Ai là tác giả hiệp định Paris
Ngô Nhân Dụng
Khi hiệp định Paris được ký kết, trước đây 40 năm, nhiều
người vui mừng, vì ít nhất dân Việt Nam sẽ không chết vì chiến tranh nữa. Nhiều
người còn hy vọng đó là một bước rẽ, mở con đường mới cho miền Nam Việt Nam.
Sau cùng, ai cũng biết,
đó chỉ là một thủ thuật, dùng trong một giai đoạn, của đảng Cộng Sản Việt Nam
trong chương trình chiếm quyền cai trị trên cả nước Việt Nam, với mục đích “đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Nhưng ngay cả nỗi vui
mừng vì cảnh chết chóc chấm dứt cũng biến mất. Người Việt Nam trong vài năm
tiếp theo không chết vì chiến tranh thường xuyên nữa, nhưng nhiều người vẫn
chết vì sau đó cuộc chiến lại tiếp tục. Số quân nhân hai bên bị tử thương trong
cuộc tổng tấn công của Cộng Sản năm 1975 cũng lớn gấp nhiều lần so với khi
chiến tranh còn tiếp diễn.
Số người chết trên đường vượt biển còn lớn hơn số
thường dân chết trong một năm chiến tranh.
Chưa kể nỗi đau thương của bao nhiêu
gia đình bị đẩy đi vùng kinh tế mới hoặc có người bị đi tù cải tạo. Và chiến
tranh lại tiếp diễn ở Campuchia với 50 ngàn thanh niên Việt Nam bỏ xác, và ở
biên giới Hoa-Việt, mà con số thương vong không bao giờ được công bố.
Số phận của những người
dân miền Nam Việt Nam đã được quyết định trước đó nhiều năm. Năm 1968, trong
khi đang tranh cử tổng thống Mỹ, ông Richard Nixon đã cho cố vấn là Henri
Kissinger đến gặp đại sứ Nga ở Washington đề nghị giới lãnh đạo Nga Xô đừng làm
trò gì ảnh hưởng đến cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc.
Kissinger trình bày trước
lập trường của ông chủ mình về bang giao Nga-Mỹ; trong đó ông ta đặc biệt nhấn
mạnh: Nếu đắc cử, ông Nixon sẽ rút quân khỏi Việt Nam; sau đó chế độ chính trị
ở miền Nam ra sao không quan trọng, dù có một chính quyền Cộng Sản. Ðiều này,
ông Kissinger còn lập lại khi đến thăm Ðại Sứ Anatoly Dobrynin sau khi ông
Nixon thắng và chưa tuyên thệ nhậm chức.
Hiệp định Paris cũng chỉ
là một văn kiện để giúp Tổng Thống Richard Nixon rút quân ra khỏi Việt Nam một
cách chính thức, nghĩa là vẫn giữ được thể diện.
Năm 1972 nước Mỹ bầu tổng
thống, và ông Richard Nixon cần tái đắc cử, nhờ thành tích chấm dứt cuộc chiến
tranh quá dài mà dân Mỹ bắt đầu thấy chán. Nixon sai Kissinger thu xếp để tiến
tới hiệp định Paris trước khi dân Mỹ bỏ phiếu.
Trong cuộc thu xếp này,
Nixon được Mao Trạch Ðông hỗ trợ.
Trước năm 1970, Mao rất căm hận Nixon vì ông
tổng thống Mỹ chỉ chú ý nói chuyện với Moskva mà không quan tâm đến Bắc Kinh;
coi Mao chỉ là một lãnh tụ Cộng Sản hạng nhì. Trong một cuộc chuyện trò với
Phạm Văn Ðồng, Mao hỏi: “Tại sao bọn Mỹ không làm rùm beng lên về chuyện có
100,000 quân đội Trung Quốc đang xây dựng đường xe lửa, đường bộ, và phi trường
ở Việt Nam, mặc dù chúng biết sự kiện này?” Phạm Văn Ðồng nói vuốt đuôi: “Vì
chúng nó sợ!” Nhưng chúng ta cũng biết rằng ngay từ khi chiến tranh bắt đầu,
các chính quyền Mỹ đã cam kết với Trung Quốc là họ sẽ không bao giờ gửi quân
đội Mỹ và cũng không để cho quân đội miền Nam tiến ra Bắc Việt.
Chính quyền Mỹ
lờ đi như không biết có quân đội Trung Cộng ở ngoài Bắc, vì nói ra sẽ làm cho
bài toán rắc rối hơn, ngay trong khung cảnh chính trị nội bộ của Mỹ. Mao Trạch
Ðông còn tỏ ý bất bình, nói với Phạm Văn Ðồng rằng “Tại sao bọn Mỹ chúng nó lại
ước tính số binh sĩ Trung Quốc ở Việt Nam ít hơn sự thật như vậy?”
Tháng 11 năm 1970 Chu Ân
Lai được lệnh bắn tin qua các nhà ngoại giao Rumania là nếu Nixon muốn thăm
Trung Quốc thì sẽ được mời. Nixon bảo Kissinger đừng tỏ ý muốn đi vội vàng quá,
cuối tháng 2 Kissinger mới bắn tiếng lại, tỏ ý thân thiện nhưng không nói gì
đến việc Nixon có thể sang Tàu.
Tháng 3 năm 1971, các cầu thủ bóng bàn Trung
Quốc gặp các cầu thủ Mỹ ở Nhật Bản, và khi đi chung một chuyến xe buýt, tay vợt
Mỹ Glenn Cowan đã bắt tay nhà vô địch Trung Quốc Trang Tắc Ðống (Zhuang
Zédòng), nói muốn sang thăm Trung Quốc.
Mao Trạch Ðông đã bắt lấy ý đó, ra lệnh
mời các cầu thủ Mỹ qua Tàu! Sau đó, Kissinger đi đêm để chuẩn bị chuyến Nixon
sang Tàu năm đầu 1972.
Trong chuyến thăm bí mật
năm 1971, Kissinger đã hứa hẹn với Chu Ân Lai rằng Mỹ sẽ cung cấp cho Trung
Quốc các tin tức tình báo về hoạt động của quân Nga ở vùng biên giới Nga-Hoa.
Ông cũng cam kết Mỹ sẽ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, mà ông phác họa một
thời biểu là trong vòng 12 tháng.
Lúc đó là tháng 7 năm 1971, sáu tháng trước
khi Mỹ ký hiệp định Paris, mà chính Kissinger cũng không biết chắc là sẽ có một
hiệp định hay không. Vì vậy, Kissinger đã nói
thẳng với Chu Ân Lai là dù không có thỏa hiệp nào thì chính phủ Nixon cũng đơn
phương rút quân, và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa, bỏ rơi luôn chính quyền
miền Nam Việt Nam.
Kissinger nói rõ ràng:
“Sau khi hòa bình rồi, người Mỹ chúng tôi sẽ ở xa Việt Nam cả vạn dặm, còn Hà
Nội thì vẫn ở đó.”
Những chi tiết này được kể lại trong một sách của William
Burr, năm 2002 (The Bejing - Washington Back Channel); kể chuyện các chuyến đi
bí mật của Kissinger năm 1970, 71; sách này nằm trong tài liệu điện tử của cơ
quan An ninh Quốc gia Mỹ NSA; được thuật lại trong sách MAO, của Jung Chang và
Jon Halliday, 2005.
Nixon đã toại nguyện, vì
Mao sẵn sàng giúp ông tái đắc cử.
Dưới sức ép của Mao, Bắc Việt chịu ký tên vào
bản hiệp định Paris. Quân Mỹ rút về “trong danh dự”. Nhưng số phận Nixon lại bị
quyết định do một xì căng đan chính ông ta gây ra; khiến ông phải từ chức khi
Quốc Hội Mỹ chuẩn bị đàn hạch và truất phế, vào năm 1974. Người thương tiếc
Nixon nhất lại là Mao Trạch Ðông. Mao nhắn tin qua bà Imelda Marcos mời Nixon
qua chơi. Năm 1975, Mao sai mời con gái Nixon là Julie và chồng qua Tàu, Mao
lại nói với cô con bảo nói với bố rằng “Tôi nhớ ông ấy lắm.”
Tháng 2 năm 1976,
Mao đưa một chiếc máy bay Boeing 707 sang tận Los Angeles đón Nixon qua uống
trà; bảy tháng sau thì Mao chết.
Bản hiệp định Paris cuối
cùng là kết quả của cuộc gặp gỡ giữa Nixon và Mao. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
không thể làm gì được, khi nước đồng minh lớn nhất đã bỏ rơi. Cộng Sản miền Bắc
đã được Moskva và Bắc Kinh báo cho biết trước Mỹ sẽ rút quân, trong khi vũ khí
của Nga vẫn đổ sang ngày càng nhiều, họ nắm chắc phần thắng.
Nhưng họ vẫn phải
đặt bút ký vì Mao Trạch Ðông muốn tặng Nixon một món quà.
Cộng Sản miền Bắc
cũng cần một thời gian chuẩn bị để đánh một trận chót, cho nên hiệp định Paris
cũng là một bước nghỉ chân.
Những người lãnh đạo
Việt Nam Cộng Hòa chắc không ai biết gì về những lời Kissinger đã hứa với
Dobrynin hay với Chu Ân Lai. Người dân miền Nam lại càng không biết gì cả. Bao
nhiêu chiến sĩ đã bỏ mình trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Bao nhiêu
đồng bào tử nạn trên đường vượt biển. Nhắc lại 40 năm hiệp định Paris, chúng ta
hãy thắp nhang tưởng nhớ họ, đó là cách kỷ niệm có ý nghĩa nhất.
Bài học của
một dân tộc nhược tiểu là đừng bao giờ vì các lý thuyết, tư tưởng trừu tượng,
ngoại lai mà để đồng bào tàn sát lẫn nhau. Trong cuộc chiến tranh nào, người
dân cũng đau khổ
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment