Việt Nam phải cách mạng để tồn tại
Cựu đại sứ CSVN
tại Thụy Sỹ ông Đặng Xương Hùng bỏ đảng xin tỵ nạn chính trị
Phạm Trần (Danlambao) - “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi
đàng...” là lời kinh sám hối của Tín đồ đạo Công giáo phải học thuộc
từ khi biết đọc và hiểu Giáo lý của đạo.
Đem câu này áp dụng cho hoàn cảnh “trên đe dưới
búa” cực kỳ nguy nan trước hiểm họa mất dần chủ quyền đất nước vào tay người
Tầu phương bắc thì Việt Nam cần có Cách mạng để tồn tại. Nhưng trước khi có
Cách mạng, người dân Việt Nam cần biết những nguyên nhân đưa đất nước đến hoàn
cảnh bi đát ngày nay. Trước nhất, 3 nguyên Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam
Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh, nếu còn chút liêm sỉ là người Việt Nam
và muốn không bị lịch sử lên án phản quốc, họ cần chứng minh mình vô tội trong
các thỏa hiệp với Trung Cộng.
Chuyện Đỗ Mười
Người đầu tiên là ông Đỗ
Mười, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng Bí thư đảng Khóa 7 của Cộng sản
Việt Nam (CSVN). Ông là người, cùng với nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi ấy
là Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương đảng (1986-1997), đã tháp tùng Tổng Bí
thư đảng Khóa 6 Nguyễn Văn Linh đi phó Hội nghị bí mật ở Thành Đô (tỉnh Tứ
Xuyên, Trung Cộng) trong hai ngày 03 và 04/09/1990. Phía Trung Cộng có Tổng Bí
thư đảng, Chủ tịch Nhà nước Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Mục đích “lúc đầu”, theo Hồi
ký “Hồi ức và Suy nghĩ” của nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ
thì Hội nghị Thành Đô nhằm vào hai vấn đề chính: Campuchia và vấn đề
bình thường hòa quan hệ Việt-Trung.
Ngoài ra ông Nguyễn Văn
Linh còn ôm mộng sang Thành Đô để “Tranh thủ Trung Quốc, hợp tác với
Trung Quốc, để bảo vệ Xã hội chủ nghĩa!”
Hồi ký Trần Quang Cơ thuật lại rằng
chính ông Linh đã nói với Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Cộng tại Hà Nội, trong
một cuộc gặp mặt giữa hai người hồi tháng 6/1990 rằng: “Trung Quốc cần
giương cao ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam
kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Những người cộng sản chân chính phải đoàn kết để
bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào chủ nghĩa xã hội.
Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ này sẽ làm cho chủ nghĩa xã hôi biến mất.”
Nhưng tại Thành Đô, phía
Trung Cộng đã hoàn toàn chủ động và lái Việt Nam đi theo ý muốn của Bắc Kinh để
ép phe Heng Samrin-Hun Sen thân Việt Nam phải chấp nhận giải pháp chính trị
“hòa hợp dân tộc” với phe bại trận Khmer đỏ thân Trung Cộng, khi ấy đã phải dạt
về biên giới Thái Lan.
Và đây cũng là cái giá
Việt Nam phải trả để được bình thường hóa với Trung Cộng, sau 11 năm Trung Cộng
đem 600,000 quân tấn công 6 Tỉnh Việt Nam dọc biên giới hai nước năm 1979.
Tuy nhiên, phe Heng
Samrin - Hun Sen sau đó đã quay ra hận thù Việt Nam vì Hà Nội đã xen vào
“chuyện nội bộ của người Campuchea”.
Ông Trần Quang Cơ viết
về thất bại chính trị này của Việt Nam trong Hồi ký “Hồi ức và Suy
nghĩ”: “Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là
một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về
đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành
động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc
Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề
Campuchia và do đó làm việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc
tế của ta bị hoen ố.”
Ông Cơ còn vạch trần
“giấc mơ” hão huyền của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mong được hợp tác với Trung
Cộng để bảo vệ Chủ nghĩa xã hội, sau khi khối Liên bang Sô viết tan rã: “Việc
ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc Mỹ,
thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ở Campuchia là không phù hợp với Nghị quyết 13 của
Bộ Chính trị mà còn gây khó khăn với ta trong việc đa dạng hóa quan hệ với các
đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN, và tác động không thuận lợi đến quan
hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia.
Trung Quốc một mặt bác
bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó chơi
xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và
Campuchia.”
Về chuyện này, ông Trần
Quang Cơ còn bổ sung thêm phát biểu của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại phiên
họp kiểm điểm của Bộ Chính trị, sau Hội nghị Thành Đô: “Liên Xô, Anh,
Pháp, Nhật, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thỏa
thuận Thành Đô và nói với họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy. Trung
Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ
ta...”
Ông Võ Văn Kiệt bổ túc
thêm: “Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô (Phạm Văn Đồng)
trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng (Đặng Tiểu Bình, người thực sự nắm
quyền ở Trung Cộng thời gian này) thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi
xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý,
không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm
bẫy.”
Hồi ký của nguyên Thứ
trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ kết luận: “Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là
Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững
chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa
“diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến
sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “ giải pháp Đỏ ”.
Ngoài những việc bất lợi
về mặt ngoại giao cho Việt Nam của Hội nghị Thành Đô do ông Trần Quang Cơ tiết
lộ, còn có Văn kiện chính trị quan trọng hơn được gọi là “Kỷ yếu của
hội nghị”do chính Lý Bằng soạn để cho hai Tổng Bí thư và Thủ tướng hai nước
cùng ký nhưng không được ông Cơ viết ra, có thể ông không được biết hay biết mà
bị cấm.
Hai ông Linh và Đồng đã
qua đời nên bây giờ chỉ còn lại ông Đỗ Mười là người biết rõ đầu đuôi
câu chuyện ở Thành Đô, nhất là hai bên đã đồng ý với nhau và cam kết với
nhau những gì trong “Kỷ yếu hội nghị” 1990.
Cho đến nay, 24 năm sau
Hội nghị Thành Đô, cả hai nước Việt-Trung đều kín miệng về nội dung “Kỷ
yếu hội nghị”, nhưng theo tiết lộ của Cụ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh,
nguyên Đại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1987 thì phía Trung Cộng đã
buộc Việt Nam không được nhắc đến 2 vấn đề gai góc có lợi cho Trung Cộng nhưng
vô cùng tai hại và hiểm độc đối với Việt Nam, đó là: 1) Chuyện Hoàng
Sa đã bị Trung Cộng chiếm của Việt Nam từ tháng 1/1974 và, 2)
Cuộc chiến xâm lược của 600,000 quân Trung Cộng vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam
năm 1979.
Riêng chuyện quân Trung
Cộng đánh chiếm đảo Gạc Ma và 7 bãi đá ngầm của Việt Nam trong quần đảo Trường
Sa năm 1988 dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười thì cho
đến nay, Việt Nam không dám đánh đuổi quân xâm lược mà còn đang “sống chung hòa
bình” ở đó như không có chuyện gì xảy ra, dù rằng 64 lính của quân đội Việt Nam
đã bị quân Trung Cộng giết chết trong cuộc chiến 1988.
Bây giờ thì lịch sử Biển
Đông đã rẽ sang khúc quanh mới có lợi cho Trung Cộng khi Bắc Kinh “tự do” đặt
giàn khoan tìm kiếm dầu Hải Dương 981 vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam từ ngày 02/05/2014. Trung Cộng cũng đang có kế họach xây dựng
một “căn cứ hải-không quân” nổi ở Trường Sa để xác nhận chủ quyền và khống chế
Việt Nam và các nước có tranh chấp biển đảo với Bắc Kinh.
Như vậy, nếu ông Đỗ Mười
còn là người Việt Nam yêu nước và không muốn tên mình bị lịch sử bôi đen thì
hãy can đảm xác quyết với nhân dân có hay
không chuyện ông đã cùng với ông Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng cam kết với
hai lãnh đạo Trung Cộng, Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân và Thủ
tướng Lý Bằng tại Hội nghị Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990 rằng Việt Nam sẽ “không
bao giờ nhắc đến chuyện Hoàng Sa 1974 và cuộc chiến tranh biên giới 1979”?
Trong khi chờ đợi câu
trả lời, và có thể chẳng bao giờ có, của ông thì ông Đỗ Mười và tất cả lãnh đạo
của đảng CSVN cần đọc lại đoạn dưới đây trong Hồi ký lịch sử của ông Trần Quang
Cơ:
“Ngày 5-10/11/91, sau
khi Hiệp định về Campuchia được ký kết ở Paris, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ
tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để hoàn thành
việc bình thường hóa mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2/79.
Nhưng trong khi lãnh đạo
ta ôm kỳ vọng cùng Trung Quốc “bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc” thì họ đã
xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất
đầu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh
nhau).
Trung Quốc nói thế song
luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất
là không ngừng tác động vào nội bộ ta.”
Bộ ba Phiêu-Mạnh-Trọng
Trong trường hợp của
nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thì ông chỉ cần trả lời với
nhân dân xem ông có nhượng đất và
nhượng biển cho Trung Cộng khi ký hai Hiệp định “Phân định biên giới trên đất
liền” và “Phân định vịnh Bắc Bộ” trong hai năm 1999 và năm 2000?
Mục Nam Quan đã mất, 2/3
Thác Bản Giốc đẹp nhất và một phần Vịnh Bắc Bộ đã thuộc về Trung Cộng có phải
là bằng chứng không?
Ông Phiêu cũng cần cho
dân biết có bao nhiêu cây
số vuông, kể cả điểm cao 1509, hay núi Lão Sơn thuộc tỉnh Hà Giang (tên cũ là
Hà Tuyên) đã nằm gọn trong tay Trung Cộng sau cuộc chiến
Biên giới thứ hai từ tháng 4 năm 1984 đến tận năm 1990?
Đối với nguyên Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh thì điều quan trọng nhất là tại sao ông đã “tự ý ký thỏa hiệp để cho Trung Cộng vào khai
thác Bauxite ở vùng đất chiến lược Tây Nguyên” để bây giờ chịu
thua lỗ không gỡ ra được mà còn nguy hiểm cho an ninh quốc gia?
Ông Mạnh cũng cần phải
trả lời thắc mắc tại sao ông đã để cho
90% dự án kinh tế chiến lược lọt vào các Công ty Trung Cộng và không ngăn cản
các địa phương cho người Tầu thuê đất trồng rừng và xây dựng cơ sở dọc theo duyên hải
trong hàng chục năm khi ông tại chức trong hai khóa đảng từ 2001 đến 2011?
Đối với Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng, người kế vị ông Mạnh từ tháng 01/2011 cũng phải giải thích với lịch sử tại sao ông đã ra lệnh cho Công an
ngăn cản, bắt giam và đàn áp thô bạo những người dân biểu tình chống Trung Cộng xâm chiếm biển đảo
và giết hại ngư dân Việt Nam ở Biển Đông từ năm 2011 đến nay.
Ông Trọng cũng có trách
nhiệm đã để cho Thương lái Trung Cộng tự do hoành hành và phá hoại kinh tế Việt
Nam; để cho hàng hóa Trung Cộng tự do nhập lậu vào thị trường để giết các doanh
nghiệp trong nước và để cho các Công ty Trung Cộng tự do đem hàng nghìn lao
động phổ thông vào Việt Nam cướp việc của dân Việt?
Ông cũng cần cho dân biết tại sao Nhà nước đã dành nhiều đặc quyền, đặc
lợi cho Công ty Trung Cộng trúng thầu các dự án kinh tế quan trọng; cho các
doanh nghiệp Tầu Bắc Kinh thuê đất từ 50 đến 70 năm tại các địa điểm chiến lược
như Vũng Áng (Hà Tĩnh) và Cửa Việt (Quảng Trị)?
Song song với kế họach
“mở rộng lãnh thổ cho Tầu vào nhà”, ông Tổng Bí thư đảng CSVN còn để cho hàng
chục nghìn dân Tầu nhập cư bất hợp pháp và lập các khu phố, vùng dân cư xen kẽ
với xóm làng và thành phố Việt Nam từ Nam ra Bắc?
Ngoài ra, trong cương vị
“lãnh đạo toàn diện nhà nước và xã hội”, ông còn cấm không cho dân và cựu chiến
binh tổ chức truy điệu và tưởng niệm những chiến sỹ và đồng bào Việt Nam đã hy
sinh trong 3 cuộc chiến chống quân Trung Cộng xâm lược tiêu biểu nhất trong Thế
kỷ 20 tại Hoàng Sa (1974), Cuộc chiến biên giới 1979 và trận Trường Sa năm
1988?
Rồi ông cũng hành động
đầy nghi ngờ khi bác yêu cầu của Quốc hội muốn Chính phủ báo cáo về tình hình Biển
Đông. Giữa lúc Trung Cộng tuyên bố thành lập Thành phố Tam Sa bao gồm Hoàng Sa,
Trung Sa (bãi cạn Scarborough có tranh chấp với Phi Luật Tân) và Trường Sa năm
2012 và nhiều ngư dân Việt Nam bị lính Trung Cộng giả dạng Hải giám, Kiểm ngư
đánh đập tàn nhẫn, thuyền cá bị tấn công và cướp đi tài sản và ngư cụ thì ông
Trọng bảo “tình hình Biển Đông không có gì mới”!
Lê Đức Anh
Cuối cùng là Đại tướng
Lê Đức Anh cũng có bổn phận phải bạch hóa “hồ sơ thân Trung Cộng” của ông khi
giữ Bộ trưởng Quốc Phòng trong giai đoạn 16/02/1987 – 10 tháng 08/1991 và Chủ tịch Nước
từ 23/09/ đến 24/09/ năm 1997.
Hồi ký “Hồi ức và Suy
nghĩ” của nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã nói rất rõ
vai trò “khuynh loát” và “đi đêm” với các sứ giả Trung Cộng của ông khi Việt
Nam bị Trung Cộng ép tham gia vào “giải pháp Đỏ” để tìm
giải pháp chính trị cho Campuchea.
“Giải pháp Đỏ” là kế hoạch chính
trị của Trung Cộng nhằm tạo thế “liên hiệp bình đẳng” cho phe Khmer đỏ (thân
Bắc Kinh) tại bàn hội nghị với phe Heng Samrin-Husen (thân Việt Nam) để thành
lập Hội đồng Quốc gia Tối cao Campuchia (Supreme National Council, SNC), sau
khi Việt Nam hoàn tất rút quân khỏi chiến trường Campuchea năm 1989.
Ông Lê Đức Anh đã sát
cánh với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng Đỗ Mười làm
theo ý muốn của Trung Cộng để, một mặt bảo đảm thế chính trị cho Khmer đỏ sau
khi đã “bằng lòng không lập lại vấn đề “tội diệt chủng giết trên 1 triệu người
Campuchea” của Khmer đỏ và mặt khác giúp Trung Cộng duy trì “ảnh hưởng của họ ở
Campuchea”.
Tuy nhiên, theo quan
điểm của Bộ Ngoại giao Việt Nam lúc đó thì giải pháp này bất lợi cho cả Việt
Nam lẫn phe Heng Sanrin-Hun Sen nên Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ
Thạch và Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ quyết liệt chống đối nhưng bất
thành vì có bàn tay của Lê Đức Anh thúc sau lưng hai ông Linh và Mười.
Vì lập trường “chống
giải pháp Đỏ” của Trung Cộng mà Ngoại trượng Nguyễn Cơ Thạch không được tham dự
Hội nghị Thành Đô. Và cũng tại Thành Đô, phía Trung Cộng đã công khai yêu cầu
phía Việt Nam loại ông Thạch ra khỏi Bộ Chính trị và Bộ Ngoại giao, theo nhiều
bài viết không hề bị cải chính của một số cựu viên chức cao cấp đảng, trong đó
có Cụ nguyên đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh.
Quả nhiên tại Đại hội
đảng kỳ VII tháng 6/1991, ông Nguyễn Cơ Thạch đã bị phe Nguyễn Văn Linh-Đỗ
Mười-Lê Đức Anh loại ra khỏi Bộ Chính trị và mất luôn chức Bộ trưởng Ngoại
giao, theo yêu cầu của Trung Cộng!
Sau khi thay Nguyễn Văn
Linh làm Tổng Bí thư, ông Đỗ Mười đã mau mắn chứng minh sự “tuân phục Bắc Kinh”
của mình, theo Hồi ký của ông Trần Quang Cơ ghi lại: “Ngày 9/7/91, vừa
được bầu làm Tổng bí thư, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ý
muốn cử Đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về
quan hệ giữa hai nước.
Trước đó ít ngày - ngày
11/6/91 - Bộ Ngoại giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm
phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao hai nước.
Ngày 17/7, Trung Quốc
trả lời đồng ý gặp cấp Thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5/8 đến 10/8.
Hai ngày sau, Trung Quốc
trả lời đồng ý việc ta cử Đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp
xếp cuộc gặp Đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp Thứ trưởng Ngoại giao...
Việc làm trên cho thấy
một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thỏa
thuận với cấp Đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp Thứ trưởng Ngoại giao.
Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “Đặc phái viên”
thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam”
tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà.
Hồng Hà lúc đó là Bí thư
Trung ương, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối
ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một Thứ trưởng Ngoại
giao là ủy viên Trung ương đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm
phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận.
Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các
hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy
lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.”
Thế rồi chuyện “hạ mình
xin lỗi” Trung Cộng của Lê Đức Anh đã diễn ra, theo ông Trần Quang Cơ kể tiếp: “Ngày
28/7/91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý
Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII. Thông báo cả những
ý kiến khác nhau quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề
quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành Trung ương
mới..., Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có Ngoại
trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8/91, Giang tỏ ý
hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các
đồng chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến
đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ
hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần,
chiều 29/7 và tối 31/7 để tạ lỗi (?).
Mở đầu cuộc gặp chiều
29/7, Lê Đức Anh đã nói:
“Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam
đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí
Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm
nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của
tôi... Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa
những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”.
Chuyện “không hay ho
lắm” hay “là một việc đau lòng” chính là cuộc va chạm bằng ngôn ngữ gay gắt mà
trước khi bị mất chức, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã “dạy cho Đặc
phái viên, Trưởng đoàn đàm phán Từ Đôn Chính một bài học” khi họ Từ
sang Hà Nội ép ông Thạch chấp nhận “giải pháp Đỏ” ngồi lên đầu đồng minh Heng
Samrin-Hunsen.
Như vậy thì chuyện lãnh
đạo CSVN nào thân Tầu, ai qụy lụy Tầu và ai sẵn sàng thỏa hiệp với Bắc Kinh để
được tại chức an thân đã rõ chưa, hay cần Trung Cộng đặt thêm vài chục giàn
khoan cỡ HD-981 ở Trường Sa và Vịnh Bắc Bộ, hay cạnh đảo Lý Sơn, hoặc gần đảo
Phú Quốc thì đảng CSVN mới “sáng mắt sáng lòng”?
Và nếu tất cả các ông Đỗ
Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và Lê Đức Anh không trả lời
được những thắc mắc trong bài này thì liệu Việt Nam có cần một Cuộc Cách Mạng
để giữ nước?
(06/014)
Bài
thơ bán nước
(Bức tranh “Bán nước” Thành Đô)
Giang Trạch Dân nắm tay
Nguyễn Văn Linh nói:
Thằng này chào giá thiệt tình
Lý Bằng tấm tắc khen:
Thuận mua vừa bán tụi mình anh em
Nguyễn Văn Linh cười
tươi đáp lại:
Zách lầu số 1 khách quen
Đỗ Mười cười rạng rỡ hứa
hẹn:
Còn nhiều thứ nữa đừng kèn cựa nghen!
Phạm Văn Đồng chốt giá
đề nghị:
Bí mật đừng có ho hen!
Nụ
cười Thành Đô (bức tranh thị trường định hướng Bắc thuộc!)
Thái Hữu Tình
(Danlambao) đề thơ
Bài ca bán nước
Điếm cấp thấp bán trôn
nuôi miệng
Điếm cấp cao bán miệng
nuôi trôn (Nguyễn Duy)
Bán thân, bán thận, bán
thần
Trong ba thứ ấy em mần
thứ mô?
Bán thận thì sắp xuống mồ
Bán thân thì phải tô hô suốt ngày
Bán thần bị lột mặt ngay
Chỉ nghề bán
nước em đây bợm già!
Biển treo cứu nước cứu
nhà
Cổng sau ta bán nước ta
cho Tàu
Mác-Lê em thuộc làu làu
Vàng mười sáu chữ là câu
cửa... mình
Bao giờ nước Việt hồi
sinh
Thời em túm cái “tỉnh
tình tinh” em...
chuồn!
Đừng
quên
Nguyễn Tâm Linh (Danlambao) - Tự do bị tước đoạt trước mắt ngay trên quê nhà - một thực
tế - lê dân hô hào, biểu tình, tranh đấu bằng võ miệng, đòi hỏi Trung Cộng,
Cộng Sản VN phải thế nầy thế nọ…!
Có giá trị hay như nước
đổ đầu vịt?
Nhớ lại anh Ba phì nộn
được Mỹ viếng thăm năm 1972, hai bên đã kết ước trao tình từ bấy lâu nay thì
chuyện xảy ra trên biển Đông nổi sóng chỉ là… chuyện đến phải đến đúng theo chu
kỳ kịch bản? (!)
Cái quá khứ, cái hiện
tại, cái tương lai chỉ một mà thôi!
Đừng hòng nhờ đến những
tổ chức trên thế giới thò tay giùm… mới nghe qua, chạm lòng người, nhưng đó chỉ
là những bản hợp ca của tiếng dế mèn râm ran hay tiếng ếch nhái hòa tấu khúc
nhạc ‘ai ca’ giữa đêm trường, rộ lên một lúc rồi im hơi!
Giới truyền thông thường
chơi cái ‘điệp khúc’ nầy hoài!
Nay Đảng CSVN vẫn nắm
trong tay quyền lực, chuyên ức hiếp, trói buộc, chèn ép, ngược đãi dân lành.
Họ chỉ là ‘diễn viên’
sáng giá, răm rắp tuân lệnh ‘nhà đạo diễn’, thực hiện nốt phần cuối kịch bản,
đã lộ chân tướng.
Có còn gì nữa đâu để mà
tự hào ‘Đảng ta là đảng cầm quyền’ khi đàn anh Trung Cộng vỗ ngực, tác oai tác
quái ở biển Đông, bất chấp tất cả luận điệu lên án của thế giới, vì biết rõ:
‘Hiệp ước phòng thủ’
chẳng có nước nào được phép cầm bút ký cùng CSVN.
Đảng CSVN thích cô đơn,
chuộng tự do “tự do chạy vào cõi chết!”
* Ồ! Giàn khoang khủng
HD 981 ngang nhiên di dời nay chỗ nầy, mai chỗ khác. Hải phận VN nổi sóng. Dân
Việt sục sôi lòng căm hờn từ trong nước ra tới hải ngoại!
Sao có vẻ giống như ‘Cục
R’ năm nào? (!)
Giờ đây lê dân VN đang
ngóng cổ chờ phiên tòa quốc tế… chuyện Tầu Cộng bắt nạt, chơi xỏ lá!
Chừng nào đây? Kiện thế
nào hay cho chìm xuồng?
Nhiều nước đồng tình ủng
hộ CSVN qua miệng lưỡi, hay tìm cách kiếm chác, hợp tác để hai bên cùng có lợi?
Chắc có lẽ lúc đó tự do,
độc lập mọc cánh bay trở về, nhân quyền xuất đầu lộ diện, vỗ tay lốp bốp ngay
trên quê hương VN?
- Hay Đảng CSVN được
thay tên đổi họ như ngày xưa?
- Hay ‘điều 4’ mọc cánh
bay cái vèo, mất tăm?
- Hay thủ đô Hà Nội mất
danh như Sài Gòn?
Nhiều chuyên gia đoán
mò, tuyên bố vung vít? Thấy phát ớn!
* ‘Nhà đạo diễn’ được
phép thực hiện ‘quyền lực vô hình’, đang thao túng, gây xáo trộn toàn cầu từ
trước đến giờ, đảo lộn vận mạng nhiều quốc gia, nhiều dân tộc trên thế giới;
vẫn làm mù lòng kẻ vô tín; vẫn dẫn dụ con người xa lìa ĐẤNG TẠO HÓA bằng nhiều
hình thức lừa đảo, ru ngủ, réo gọi, mời mọc, dọa dẫm, bắt chẹt…
Một khi đã khước từ sự
thương xót của CHÚA HẰNG HỮU, là ĐẤNG đang “nắm trong tay sự sống của mọi sinh
vật và hơi thở của mọi người” thì ai đó, dân tộc đó chẳng còn biết thân phận
mình như con dê, con chiên bị dắt đến lò làm thịt, như con chim sa vào bẫy rập,
đến lúc nhận ra sự thật phũ phàng mình bị phỉnh, bị lừa… thì chỉ có nước đấm
ngực, ngước mắt kêu TRỜI!
Chuyện nầy đã xảy ra
ngay trên đất nước VN rồi!
Lần nữa? Ai biết trước
tương lai ra sao?
Đây cũng là cái án phạt
không được miễn trừ vì dân tộc Việt thờ cúng quá nhiều thần tượng, mài miệt
sống tự hào bởi truyền thuyết mình thuộc dòng giống ‘Con Rồng, cháu Tiên’, hãnh
diện với thế giới vì có hơn bốn ngàn năm văn hiến, đã hững hờ bàn chân của
những người đem tin lành bình an đến VN (năm 1911).
Dân lành không lưu tâm
đến ‘quyền lực hữu hình’, chối bỏ ĐẤNG tạo hóa mình như thường.
Nay nhìn lại, dân chúng
vẫn còn bị è cổ dưới ách Đảng CS, vẫn bị Trung Cộng hống hách bắt nạt, nẹt roi…
Đất nước tụt hậu. Lòng
dân rã rời, tuyệt vọng? Ai nấy đều sống lơ láo bởi tay Đảng CS ưu việt.
Đau đớn, xót xa thay!
* Nhắc lại đôi điều để
gợi nhớ ‘nhà đạo diễn’ lừa dối thiên hạ.
* ‘Diễn viên’ chính là Nguyễn
Ái Quốc, đảng viên CS đệ tam quốc tế, qua đời vì bạo bệnh (1932).
Hồ tập Chương thay thế
(1945) với danh xưng Hồ chí Minh, được làm chủ tịch nước VNDCCH, được Việt Minh
tung hô, đón chào, được làm thủ lãnh Đảng CSVN, là anh ba Tầu, học tiếng Việt,
nhại tiếng người Nghệ An. (1)
Quá tuyệt vời!
* Chuyện Tạ Thu Thâu,
Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt sống. Một bị thủ tiêu chết mất xác, một được Mỹ
hậu thuẫn, trở về với địa vị đứng đầu nước VNCH, coi sóc miền Nam là tiền đồn
chống Cộng.
Cái danh tiền đồn sáng
giá trên chính trường quốc tế, tròm trèm 20 năm trở thành danh rởm sau ngày
30.4.1975.
Ôi! Cái danh như bọt
nước, hư không!
* Coi nhẹ chính sách
‘cây gậy, củ cà rốt’ hay lơ là kịch bản, diễn không ưng ý nên thủ lãnh nền ‘Đệ
I Cộng Hòa’ bị loại ra khỏi chính trường, chết trong kinh hoàng, trong thương
tiếc, xót xa!
Tổng thống Nguyễn văn
Thiệu được chọn, bước vào… thành lập nền ‘Đệ II Cộng Hòa’, được hứa hẹn, được
hậu thuẫn nửa chừng!
Ông luôn tin tưởng nơi
lời hứa của kẻ đứng đầu cường quốc số một, để rồi thất vọng não nề, phải chịu
cuốn gói ra đi… để lại cơ đồ miền Nam (hòn ngọc Viễn Đông) cho CSBV lao đến,
cướp giựt, chia chác vì ‘nhà đạo diễn’ đổi ý, sửa lại kịch bản: http://www.youtube.com/watch?v=hwvXyzo7MjM
Thật quá tàn độc bởi
‘nhà đạo diễn’ nhẫn tâm chủ xướng ‘quyền lợi đi trước, nhân quyền theo sau’, là
kẻ đứng sau hậu trường lưỡng viện quốc hội Mỹ góp ý…!
Bởi lẽ chàng có quá
nhiều… thứ mà ai cũng phải lo lắng kiếm tìm suốt đời mình, không có nó chẳng
làm được bất cứ chuyện gì!
* Nếu không để cho CSBV
là kẻ xin đầu hàng được thắng trận thì làm gì có chuyện nầy chuyện nọ xảy ra
như bây giờ?
Công hàm 1958 là bài
trường ca được hợp xướng vang dội.
Khúc nhạc ‘6 chữ vàng, 4
tốt’ được tấu lên, lỗi nhịp, khiến khối ASEAN ù tai, sốt vó!
Nghe bản tình ca ‘môi hở
răng lạnh’ làm Mỹ phải xoay trục, sửa lại phím đàn!
Lê dân Việt Nam (nằm mơ)
thấy mình là gạo đang bỏ nằm trên cối xay!
* Đảng CSVN từ bỏ Trung
Cộng, đã quay đầu về, kết ước, thỏa hiệp lại người anh em sau giai đoạn CS Đông
Âu, liên bang Nga Sô, Đông Đức đi suốt chuyến tàu hoàng hôn.
Nay Đảng phải chịu khấu
đầu, cúi mặt, van xin…!
Đảng vẫn dối trá dân
mình bằng xảo ngôn; vẫn a dua với bọn cường bạo Trung Cộng.
Ú ớ, vội vã tìm cách
thoát ra khỏi lưới rập?
Lấy gì trả nợ anh Tầu?
Lấy tài nguyên đất nước, lấy lê dân ra làm của cầm, thế chấp?
Lấy gì lấp đầy lòng tham
không đáy của kẻ thù phương Bắc?
Chất xám cạn kiệt rồi?
Vô phương!
Chịu đấm để xù nợ hay
lấy dân làm bia đỡ đạn?
Nếu Đảng CSVN lui vào
bóng đêm, nợ nần coi như phủi sạch? Lúc đó anh Ba tiếc của, nổi trận lôi đình
thì… thì lùng tùng xèng!
* ‘Nhà đạo diễn’ nốc cạn
ly rượu nồng, đắc chí, cười ngất, nhìn đống vàng khối tỏa sáng trong kho.
Chàng viết thêm kịch bản
khác, ngồi mơ màng thấy đồng Euro, đồng Nhân dân tệ biến dạng theo thời gian…
* Khi biết mình không cự
địch nỗi với ngoại thù phương Bắc, và kẻ nội thù là Đảng CSVN đang tráo trở
tiếp tay cùng giặc, chúng ta làm được gì khi ‘quyền lực vô hình’ tác động thêm
vào lòng mình mối căm thù đang sủi bọt?
Cách nào thoát khỏi?
Đừng quên “kính sợ
THƯỢNG ĐẾ thì NGÀI sẽ là pháo đài kiên cố bất khả xâm phạm”.
NGÀI còn phán: “Lãnh tụ
nào có thể chống đối TA”.
Tháng 6/2014
_________________________________
Chú thích:
(1) * tác phẩm ‘HCM
sinh bình khảo’, tác giả Hồ Tuấn Hùng
* youtube ‘HCM ẩn số VN’
* VN phim club:
Từ
nạn độc tài đến họa xâm lăng và thử thách của phong trào dân chủ
I. Bản chất của chế độ CSVN
Cho dù được tô điểm bởi
bất kỳ mỹ từ nào chăng nữa, chế độ CSVN là một chế độ độc tài kể từ khi đảng
này cướp chính quyền và cai trị cho đến nay.
Sự ra đời của đảng CSVN
gắn liền với Hồ Chí Minh, là một người ngay từ đầu cho đến lúc chết vẫn luôn
luôn thuần phục Tàu cộng. Yếu tố sống còn và khả năng độc quyền cai trị của
đảng CSVN lệ thuộc vào Tàu cộng. Lệ thuộc từ đường lối chính trị, phương thức
cai trị cho đến tài lực, vật lực lẫn kiến năng. Lệ thuộc từ trong khói lửa
chiến tranh như Điện Biên Phủ, xâm lược VNCH sang đến những cuộc chiến mà kẻ
thù là nhân dân như Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm... Tất cả, từ lãnh
đạo cho đến mọi hoạt động, đều mang dấu ấn made in China.
Do đó, chế độ CSVN không
chỉ là một chế độ độc tài. Nó là một thể chế vừa độc tài vừa nô lệ
ngoại bang trong suốt chiều dài cuộc sống của nó.
Với bản chất độc tài và nô lệ, điều gì đã xảy
đến với chủ quyền lãnh thổ Việt Nam?
Nếu sau thế chiến thứ 2, Hồng quân Nga tiến vào
Đông Âu và thiết lập những nhà nước cộng sản bù nhìn thì sau khi Liên bang Sô
viết sụp đổ, mỗi quốc gia Đông Âu đều có thể tranh đấu để khôi phục chủ quyền
cho những vùng đất nếu vẫn còn bị Nga chiếm đóng. Những thể chế độc tài cộng
sản còn sót lại như Bắc Triều Tiên, Cu Ba dù tồi tệ đến bao nhiêu vẫn chưa để
một tấc đất của tổ quốc họ rơi vào tay ngoại bang.
Ngược lại, đối với Việt Nam, điều tệ hại là
những mất mát không phải vì bị cướp, hoặc vì hết lòng chiến đấu mà không đủ sức
bảo vệ. Tổ quốc Việt Nam bị mất đất, mất biển là do chính đảng CSVN ký
kết nhường, đổi chác, bán. Những ngòi bút ký của lãnh đạo đảng CSVN vào
Công hàm 1958, Hiệp định Biên Giới Việt Trung, Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ,
Tuyên bố chung về Boxit Tây Nguyên... và còn nhiều văn bản khác vẫn nằm trong
vòng bí mật đã công nhận nhiều phần lãnh thổ, lãnh hải của
Việt Nam thuộc về Tàu cộng. Những chữ ký "đại diện quốc gia" này đã
trao cho Tàu cộng một sức mạnh gấp ngàn lần xe tăng, đại pháo, sư đoàn trong
cuộc bành trướng của đại Hán: "thu tóm mà không cần phải xâm lăng". Những chữ ký này sẽ làm cho dân tộc
Việt Nam gặp khó khăn gấp trăm lần khi phải tranh đấu để lấy lại những gì bị
mất vì chính phủ ký kết xác nhận nó thuộc về ngoại bang, so với nỗ lực đứng
lên giành lại những gì bị mất vì hành vi xâm lược.
Do đó, chế độ CSVN không chỉ là một chế độ vừa
là độc tài vừa nô lệ cho ngoại bang. Chính xác hơn, nó là một chế độ
độc-tài-bán-nước. Đây là
bản chất, là căn cước của cộng sản Việt Nam. Và thực chất của tình trạng mất
đất, mất biển đã không đến từ xâm lăng mà đến từ một cuộc buôn bán đổi chác dài
hạn. Thủ phạm chính không phải là người mua, kẻ
nhận mà chính là kẻ bán, người dâng.
II. Độc-tài nuôi
bán-nước và bán-nước nuôi độc-tài
Độc-tài nuôi bán-nước: Nếu Việt Nam là một nước dân chủ, đa đảng,
tam quyền phân lập thì đã không có Công hàm bán nước 1958, Hiệp định Biên giới,
Hiệp định Vịnh Bắc Bộ và nhiều ký kết khác. Sẽ không có Tổng bí thư một đảng
cùng với mười mấy tên trong Bộ Chính trị toàn quyền quyết định tương lai của
dân tộc và tùy tiện sắp xếp biên giới của quốc gia với ngoại bang. Sẽ không có
những văn kiện với chữ ký của 2 tổng bí thư của 2 đảng, là những người không
được dân bầu, nhưng lại toàn quyền quyết định những vấn đề có tầm ảnh hưởng lên
cả quốc gia. Sẽ không có một Quốc hội bù nhìn toàn là đảng viên cộng sản ngồi
đọc và chỉ biết được nội dung sau khi văn kiện đã được ký. Sẽ không có tình
trạng cả nước không biết rõ toàn bộ nội dung những hiệp định được ký kết, không
nắm chắc đất nước đã bị mất những gì, mất bao nhiêu. Do đó độc tài dẫn
đến mất nước vì độc tài cai trị đã nắm vị trí độc quyền bán nước.
Bán-nước nuôi độc-tài: Đảng CSVN sẽ không thể độc tài cai trị cho
đến ngày nay nếu trong suốt nhiều thập niên liền không sống bằng những hỗ trợ
trên mọi phương diện từ Tàu cộng. Đảng không tồn tại nếu không mang căn cước bán-nước bên
cạnh tờ khai sinh độc-tài. Để độc tài, cộng sản Việt Nam phải
bán nước. Lý do:
Một guồng máy độc tài với những lãnh đạo, cán bộ
không có thực tài, thiếu khả năng, đầy bằng cấp giả, cộng thêm tham nhũng, hối
lộ thì không thể nào tự họ làm cho đất nước hưng thịnh. Do đó, đảng CSVN sẽ
không đủ khả năng để ngăn chận sự nổi loạn của quần chúng nếu không bắt tay với
Tàu cộng để người dân có miếng ăn, có áo mặt, có điện, có xăng, có xe, có mọi
thứ mặt hàng gia dụng... Các lãnh đạo và cán bộ đảng sẽ không thể nào đi từ vô
sản không bằng cấpthành tiến sĩ tư bản đỏ bằng con đường
với sức mình sỏi đá cũng thành cơm. Bài toán giải quyết và kết quả là một nền
kinh tế hoàn toàn lệ thuộc vào Tàu cộng - từ công trình xây dựng, nhiên liệu,
điện lực đến giao thông, hàng hóa, thực phẩm... Do đó, bành trướng Bắc Kinh
không cần phải được thực hiện bởi những sư đoàn tinh nhuệ vượt biên giới Việt
Tàu mà là những công trình, công nhân Tàu giàn trải khắp Việt Nam. Phương tiện
xâm lược của Tàu cộng không cần phải là AK47, chiến đấu cơ Chengdu J-20, tên
lửa DF-31A mà là những cú phôn, những quyết định bằng lời có thể dẫn đến sự sụp
đổ của thị trường chứng khoán, cúp điện cả nước và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam
đi vào hỗn loạn. Nếu nói rằng cai trị là nắm quyền quyết định hay ảnh
hưởng lên vận mạng của một quốc gia thì đảng CS Việt đã từng
bước trao cho đảng CS Tàu quyền cai trị Việt Nam. Bắc Kinh không cần phải
có một chính phủ người Tàu đóng đô ở Ba Đình để thống trị nước ta.
Đem giao cả nền kinh tế và biến nó thành một nền
kinh tế nô lệ cho Tàu cộng vẫn chưa đủ. Đảng CSVN đã "hòa tan" những
hoạt động của quốc gia với Tàu cộng trên mọi lãnh vực. Từ lãnh vực quân sự với
đường dây nóng, với các khóa đào tạo sĩ quan, sang đến lãnh vực tình báo, pháp
luật, an ninh xã hội, tòa án, hành chính... Tất cả đều có bóng dáng chỉ đạo của
đảng cộng sản Tàu. Việt Nam đã và đang bị cai trị bởi Bắc Kinh - chỉ có điều là
ở mức độ nào? 50%, 70%...? - không ai có thể biết chính xác.
III. Xâm lược HD981:
cơ hội cho độc tài
Ở một nước "độc tài bình thường" nguy
cơ ngoại bang tấn công hay xâm lược là cơ hội cho những nhà độc tài "kết
hợp lòng dân", kêu gọi quần chúng "đồng lòng cùng chính phủ" và
gạt qua những bất đồng chính trị để đoàn kết chống ngoại xâm. Điều đó đã xảy ra
ở Serbia vào năm 1999 khi NATO thả bom Serbia vì độc tài Slobodan Milosevic từ
chối triệt thoái quân ra khỏi Kosovo.
Nếu những quả bom của NATO rải thảm thủ đô
Belgrade vào năm 1999 là một món quà cho Milosevic thì giàn khoan HD981 của Tàu
cộng là một món quà cho những nhà độc tài CSVN. Khác với Serbia, nơi mà
Slobodan Milosevic là một nhà độc tài nhưng không bán nước, tại nước "độc
tài bất bình thường" Việt Nam, đảng cầm quyền đã nhiều đời mang căn cước
độc-tài + bán-nước. Vì thế, HD981 là cơ hội để những nhà độc tài bán nước CSVN
đeo mặt nạ yêu nước và làm người ta có thể quên đi "hành trình bán nước từ
lúc mới ra đời" của họ. Đối với quảng đại quần chúng, chiêu bài độc lập
dân tộc được tung ra. Hình ảnh một lãnh tụ "sáng giá" phun châu nhả
ngọc chống ngoại xâm được tung hô. Một chiến dịch dân vận để trình chiếu bộ
phim trong đó mọi bộ phận, cơ chế của nhà nước cùng đồng lòng, nhân
dân cả nước cùng đồng lòng. Một chiến dịch đồng lòng khắp
hang cùng ngỏ hẻm đã được khua chiên, gõ mỏ, cho dù phải đem ngư dân ra để làm
"tài tử" chính cho bộ phim "đảng, nhà nước và nhân dân
đồng hành cùng ngư dân bám biển, bảo vệ tổ quốc".
Dàn khoan HD981 là cơ hội cho độc tài giả dạng
"yêu nước" và cũng là thời cơ để độc tài chụp lên đầu những ai chống
lại lãnh đạo "yêu nước" là thành phần phản quốc.
IV. Những thử thách
của phong trào dân chủ
Trong "cơn sốt sơn hà nguy biến",
những nỗ lực tranh đấu chống độc tài hình như trở thành lạc
quẻ. Những công việc tranh đấu của phong trào dân chủ trước đó bây giờ hình
như trở nên nhỏ lẻ và vô nghĩa. Chuyện tranh đấu tự do cho
blogger Anhbasam, Lê Thị Phương Anh, đấu tranh chống lại Điều 258 hình
như đang giống như chuyện đi nhặt rác trong một căn nhà đang cháy.
Nhiều người choáng ngợp đến bất động vì hiểm họa ngoại xâm và có cảm giác
cá nhân mình quá nhỏ bé, vô vọng trước tình hình thời cuộc.
Trong "cơn sốt sơn hà nguy biến" cộng
với thủ đoạn mị dân của những nhà độc tài chụp bắt cơ hội, lực lượng dân chủ
cũng bắt đầu phân tán vì những khuynh hướng khác nhau - giữa khuynh hướng đồng
lòng cùng chính phủ, kỳ vọng vào những lời tuyên bố của một nhà độc tài mang
mặt nạ yêu nước và khuynh hướng vừa chống độc tài vừa cứu nước.
Đó là tình trạng của phong trào dân chủ trong
những ngày qua kể từ hôm 18.5.2014 khi cuộc biểu tình yêu nước bị Nguyễn Tấn
Dũng ra lệnh ngăn cản, cấm đoán và bắt giam một số người.
Nếu trước đây, phong trào dân chủ có một phương
hướng chung trên con đường độc đạo là đấu tranh dẹp bỏ độc tài, xây dựng dân
chủ, bảo vệ và phát triển nhân quyền thì "cơn sốt sơn hà nguy biến"
đã bật ra 3 ngả rẽ:
1. Kỳ vọng vào
đảng độc tài thoát khỏi vòng nô lệ của Tàu cộng. Tên thời thượng
là Thoát Trung.
2. Kỳ vọng vào một lãnh đạo "sáng
giá nhất" của đảng đứng lên lãnh đạo một cuộc cách mạng nhung để thoát ách
nô lệ Tàu cộng và hy vọng người này đứng về phía nhân dân để cởi trói độc tài.
3. Kiên trì tranh đấu để
chấm dứt độc tài và xây dựng dân chủ và xem đó là điều kiện nền tảng để có được
sức mạnh toàn dân nhằm bảo vệ tổ quốc.
Chọn lựa thứ nhất dành cho những người không
thấy được toàn bộ bản chất cốt lõi độc-tài-bán-nước của đảng
CSVN, không nhớ hay không muốn nhớ đảng này là thủ phạm dẫn đến tình trạng đất
nước ngày hôm nay như đã trình bày ở trên. Chọn lựa này cũng dành cho những
người chấp nhận kết quả rút khỏi biển Đông của giàn khoan HD981 nhưng đảng CSVN
vẫn tiếp tục "sứ mạng" độc-tài để bán-nước và bán-nước để tiếp tục
độc-tài.
Chọn lựa thứ hai thuộc về những người xem việc
người dân Việt Nam có thể tự làm nên một cuộc cách mạng là vô vọng. Do đó họ
phải đánh cược số phận của đất nước vào niềm tin dành cho một người đang nằm
trong bộ máy độc tài, người mà: (1) từ trước đến giờ thành tích nói và không
bao giờ làm đã không thua bất kỳ ai; (2) sự nghiệp chính trị và vị trí lãnh đạo
bị lệ thuộc vào tập đoàn tay chân mà những mất mát về quyền lợi, cũng như phải
đối diện với những đe dọa nếu chống Tàu sẽ quay sang chống lại thủ lĩnh của họ;
(3) cá nhân vẫn nằm trong sự chi phối của một cơ chế tập thể lâu đời mà thành
phần thân Tàu đang chiếm đa số.
Chọn lựa thứ 3 là chọn lựa khó khăn nhất. Nếu 2
chọn lựa đầu chỉ phải chống ngoại xâm và được sự hỗ trợ hay ít ra được yên thân
bởi đảng độc tài thì chọn lựa thứ ba là phải chống nội xâm lẫn ngoại xâm. Chọn
lựa thứ ba này đối diện với nhiều phản biện:
- Lực lượng dân chủ còn quá yếu, sẽ bị tiêu diệt
từ trứng nước.
- Sẽ không được sự ủng hộ nồng nhiệt từ quần
chúng vì tâm lý sợ hãi lâu đời và họ đang có chọn lựa an toàn với cá nhân của
họ hơn. Đó là đứng cùng với đảng (chọn lựa 1), hay ủng hộ một lãnh đạo
"sáng giá" của đảng độc tài (chọn lựa 2).
- Đấu tranh chống độc tài bây giờ sẽ giúp cho Tàu cộng thêm cơ hội tràn qua xâm chiếm Việt Nam.
Hai điều ban đầu đã hiện hữu mà không cần phải chờ đến biến cố HD981 mới có. Nó cũng là thử thách của mọi đất nước bị độc tài cai trị cho đến ngày cách mạng thành công.
Điều thứ ba là ngụy biện của đảng và những người chọn lựa thái độ đồng lòng hay mong đợi ở đảng. Trên thực tế: Tàu cộng không cần xâm lăng VN. Tàu cộng không thể lấy một lý do gì để tràn qua chiếm trọn VN trong thời đại này. Và sự xâm lăng cho dù có đi nữa sẽ không có hiệu quả bằng sự chấp nhận ký kết sang nhượng chủ quyền của tập đoàn tay sai như đã trình bày ở trên. Xin đọc thêm bài "Trung cộng: không cần phải đánh Việt Nam chúng nó!!!???"
Tuy nhiên, khi độc tài chụp lấy cơ hội "kết hợp lòng dân" và những thành phần quan tâm đến vận mạng đất nước đi vào 3 ngả rẽ thì phong trào dân chủ phải đối diện với những thử thách mới, chồng chất lên những thử thách vốn đã có.
Làm thế nào để vượt qua?
Chúng ta cần phải nhìn lại toàn bộ những nỗ lực
vừa qua, lượng giá tình hình chủ quan và khách quan để từ đó có một hướng chiến
lược tổng thể phù hợp với tình hình mới đang rất là đen tối.
Đây cần là một nỗ lực chung của nhiều người và
xin hẹn các bạn trong một loạt bài kế tiếp.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment