt để thực hiện quyền lợi khai mở mạch
sống thăng cấp của Trung Quốc.
II. Múa Rối
Biển Đông Song Cực
Trên đất liền, Trung Quốc sẵn sàng lấn át, xâm nhập dù chưa
minh thị xoá bỏ ranh giới giữa các quốc gia lân cận, như họ từng làm với Mông
Cổ và Tây Tạng. Dù sao, Chu Ân Lai đã từng thổ lộ: “Nước chúng tôi thì
lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong đảng Lao Động Việt Nam mở cho một
con đường xuống Đông Nam Á”.
Nhưng tham vọng trường kỳ của Trung Quốc thực sự là độc
chiếm Biển Đông mà thuật ngữ của họ chỉ định là Nam Trung Quốc Hải (南中國海), hay gọi tắt là Nam Hải (南海), vì đối với Trung Quốc mặt biển đó là thủy lộ giao thông hàng hải, khai thác
hải sản và bề thế chiến lược quân sự; còn đáy biển và thềm lục địa là cơ sở
khai thác tài nguyên thiên nhiên, dầu hoả và khí đốt mà nhu cầu tân trang trong
nước và nền kỹ nghệ cấp tốc của họ đang đòi hỏi. Do đó, Trung Quốc
thường tuyên bố lợi ích của họ ở Biển Đông là một trong những “lợi ích cốt lõi”.
1. Thủ Đoạn Xâm Chiếm Biển Đông
Từ năm 1946, Trung Quốc liên tục mưu đồ chiếm đoạt Biển
Đông qua nhiều giai đoạn và hình thức tranh giành khác nhau:
- Tháng
12-1946, Tưởng Giới Thạch cử binh sĩ ra “giải giới quân đội Nhật” tại
Hoàng Sa và Trường Sa, theo sự thỏa thuận của các nước đồng minh chống
Nhật.
- Nhân
dip này, một số nhà địa lý và sử học gia Trung Hoa cùng nhau phác họa thủy
đồ “11 đoạn”, in ấn vào tháng 10, năm 1947. Sau khi lên nắm chính
quyền, Chính phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa [CSTQ] đã phê duyệt bản thủy
lộ này dưới hình thức “đường 9 đoạn” vào năm 1953, trong khi quân đội của
Tưởng Giới Thạch đã rút khỏi đảo Phú Lâm. Đó là nguồn gốc của cái gọi là
“đường lưỡi bò” lấn át toàn cõi Biển Đông.
- Hai
năm sau Hiệp Định Genève [1954], khi Quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi
Đông Dương [1956] Việt Nam Cộng Hòa nhận lãnh quyền quản trị các đảo phía
tây của Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó công hàm do Thủ tướng
CS Phạm Văn Đồng ký vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, để trả nợ viện trợ quân
sự TQ thời đánh chiếm Điện Biên Phủ, là vô hiệu, vô giá trị, vì chính phủ
ông ta không có thẩm quyền lãnh thổ để công nhận lãnh hải của nước
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý, áp dụng cho cả Quần đảo Tây Sa
(Xisha/QĐ Hoàng Sa/ParacelIslands] và Quần đảo Nam Sa (Nansha/Quần đảo
Trường Sa/Spratly Islands, vốn nằm phía nam vĩ tuyến 17.
- Trong
những ngày 17/1-20/1/1974, Trung Quốc xua lực lượng hải quân tới chiếm các
đảo thuộc phía tây quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Hoà. Tàu chiến
Hoa Kỳ có mặt ngoài khơi đã làm ngơ cho Trung Quốc hành động, lấy cớ Hoa
Kỳ và Trung Quốc đã ký Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972, và sau đó Hoà
Đàm Paris, 1973.
- Trung Quốc
vẫn tùy tiện đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam
kiểm soát, và đột ngột chiếm đóng đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Ga Ven, đá
Gạc Ma, đá Su Bi trong tháng 4, 1988. Nhưng mãi tới tháng 2, 1995,
Trung Quốc mới thực sự chiếm cứ toàn quần đảo Trường Sa.
- Bắc
Kinh chính thức hóa thủy đồ hình chữ U, khi nhà cầm quyền này đưa bản đồ
đường 9 đoạn hình lưỡi bò vào văn kiện gửi Ủy ban Liên hợp quốc về thềm
lục địa mở rộng, ngày 7 tháng 5, 2009.
- Ngày
26/5/2011, 3 tàu Hải giám của Trung Quốc thực hiện một vụ gây hấn trắng
trợn khi cắt đứt cáp thu địa chấn của tầu Binh Minh 02 đang hoạt
động cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên), nằm trong vùng vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam.
- Từ
ngày 8/4 đến 18/6/2012, diễn ra cuộc đối đầu tại vùng bãi cạn Scarborough/Hoàng
Nham giữa Trung Quốc với Philippines.
- Ngày
21/6/2012, Trung Quốc thành lập “thành phố Tam Sa” (thuộc Hoàng Sa – Việt
Nam) và Khu cảnh bị, nhằm thiết lập cứ điểm tại Biển Đông để kiểm soát
Biển Đông. Việc thành lập “thành phố Tam Sa” và Khu cảnh bị Tam Sa là
bước phát triển mới của chiến lược bá quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tam
Sa mở đầu giai đoạn mới Trung Quốc tranh đoạt Biển Đông, tích cực tranh
chấp, tích cực khai thác, tạo ra những xung đột lợi ích ngày càng gay gắt
với các nước trong khu liên hệ.
- Việc
6 triệu hộ chiếu mới của TQ được in hình bản đồ “đường lưỡi bò” gặp phải
sự phản đối của nhiều quốc gia trên thế giới vì bản đồ “đường lưỡi bò”
được in trong hộ chiếu mới, vi phạm chủ quyền các quốc gia trong khu Đông
Nam Á.
- Đối
với Việt Nam, Trung Quốc vẫn chủ trương tranh chấp mạnh ngoài Biển
Đông, vì họ biết rõ lãnh tụ CSVN sẵn sàng nhượng bộ — “thà mất nước, chứ
không mất đảng.”
2. Kỹ Thuật Xâm Lăng: Xả Láng trong Khu Vực; Tháu
Cáy & Mặc Cả Song Phương giữa hai Siêu Cường Quốc
Xả Láng
Từ nhu cầu tìm dưỡng khí sinh tồn tới xả láng, lộng
hành phóng đại “lưỡi bò” liếm láp toàn khu vực Đông Nam Á, cụ thể là việc điều
động các tầu hải quân đến hăm doạ các nước trong khu vực tranh chấp ở Biển
Đông, hay ngoan cố há miệng rồng nuốt chửng vô tội vạ những cọc mốc ranh
giới, rừng già, đất đỏ bauxite, đất làng của những người đàn em thấp kém, quỵ
luỵ, thì “quyền lợi dân tộc” theo xã hội chủ nghĩa - made in China - của
Trung Quốc hoàn toàn bất xứng, bất chính, chẳng khác gì chủ nghĩa bá đạo, cướp
bóc, xâm lăng thổ phỉ của lũ gian tặc.
Tại khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc không lộ liễu chiếm đoạt
các nước láng giềng dưới hình thức “thuộc địa”, nhưng sẵn sàng thu hút các tiểu
quốc này thành các “tỉnh tự trị” trong cộng đồng thịnh vượng Trung Hoa, dưới sự
quản trị và bảo trợ kinh tài của họ. Hơn nửa thế kỷ nay, CSVN thu gọn
trong vòng kiểm toả chính trị và kiểm soát kinh tài đó, như một sao ảnh thu
gọn, hay dấu ấn mực đỏ của cơ sở Hán Cộng. Lào, Kampuchia chỉ là những
cửa ngõ phóng lộ xuyên Nam. Kể cả Thái Lan cũng sẵn sàng chia sẻ cơ hội
ăn có với Hán Cộng.
Tháu Cáy
Vậy hiện tượng lũng đoạn thế lực chính trị kinh tài trong
khu không nhằm đối tác với các tiểu quốc giáp ranh, mà thật ra là để chuẩn bị
đương đầu với Hoa Kỳ, vốn là đương kim đệ nhất đại cường quốc, trong giai đoạn
khai triển ảnh hưởng bá chủ và thi thố thống trị trong khu…và có thể toàn cầu
trong tương lai phóng đại.
Thật rõ ràng, từ đầu thế 21, trên đấu trường kinh tài và
khai thác toàn cầu, Hoa Kỳ và Trung Quốc duy trì một thế lực độc quyền nhị cực
[bipolar Oligopoly].[13] Cả thế giới, trong đó có Đông Nam Á, đang tùy
thuộc vào cung cách quản trị tài lực lẫn kỹ thuật sản xuất và phân phối nhu yếu
phẩm dưới chướng của hai “đầu nậu” siêu đẳng này: một tham, một gian.
Vậy hành động của Trung Quốc nhằm lũng đoạn Đông Nam Á về
mặt ảnh hưởng và chiếm đoạt cơ sở trục lợi môi trường trên đất liền cũng như
nơi Biển Đông và thềm lục địa có tác dụng [a] thách đố và thử lửa Hoa Kỳ mà
Trung Quốc coi là đối tác duy nhất hay đối thủ đáng kể trong cuộc chạy đua
giành giật quyền lợi nên [b] đã lớn tiếng công khai vạch làn ranh của quyền lợi
cốt lõi mà Trung Quốc muốn chấp hữu và rao hàng từ Nam Hải (南海), tức Biển Đông.
Mặc Cả
Do đó cách vơ vét quyền lợi và thế đứng của Trung Quốc trong
cuộc thi đua kiểm soát lãnh thổ và lãnh hải tại Đông Nam Á có tính cách lớp
lăng. Đó là [a] khởi đầu bằng cách chơi xả láng, làm chuyện “đã rồi”; [b]
kế đến là tháu cáy, rêu rao với đối tác có “máu mặt” [Hoa Kỳ] để đòi hỏi tối
đa, yêu sách tới tận cùng, mong [c] sau này đạt thế “thượng thưởng” trong
việc mặc cả, cao tay chia chác với độc thủ Hoa Kỳ. Đó là thủ đoạn “ăn
thua đủ” trong canh bạc du thủ, bất bằng, bát nháo tại Đông Nam Á.
Tuy nhiên, ngoại trưởng Mỹ Hilarry Clinton từng coi những
đòi hỏi của đường lưỡi bò trên Biển Đông là không có giá trị, còn Thượng nghị
sỹ Mỹ John McCain khẳng định, đường lưỡi bò không có cơ sở pháp lý.
III. Lợi và Hại Của Cuộc Thi Thố Thế Lực Viễn Biên
Ngắn Hạn: Những Gì Hiển Nhiên Trước Mắt
Đối với Trung Quốc, cuộc chạy đua phô trương lực lượng viễn
chinh trên lãnh thổ và lãnh hải chấp hữu ngoài biên cương có nhiều điểm
lợi tức thì.
Trước tiên là cung cấp ngay một số công ăn việc làm theo
diện xuất cảnh lao động bằng bạo lực quân sự hay đặc nhiệm kinh tài, khai
thác viễn biên.
Việc đầu tư cơ sở và nhân lực biệt phái tại các địa điểm
kinh doanh tân tạo hay các khu chiến thuật mới chiếm cứ có tác dụng giải toà áp
lực nhân dân chống đối tại Trung Quốc, khi tác động viễn chinh khai khẩn, hứa
hẹn phát triển bề thế sinh tồn cũng đòi hỏi sự gia tăng của áp lực an ninh quân
phiệt trong nước. Chế độ cộng sản nhờ vậy bớt lo lắng, được thể tự vệ, câu giờ
củng cố đảng vụ.
Song song, Hoa Kỳ cũng bắt đầu e ngại Trung Quốc, tìm cách
về lại Châu Á một mặt để be bờ, kiềm chế Trung Quóc, mỗi lúc lộ diện vong ân,
bất nghĩa, bất tín; mắt khác cũng để tái đầu tư hay phát động lại cơ sở và ảnh
hưởng kinh tài tại Châu Á, vốn nhiều đặc sản và cũng là môi trường hứa hẹn tiêu
thụ mà Hoa Kỳ đã ngoảnh mặt bỏ lỡ cơ hội khai khẩn trước đây, để hoà hoãn với
Nga Hoa, sau Hiệp Định Paris, 1973.
Riêng việc Tổng Thống Obama và Ngoại Trưởng Clinton úp mở
cảnh cáo Trung Quốc hay công khai tuyên bố “Thế kỷ 21 là thế kỷ Thái Bình Dương
của Mỹ”[14] cũng đủ gây lại niềm tin cho các đồng minh trong
khu vực và sự phấn khởi tại Hoa Kỳ, với triển vọng khôi phục nền kinh tế đang
suy thoái. TT Obama được tái đắc cử phần nào nhờ vào việc định hướng đầu tư làm
nhà buôn súng đạn, quân nhu, chiến cụ, hay kỹ thuật tiền phong cho vùng Châu
Á-Thái Bình Dương, thay vì làm cảnh sát dã chiến tại Trung Đông.
Cái “Hại” tức thì trong khu vực là mấy tiểu quốc, dẫn đầu
là Việt Nam, rồi Lào, Kampuchia [Cao Mên] trở thành những con vật thí mạng cùi
cho các phòng thí nghiệm nóng, chỗ tham lam, chỗ gian lận, nhưng cùng một lò
độc đoán vị kỷ: có khi nào các nhà bác học hỏi ý mấy con chuột chù, con ễng
ương, ếch nhái, con khỉ đỏ đít cảm tưởng ra sao, mong muốn gì trước khi được
[bị] đem vào phòng thí nghiệm, mổ bụng, xẻ đầu, bẻ tay, cưa chân? Việt
Nam, Lào, Kampuchia từng bị xẻ thân, cướp hồn như vậy, từ thế hệ này sang thế
hệ khác, cũng chỉ vì ở chung cái thế “địa-độc” [géopolitique],[15] ngã tư bão tố, hưởng ít, chịu nhiều: nơi mà lãnh tụ địa phương thì
hèn hạ; đầu đảng cầm quyền thì phục tùng ngoại bang; dân thì anh dũng chịu đựng
tới độ ù lì, vô cảm.
Trung Hạn: Những Gì Ắt Phải Xẩy Ra
Trước tác phong bát nháo, kiêu căng của Trung quốc, các
quốc gia trong khu vực đã bắt đầu tỏ thái độ bất bình, sẵn sàng nghiêng về phía
Hoa Kỳ, mỗi lúc trở thành đệ tam quốc “đồng minh hoá”, xa mà gần:
1.
Dưới sự quan sát và thế trợ lực của Hoa
Kỳ, Philippineskhẳng định lập trường
cứng rắn với Trung Quốc: [a] tố cáo tàu và trạm “canh gác” của Trung Quốc xâm
nhập lãnh hải tại vùng bãi cạn Scarborough;[b] chính thức đổi tên vùng biển
tranh chấp với Trung Quốc là Biển Tây Philippines;
2.
Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawađã khẳng định loại hộ chiếu mới của Trung Quốc
in chìm hình bản đồ với đường 9 đoạn bao gồm các quần đảo tranh chấp ở Biển
Đông là “xảo trá” và “phản tác dụng”. Philippines và cả Việt Nam cũng đã quyết
định không đóng dấu thị thực vào quyển hộ chiếu mới của Trung Quốc, bên trong
có in tấm bản đồ lưỡi bò khẳng định chủ quyền của Bắc Kinh trên hầu như toàn bộ
vùng Biển Đông.
3.
Chính quyền cứng rắn của tân thủ tướng
Nhật Shinzo Abe đang tăng cường
bảo đảm an ninh vùng biển quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Nhật Bản thấy họ
phải chọn con đường tự bảo vệ. Các tàu chở dầu của Nhật Bản có thể cải biến
thành mẫu hạm nhanh chóng, đội ngũ nhân sự cấp sĩ quan lái thương thuyền và
hàng không dân sự được huấn luyện như các sĩ quan Hải quân và Không quân.
Một Nhật Bản ra khỏi ràng buộc của bản Hiến Pháp “hòa bình”, nếu được tái
võ trang, sẽ giúp làm cho các đụng chạm giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ bớt nảy lửa.
Chính sách Hoa Kỳ chuyển hướng về Á
châu không có nghĩa là chuyển một ít quân đến Úc châu, đưa 60% hạm đội đến Tây
Thái Bình Dương mà chính yếu là thay đổi cách nhìn chiến lược trong đó Nhật Bản
cần được xem là một yếu tố tích cực chứ không phải là một con cờ nép bóng dưới
sự che chở của Hoa Kỳ.
4.
Nhật
Bản cũng sẵn sàng trợ giúp Miến Điệnnhằm mục đích kềm
hãm ảnh hưởng của Trung Quốc. Việc Tokyo hỗ trợ Miến Điện có thể đóng một vai
trò tích cực trong việc hậu thuẫn cho sự thay đổi chiến lược của Mỹ, đó là dân
chủ hóa và phát triển kinh tế của Miến Điện. Vào cuối năm ngoái, ông Barack
Obama đã trở thành tổng thống Mỹ đương nhiệm đầu tiên đi thăm Miến Điện, một
dấu hiệu chứng tỏ sự khôi phục uy tín đáng kể của nước này trên trường quốc tế,
và chính sách chuyển trục sang châu Á của Washington.
5.
Hải
quân Ấn Ðộ cũng sẽ bảo vệ các nỗ lực dò tìm dầu khí với Việt Nam tại Biển Đông,
chống những hành động hiếu chiến của Trung Quốc. Trung Quốc hiện đại hóa lực
lượng hải quân, đã làm tăng những quan ngại của Ấn Ðộ, và như tất cả các thế
lực hải quân khác trong khu vực, Ấn Ðộ đang chuẩn bị để đối phó với tình huống
xấu nhất.Thái độ hiếu
chiến của Bắc Kinh trong nỗ lực theo đuổi các đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông
sẽ buộc Ấn Ðộ phải hợp tác chặt chẽ hơn với Việt Nam và Philippines, gián tiếp
với Hoa Kỳ.
Trong những năm
tới đây, sự kình địch này tiếp tục tiến triển theo hướng gia tăng hay giảm dần
sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới các hệ quả từ chiến lược hướng Á của Mỹ và cấu trúc
cân bằng mới tại châu Á. Quan hệ đồng minh với Washington do vậy có thể coi là
điều tự nhiên đối với Delhi, nhưng Ấn Độ vẫn phải tránh khiêu khích không cần
thiết với Bắc Kinh.Như
vậy, thực tế đã cho thấy thế bá chủ của Trung Quốc và Hoa Kỳ tại Đông Nam Á và
Thái Bình Dương không thể thực hiện dưới dạng độc quyền nhị cực [G2-bipolar
Oligopoly] như các siêu cường quốc mong muốn, mà phải chuyển thành thế tam cực
[G3-TQ/HK/Ấn], hay tứ cực [G4-TQ/HK/Ấn/Nhãt] hay tốt hơn cả là thế Đa Cực liên
hệ tới khu vực, trong đó ít ra phải có vai trò tích cực của Hiệp hội Các Quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN)[16] và các quộc gia liên đới để thực sự ứng dụng
thuật “Mặc Cả Đa Phương”[17] trong canh bạc sinh tồn và thịnh vượng toàn cầu,
nay tập trung tại Châu Á.
Dài Hạn: Theo Tiến Hoá Tự Do, Công Bằng Nhân Bản
Canh bạc ngày nay có phần khác với mãnh lực chủ nghĩa Đế
Quốc Trọng Thương của những thế kỷ trước khi chính sách bá chủ kinh tế thu lời
một chiều đã dần dà chuyển nhượng tới chính sách đa phương hưởng lợi, giữa
những đối tác có quyền lợi liên hệ, như định lý “phải trả lại cho César những
gì thuộc về César”:[18] Bênh vực quyền lợi theo định hướng phát triển
toàn cầu là cần thiết, nhưng vị trí khu vực và dân tộc chủ nghĩa vẫn là bàn
đạp, là giải đáp cho mọi vấn nạn, cũng như mọi hy vọng cấu tạo phát triển tương
xứng liên quan tới khu vực và quốc gia quy định.
Do đó chúng ta cần rõ hiện tượng thuần kinh tế không còn
đơn giản, biệt lập, mà cần sự hỗ trợ của áp lực chính trị từ những thành phần
đối tác, dù nhỏ nhoi, nhưng vẫn là những thành tố chiến lược và chiến thuật
“bất khả ly”: bàn tay năm ngón, thiếu ngón nào, cũng chênh lệch, cũng l àm suy
giảm bề thế toàn diệncủa công thức, của giá trị v à hữu dụng chung.
Thuật “Mặc Cả Đa Phương” sẽ đưa tới định lý
“Cân Bằng Nash” [Nash Equilibrium].[19] Theo Nash, qua sự lựa chọn của chiến lược hỗn
hợp mà kết quả cho mỗi người chơi [đối tác tranh chấp] là các giá trị kỳ vọng
lớn nhất có thể ứng với chiến lược hỗn hợp của các người chơi khác, thì các
quốc gia trong cuộc tranh chấp về Biển Đông phải áp dụng chiến thuật sao cho sự
lựa chọn là tối ưu nhất, để đạt tới một thế cân bằng khả chấp: khi thiếu một
bước là thiệt, thêm một bước là “hố“ và mất cả. Sự tính toán thông minh
đặt ở chỗ biết tới, biết yêu sách, mặc cả hữu hiệu và biết ngưng đúng lúc, đúng
mức cần thiết cho mình, một cách thực tế.
Căn cứ vào trò chơi “mặc cả” kinh bang tế thế khu vực một
cách thông minh có hứa hẹn một giải pháp cân bằng theo định lý Nash, thì hiểm
hoạ chiến tranh giữa các siêu cường quốc sẽ không xẩy ra. Nếu các tiểu
quốc cũng thông minh biết dựa lưng đúng chỗ, thì cũng thoát cảnh “không chết,
cũng bị thương”.
Sau cuộc thi đua vũ khí thời chiến tranh lạnh, Nga Xô đã
phải gác kiếm, khép xưởng ý thức hệ chủ trương bom đạn trường kỳ, để về lại
cuộc sống bình thường của con gấu[20] sở thú hay của gánh “xiếc” làng.
Nay cuộc thi thố quyền lực của Trung Quốc tới mức bá quyền
hung hăng con bọ xít không thể tự nó trở thành cơn gió tụ phấn, kết hoa,
đem lại mùa gặt hái đáng kể. Mà chỉ là những cuồng phong phá phách làng xóm,
phương hại tới môi trường sinh sống của khu vực, của toàn cầu. Vây, kỹ
thuật thống trị và mưu đồ xâm lăng Hán cộng có triển vọng phá sản khi biên
cương tự tan; ngân hàng, bất động sản tự đổ; xe cộ tự móp; máy bay tự rớt; tàu
hoả tự nổ; tàu bè tự chìm; sản phẩm kỹ nghệ, hàng hoá tiêu thụ, thực phẩm,
thuốc men tự phế thải. Lúc đó, chế độ Trung Cộng sẵn sàng tự nổ, tự hủy,
nhường chỗ cho quân bình quyền lực[21] và sinh hoạt dân chủ đa nguyên.[22]
Lúc đó, hoà bình, thịnh vượng mới thực sự khai triển một
cách tự nhiên, quân bình, toàn diện tại Đông Nam Á và từ đó ảnh hưởng mỹ mãn
tới công bằng nhân bản và định mệnh tiến hoá toàn cầu.
IV. Kết Luận
Biển Ðông là điểm nóng chiến lược tại Đông Nam Á, một mặt
đòi hỏi sự đoàn kết khu vực để tự bảo vệ trước mọi mưu toan xâm lược thôn tính
của bá quyền Hán Tộc, mặt khác đốc thúc hội nhập cộng đồng pháp trị toàn
cầu để thực thi công bằng quốc tế, theo định hướng kết sinh hoà bình thịnh
vượng, trên căn bản dân chủ tự do chân chính.
Để đối phó với thế lực bá chủ thôn tính của Trung Quốc, các
quốc gia lâm nạn hay thất thế có những biện pháp nào để giải toả áp lực xâm
lược hiện hữu?
Trước hết, về mặt căn bản quốc tế công pháp, mỗi quốc gia
đều có chủ quyền ngang nhau trong cộng đồng thế giới đa dạng; đều có chính
nghĩa bảo trọng quyền lợi quốc gia mình một cách tương xứng, đúng mức, nhờ đó
thực hiện công bằng quốc tế.
Vậy trước hanh vi xâm lược của Trung Quốc chủ trương thu
nhập toàn cõi hải phận đang tranh chấp, Việt Nam và các quốc gia giáp biển phải
thực hiện một số biện pháp đối tác như sau:
1. Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cần dấn thân
hội nhập trong thế liên đới hỗ trợ phát triển và sinh tồn, vừa để thực hiện
quyền lợi quốc gia mỗi bên, vừa để bảo trọng quyền lợi chung của toàn khu Đông
Nam Á. Đây là cơ hội thuận lợi để các quốc gia thanh viên của ASEAN [a]
thực thi sứ mạng [b] và cập nhật hoá trách nhiệm [c] của Tổ chức.
2. Khai triển sứ mạng của tổ chức ASEAN, cần củng cố
liên minh khu vực, từ ngoại giao tới quân sự, nhằm hợp lực ngăn cản tức khắc và
toàn diện chiến lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc. Nếu để quá lâu, hiện
trạng lằng nhằng giây mơ rễ má này sẽ trở thành một thực trạng chấp hữu chẳng
đặng đừng, khi hành vi quấy nhiễu, liên tục chiếm đoạt, độc quyền vây biển, lấn
đất, lấn đảo đã kết đủ cơ sở và hiệu lực.
3. Khước từ mọi cuộc thảo luận song phương giàn
xếp, xác định, chia chác tay đôi, vì hành động xé lẻ như vậy sẽ vô cùng bất
lợi, đồng thời mặc nhiêm công nhân vị trí chủ thể của Trung Quốc. Mọi
thảo luận trên phải có tính cách đa phương, thực hiện theo diện liên đới hay
liên hiệp giữa tất cả các quốc gia có quyền lợi chung về Biển Đông Nam Á, căn
cứ vào vị thế lãnh thổ và lãnh hải của mỗi quốc gia liên hệ.
4. Cần tôn trọng và đôn đốc Công ước LHQ về Luật Biển
1982, United Nations Convention on Law of the Sea, viết tắt UNCLOS, vốn là
cơ chế pháp lý quốc tế kiểm soát trật tự toàn cầu trên và dưới mặt biển cả.[23]
5. Cần huy động thế liên kết toàn cầu, căn cứ vào [a]
chủ trương quốc tế giải quyết xung khắc bằng giải pháp đa phương và ôn hòa, [b]
trên căn bản bảo vệ tự do lưu thông hàng không và hàng hải trong hải phận quốc
tế và không phận biển Đông, mà Hoa Kỳ sẵn sàng bênh vực, để thực thi trật tự
thịnh vượng hoà bình chung.
Riêng đối với Việt Nam, bảo vệ quyền lợi quốc gia, từ Biển Đông tới bờ cõi, từ biên
giới tới khắp môi trường sinh tồn, còn đòi thực thi chủ quyền dân tộc, một
cách chân chính, toàn diện và hữu hiệu.
Vậy, đã tới lúc CSVN tự giải thể, chuyển thẻ đỏ thành thẻ
xanh, tự ý xé toạc giấy tuỳ thân Mác-Xì-Mao-Hồ để bớt đi cái nhục nhã làm bô
khạc nhổ đờm Hán tộc, do cái “lưỡi bò” thối tha, ung nhọt văng tới.
Đã tới lúc CSVN chấm dứt “sinh thái” ác với dân, hèn với
giặc và nhất quyết không còn làm đặc viên KGB theo kinh nghiệm ông Hồ, hay làm
mật vụ, gián điệp Trung Cộng theo chân mấy quan thái thú Nguyễn Phú Trọng,
Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang.
Đã tới lúc CSVN hồi hướng dân tộc, tự giác nhường chổ cho
một chính thể dân cữ với một đoàn ngũ người Việt thuần túy:
- biết
lo cho chính nghĩa quốc gia, phẩm giá và an sinh dân tộc;
- biết
tranh đấu, mặc cả, tranh thủ cho quyền lợi vẹn toàn, chính đáng của Nước
Việt;
- biết
ứng dụng thế kết sinh lực lượng khu vực căn cứ vào sứ mạng của Hiệp hội
Các Quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] nhằm ba trục [a] cộng đồng an ninh chính
trị khu vực, [b], cộng đồng kinh tế khu vực, và [c] cộng đồng văn hoá, xã
hội khu vực,[24] như các
nước Đông Nam Á và khối ASEAN đã quyết tâm đấu tranh ngoại giao về vấn đề
Biển Đông, dẫn đến việc ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc.
Người Việt Hải ngoại cần đặt trọng tâm vào việc:
[a] hệ thống hoá áp lực chính trị với các tổ chức và chính
quyền sở tại [Hoa Kỳ, Đức, Nhật, Âu, Úc] để cùng các cơ sở điều nghiên chiến
lược, các viên chức đặc trách ngoại giao, kinh tài, quân sự, thấy rõ thế “chân
vạc” giữa lực lượng quốc tế, khu vực và đơn vị quốc gia liên hệ trong nỗ lực
bảo trọng an ninh, chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội ở mức công bằng, khả
chấp tại môi trường và khu vực;
[b] đòi hỏi mọi sự hỗ trợ trực tiếp của Hoà Kỳ, Âu, Úc hay
gián tiếp qua Ấn Độ, Nhật Bản dành cho Việt Nam, kể cả diện quân sự, phải ứng
dụng song song với triển vọng dân chủ hóa và phát triển kinh tế của Việt Nam,
có lợi cho dân tộc Việt, hơn là chỉ nhằm củng cố địa vị của nhà cầm quyền, như
họ đã từng làm trước đây, thời đệ Nhất và đệ Nhị Cộng Hoà, tại Miền Nam Việt
Nam;
[c] về mặt công lý, và nền tảng pháp lý, cần lượng giá
chính xác và đúng mức quyền lợi quốc gia, liên quan tới ranh giới lãnh thổ,
lãnh hải, tới phần sở hữu tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tại Biển Đông,
căn cứ vào tài liệu lịch sử, hành chính, pháp lý đối chiếu và thực trạng chấp
hữu, quản thủ tài sản quốc gia; cũng như căn cứ vào luật quốc tế công pháp và
Luật Biển liên quan tới nội vụ.
Một lần, chúng ta, người dân Việt trong và ngoài nước có
quyền đòi hỏi đối phương [giặc ngoại bang và nội xâm] phải trả lại cho Việt Nam những gì của việt
Nam, không hơn, không kém. Và cũng phải trả lại cho dân tộc Việt Nam
những gì của dân tộc Việt, không hơn, không kém.
TS-LS LƯU
NGUYỄN ĐẠT
[1] real politics
[2] financial military industrial complex
[3] Defense/Pentagon
[4] Energy Services Group
[5] conflict justification
[2] financial military industrial complex
[3] Defense/Pentagon
[4] Energy Services Group
[5] conflict justification
[6] containment
strategy
[7] cold war, Korea war, Vietnam war,
[8] Desert Storm war, Iraq war, Afghanistan war
[9] Arab Springs.
[10] preventive war
[11] September 11 attacks
[12] raison d’être/raison d’État
[13] bipolar Oligopoly. A situation in which a particular market is controlled by a small group of firms. An oligopoly is much like a monopoly, in which only one company exerts control over most of a market. In an oligopoly, there are at least two firms controlling the market.
[7] cold war, Korea war, Vietnam war,
[8] Desert Storm war, Iraq war, Afghanistan war
[9] Arab Springs.
[10] preventive war
[11] September 11 attacks
[12] raison d’être/raison d’État
[13] bipolar Oligopoly. A situation in which a particular market is controlled by a small group of firms. An oligopoly is much like a monopoly, in which only one company exerts control over most of a market. In an oligopoly, there are at least two firms controlling the market.
[14] “Thế kỷ 21 là
thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ”, Anh Ngọc, VNExpress, Thứ sáu, 11/11/2011,
[15]géopolitique: rapports
entre la géographie et la politique des Etats.
[16] The Association
of Southeast Asian Nations, commonly abbreviated ASEAN is a geo-political and
economic organization of 10 countries located in Southeast Asia, which was
formed on 8 August 1967 by Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore and
Thailand.Since then, membership has expanded to include Brunei, Burma
(Myanmar), Cambodia, Laos, and Vietnam. Its aims include the acceleration of
economic growth, social progress, cultural development among its members, the
protection of the peace and stability of the region, and to provide
opportunities for member countries to discuss differences peacefully.
[17] “Mặc Cả Đa
Phương” The Nash-Harsanyi-Selten Pluralistic Bargaining Model [NHS-PBM]
[18] il faut rendre à
césar ce qui appartient à César
[19] Định lý Cân
bằng Nash là một định lý trong lý thuyết trò chơi -
một nhánh của toán học ứng
dụng. Định lý này được đặt tên theo John Forbes Nash,
do ông là người đã đề xướng ra. Nó được dùng để nghiên cứu các chiến
thuật sao cho sự lựa chọn là tối ưu nhất
[20] Con gấu/The
Russian Bear/Tiêu biểu cho Nước Nga. The Russian Bear is a widespread symbol for Russia, used in cartoons,
articles and dramatic plays since as early as the 17th century, and relating
alike to Tsarist Russia,
the Soviet Union and the
present-day Russian Federation.
[21] bargaining
equilibrium/balance of power
[22] democratic pluralism/ sinh hoạt dân chủ đa nguyên
[23] The United
Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS), also called the Law of the
Sea Convention or the Law of the Sea treaty, is the international agreement
that resulted from the third United Nations Conference
on the Law of the Sea (UNCLOS III), which took place from 1973 through 1982.
The Law of the Sea Convention defines the rights and responsibilities of
nations in their use of the world’s oceans, establishing guidelines for
businesses, the environment, and the management of marine natural resources.
The Convention, concluded in 1982, replaced four 1958 treaties. UNCLOS came
into force in 1994, a year after Guyana became the
60th state to sign the treaty.To date, 161 countries and the European
Community have joined in the Convention. However, it is uncertain as to what
extent the Convention codifies customary
international law.
[24] The ASEAN Community is comprised of three pillars, namely the ASEAN Political-Security Community, ASEAN Economic Community and ASEAN Socio-Cultural Community. Each pillar has its own Blueprint, and, together with the Initiative for ASEAN Integration (IAI) Strategic Framework and IAI Work Plan Phase II (2009-2015), they form the Roadmap for and ASEAN Community 2009-2015.
[24] The ASEAN Community is comprised of three pillars, namely the ASEAN Political-Security Community, ASEAN Economic Community and ASEAN Socio-Cultural Community. Each pillar has its own Blueprint, and, together with the Initiative for ASEAN Integration (IAI) Strategic Framework and IAI Work Plan Phase II (2009-2015), they form the Roadmap for and ASEAN Community 2009-2015.
In their relations with one
another, the ASEAN Member States have adopted the following fundamental
principles, as contained in the Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia
(TAC) of 1976:
1.
Mutual respect for the independence, sovereignty, equality,
territorial integrity, and national identity of all nations;
2.
The right of every State to lead its national existence free
from external interference, subversion or coercion;
3.
Non-interference in the internal affairs of one another;
4.
Settlement of differences or disputes by peaceful manner;
5.
Renunciation of the threat or use of force; and
6.
Effective cooperation among themselves.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment