Ngày 19 tháng 11 năm 2011
Dương Thị Phương Hằng và Đại Tá Vũ Lăng
Eastbay California
Hôm nay chúng tôi
đọc được rất nhiều bài viết rất Sai Lệch về chủ thuyết của Karl Marx khi cho
rằng đó là một chủ thuyết Duy Tâm, Duy Ác và Hoang tưởng của nhiều tác giả: Đỗ
Trọng ( Danlambao), Đinh Thạch Bích .....)
Hiện nay thế giới
đã trở nên toàn cầu hóa chúng tôi muốn khai triển đề tài Toàn Cầu Hóa, Thế Giới
Đại Đồng hay Chủ thuyết của Karl Marx: có sự khác biệt giữa ba cụm từ này hay
không?
Câu trả lời của
chúng tôi là Toàn Cầu Hóa, Thế Giới Đại Đồng hay Chủ thuyết của Karl Marx không
có gì khác biệt. Cách gọi tên cho ý tưởng trên có khác biệt nhưng ý nghĩa căn
bản của ba cụm từ trên chỉ là một. Chúng tôi xin chứng minh một cách rất cụ
thể.
Từ những ngày rất
xa xưa của những thập niên 1950-1960 chúng tôi đã học về triết thuyết của Karl
Marx trong ban Triết của chương trình Pháp và phải đọc hai quyển sách nổi tiếng
của Karl Marx là The Communist Manifesto (1848) và Das Capital (1867).
Trường học của chúng tôi là một trường Nữ có tên là Notre Dame du Langbiang của
các nữ tu công giáo dòng Chanoiness de Saint Augustin do Hoàng Hậu Nam Phương
mời sang Việt Nam để xây dựng ngôi trường đó tại Thị xã lâm Viên, Đà Lạt và lớp
học của chúng tôi chỉ có 30 học sinh cả Pháp lẫn Việt. Đa số các học sinh như
chúng tôi đều đã hiểu rất rành rọt khái niệm hay ý tưởng về “ class conflict
hay class struggle ” của Karl Marx mà mọi người cộng sản trên thế giới trong đó
có người cộng sản Việt Nam đã hiểu rất sai và dịch rất sai là Đấu Tranh Giai
Cấp theo nghĩa tiêu diệt giai cấp.
Theo cái nhìn của
Karl Marx về xã hội của ông thời bấy giờ thì mọi xã hội đều do con người tạo
dựng và luôn có hai giai cấp. Đó là giai cấp của những người giàu có, những chủ
nhân của những cơ sở tài chánh, tài nguyên đất đai, hệ thống hảng xưởng và máy
móc và giai cấp của những người thợ nghèo khổ luôn bị giai cấp chủ nhân bóc lột
do đó tất cả mọi cội rễ của những đau khổ mà xã hội loài người phải gánh
chịu nằm ngay trong sự tranh chấp không ngừng của những giai cấp đó trong xã
hội, giữa những người thợ nghèo khổ bị những người chủ giàu có bóc lột sức lao
động để sản xuất ra những sản phẩm cho những người chủ giàu có đó hưởng thụ.
Ông đã tin rằng sự thay đổi của xã hội là tất nhiên dưới hình thức một
cuộc nổi dậy của giai cấp thợ thuyền nghèo khổ bị trị và bị bóc lột nhằm lật đổ
giai cấp chủ nhân tham lam. Giai cấp nầy đã thống trị và nắm giữ hầu bao hay
đời sống kinh tế của những tầng lớp thợ thuyền nghèo khổ từ rất lâu đời, cả
hàng nghìn năm qua.
Như vậy, muốn
thay đổi xã hội thì giai cấp bị trị và bị bóc lột phải đứng lên làm một cuộc
cách mạng và cuộc cách mạng nầy sẽ phải đổ máu để phá tan xích xiềng nô lệ và
sẽ kiến tạo một xã hội không còn giai cấp có nghĩa là không còn những bóc lột.
Khi đó những người công dân sẽ làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu. (
People will work according to their abilities and receive goods and services
according to their needs. Marx and Engels 1848/1967 ). Chủ thuyết của Karl Marx
không giống như chủ thuyết của cộng sản. Mặc dù Karl Marx đã đề nghị một
cuộc cách mạng như là con đường giúp cho giai cấp thợ thuyền nghèo khổ dành lại
được quyền kiểm soát đời sống kinh tế của họ trong xã hội, nhưng ông không hề
kiến tạo hay phát triển một hệ thống chính trị gọi là chủ nghĩa cộng sản. Như
vậy, chủ nghĩa cộng sản là một hệ thống chính trị do Lenin thết lập dựa trên ý
tưởng đã bị bóp méo của Karl Marx. ( Marxism is not the same as communism.
Although Marx proposed revolution as the way for workers to gain control of society,
he did not develop the political system called communism. Vladimir Y. Lenin
applied communism from Marx ideas. The Esentials of Sociology - A Down to
Earth by James M. Henslin)
Tóm lại, mọi
người chỉ thích thảo luận, tranh luận về khái niệm hay ý tưởng Đấu Tranh Giai
Cấp dựa trên nhu cầu Kinh Tế của Karl Marx theo nghĩa sai lầm của họ là tiêu
diệt giai cấp mà không một ai chú trọng đến cái mục đích duy nhất trong triết
thuyết của Karl Marx là gì. Những người học trước chúng tôi cũng thế và những
người học sau chúng tôi cũng thế.
Chúng tôi thật sự
không hiểu tại sao người ta có thể bỏ qua cái mục đích duy nhất và tốt đẹp
trong triết thuyết của Karl Marx. Karl Marx viết rất nhiều về những bất công
trong xã hội Âu châu trong suốt chiều dài của thời Trung cổ cho tới cuối thế kỷ
XVIII. Mơ ước của Karl Marx là được sống trong một thế giới đại đồng hay trong
một xã hội mà trong đó không còn người bóc lột người và mỗi người khi trưởng
thành có thể làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu. Muốn đạt được mục đích
cao đẹp đó thì phải đấu tranh và Marx đã dương cao khẩu hiệu: Ở Đâu Có Áp Bức,
Ở Đó Có Vùng Dậy Đấu Tranh. Như vậy: đấu tranh là phương tiện và mục đích là
thế giới đại đồng. Trong ý niệm cũng như ý tưởng của Karl Marx thế giới đại
đồng có nghĩa là một thế giới mà trong đó chủ thuyết của Karl Marx phải được
phát huy một cách toàn diện và trọn vẹn, có nghĩa là phải san bằng mọi bất
công, mọi trấn lột, mọi ác tâm giữa người với người nói chung và giữa chủ với
thợ cũng như giữa vua quan với dân giả nói riêng bằng phương tiện đấu tranh.
Nói một cách nôm na là làm thế nào để có thể phân phối một cách công bằng tất
cả của cải cũng như tài sản của một quốc gia nhằm giải quyết những cách biệt
quá lớn giữa những giai cấp trong xã hội, giữa chủ, những người giàu có và thợ,
những người nghèo khổ.
Phải nhớ rằng
Karl Marx thuộc thành phần giàu có và trí thức của giai cấp trung lưu ở Nga,
cho nên ông mới có lòng thương xót đến những người nghèo khi nhìn thấy họ bị
giai cấp quý tộc bóc lột và áp bức. Trên thế giới lúc bấy giờ có rất nhiều
người tâm đắc với ý tưởng của Karl Marx và Hoa kỳ cũng đã áp dụng chủ
thuyết của Karl Marx và đã thành công. Nhưng cũng có những người đã mang ý
tưởng tốt đẹp của Karl Marx áp dụng vào tham vọng và mục tiêu bá quyền của họ.
Sau khi Karl Marx chết vào năm 1883, Quốc Tế Vô Sản ra đời và các đảng
Cộng Sản sinh sôi nẩy nở bằng cách cào bằng toàn diện và thế giới chia thành
hai khối đối đầu với nhau: khối dân chủ tự do theo Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ
và khối độc tài toàn trị theo Liên Bang Xô Viết. Cả hai khối cùng áp dụng triết
thuyết của Karl Marx và một cuộc cách mạng xã hội đã bắt đầu tại nhiều nơi trên
thế giới tùy thuộc vào tầm mức hiểu biết nông, sâu, thấu đáo hay không thấu đáo
của những người lãnh đạo về tư tưởng của Karl Marx.
Vào đầu thế kỷ 19
có rất nhiều triết gia có tư tưởng đã đưa ra nhiều học thuyết về xã hội xuất
hiện. Hai triết gia có chủ thuyết nổi tiếng mà chúng tôi thích nghiên cứu: Max
Weber và Karl Marx. Cả hai đều chú trọng vào một lãnh vực chính của xã
hội là đời sống của con người trong xã hội. Hai lãnh vực quan trọng nhất trong
đời sống của con người trong bất cứ xã hội nào cũng là tôn giáo và kinh tế.
Chúng tôi đã trình bày chủ thuyết của Karl Marx và bây giờ chúng tôi muốn triển
khai tư tưởng của Max Weber về nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản. Chính cái
nguồn gốc nầy đã thay đổi toàn diện bộ mặt của xã hội.
Max Weber ( 1864-1920) đã nghiên cứu về Thiên
Chúa Giáo La Mã hay còn được gọi là Công Giáo la Mã vào thời đó. Ông đã nhận
thấy những thay đổi của tôn giáo nầy đã sản sinh ra chủ nghĩa tư bản. Cũng như
Karl Marx tư tưởng của Weber là: chỉ có đời sống kinh tế mới thay
đổi xã hội. Như vậy, tại sao những thay đổi của Thiên Chúa giáo La Mã hay
còn được gọi là Công Giáo La Mã lại có thể sản sinh ra chủ nghĩa tư bản?
Theo ông Weber,
những thay đổi của Công Giáo La Mã bắt đầu từ những người công giáo chống đối
lại giáo hội của họ vào thế kỷ 16 . Người cầm đầu của nhóm chống đối nầy
là giáo sĩ Calvin ( 1509 -1564 ) lập ra một giáo hội mới và tự xưng là giáo hội
của nhóm Protestants tại Anh quốc mà người Việt đã dịch ra là giáo hội Tin
Lành. Theo tín lý của giáo hội Công giáo La Mã thì đời sống của con người ở
trần gian là tạm bợ và đời sống vĩnh cửu là nước trời hay còn được gọi là thiên
đàng. Cho nên tất cả mọi tín đồ Công giáo La Mã đều được răn dạy và
khuyên nhủ phải sống theo truyền thống của xã hội để được về nước trời,
có nghĩa là phải từ bỏ những của cải của thế gian để được vào nước trời. Trái
ngược với tín lý của Công Giáo La Mã, những tín đồ Protestants theo giáo sĩ
Calvin đều được dạy rằng họ phải đợi đến Ngày Phán Xét của Thiên Chúa mới biết
được là họ có được cứu rỗi hay không? Do đó mà họ cảm thấy hơi bất an trong đời
sống và bắt đầu đi tìm những dấu hiệu mà họ cho rằng đó là sự an bài của Thiên
chúa ( they were in God’s will ). Từ những ý tưởng đó, những tín đồ Tin lành đi
theo giáo sĩ Calvin đã kết luận như thế nào về sự an bài của Thiên chúa?
Những tín đồ nầy tin rằng sự thành công trên lãnh vực tài chính là ơn sủng của
Thiên chúa và như vậy Thiên chúa đã ở cùng với họ và cũng là dấu hiệu làm cho
tâm linh của họ được an lành. Những tín đồ nầy bắt đầu một đời sống cần kiệm,
để dành tiền bạc và tìm cách đầu tư những số tiền tiết kiệm đó với ý muốn làm
gia tăng số lãi trên những số tiền tiết kiệm đó nhiều hơn. Cuối cùng, kết quả
của giáo lý Tin Lành đã hình thành nên sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa nầy đã thay đổi toàn diện xã hội và đã tạo dựng lên những bất công
trong xã hội với hai giai cấp chủ nô, giàu nghèo, thống trị và bị trị.
Kết luận, theo
tín lý của những người Tin Lành thì những người nghèo khổ phải chấp nhận sự
nghèo khổ bởi vì họ không nhận được ân sủng của Thiên chúa và đã được Thiên
chúa an bài như thế. Theo tín lý của những người Công giáo La Mã thì muốn được
vào nước trời họ phải từ bỏ mọi của cải vật chất ở thế gian. Đó là nguyên nhân
mà Karl Marx đã kêu lên: tôn giáo là á phiện ru ngủ những người nghèo khổ để họ
không cảm thấy cần thiết phải đứng lên dành lấy quyền sống cho chính họ và con
cháu của họ. Tất cả mọi cái Tốt Xấu, Thiện Ác, Chân Giả đều do con người kiến
tạo ra cho nên muốn thay đổi xã hội thì trước nhất phải thay đổi con người bằng
sự giáo dục đúng đắn, khai sáng trí tuệ và tâm linh hướng tới Chân, Thiện, Mỹ
toàn diện. Chúng tôi xin chấm dứt bài viết # 1 nầy từ năm 2011 và trong bài
viết # 2 sắp tới chúng tôi sẽ triển khai thêm về thuyết tiến hóa
của Darwin trong tư tưởng về xã hội của những nhà xã hội học vào thế kỷ 19 mà
rất nhiều người đã hiểu rất sai lệch.
Duong Thi Phuong Hang 1476
__________________________
Chủ nghĩa Marx và thực tiễn
Posted on 16/11/2011

Đỗ Trọng (danlambao) - Đã một thời mỗi lần học
chính trị cánh bộ đội, đảng viên chúng tôi thường được nghe kể về “Liên Xô vĩ
đại là thành trì vững chắc của phe XHCN, bất khả xâm phạm. Với hàng triệu đảng
viên trung kiên, lực lượng quân sự hùng mạnh bách chiến bách thắng, lại có vũ
khí tối tân chỉ cần ấn nút tên lửa đạn đạo của Liên Xô có thể chui vào cửa sổ
của tòa nhà trắng… Với ba dòng thác cách mạng như vũ bão, phong trào cách mạng
trên thế giới đã trở thành xu thế tất yếu không thể đảo ngược”, “tư bản giãy
chết” là cái chắc. Rồi “Ai thắng ai” đầy thách thức. Trong lòng cứ thấy lâng
lâng khó tả, ngỡ bọn đế quốc và bè lũ sắp tới ngày cáo chung, chẳng mấy nữa chủ
nghĩa Marx – Lenin sẽ ngự trị trên toàn thế giới.
Qua chiến tranh sang hòa bình, mọi người lại
được phổ biến: khó khăn chỉ tạm thời, đế quốc Mỹ hung hãn thế ta còn đánh
thắng. Nay độc lập rồi, lịch sử đã sang trang, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và
tài tình của đảng quyết tâm “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”,
với mấy chục triệu nhân dân cần cù và thông minh, có rừng vàng biển bạc, lại
được Liên Xô và các nước XHCN anh em giúp đỡ, v.v... kinh tế nước nhà hồi phục
mấy chốc. Tương lai đầy hứa hẹn, trên trái đất này dễ nước nào sánh kịp, Việt
Nam sẽ là tấm gương cho cả thế giới noi theo!
Ôi sướng thật, các cụ xưa có sống lại chắc không
thể tưởng tượng nổi!

Ở nông thôn, từ các tổ đổi công hợp nhất lại
thành hợp tác xã nông nghiệp. Lúc đầu mỗi thôn một HTX là cấp thấp, một công
lao động mười điểm còn được một ki lô gam thóc, đến khi cả xã nhập lại gọi là
HTX cấp cao mỗi công vẻn vẹn chỉ còn hai đến ba trăm gam thóc lép. Kẻng đi làm,
kẻng nghỉ làm, kẻng chia thóc, kẻng đi họp, kẻng cháy nhà, kẻng hộ đê, v.v...
sớm tối tiếng kẻng vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm. Mỗi xã có ba ông: Bí thư,
Chủ tịch, Chủ nhiệm HTX quyền hành ngang ngửa. Trâu chết đói hoặc chết rét
người lo thiếu sức kéo thì ít, người mừng có thịt trâu ăn thì nhiều. Không có
trâu mọi người càng có thêm việc đi cuốc ruộng để lấy điểm. Không có phân, lấy
bèo tây ủ bón ruộng. Vì nghị quyết, để lấy thành tích cây lúa phải đèo thêm hạt
giả, năng suất ảo nhưng thóc đem nộp thuế và phải bán cho nhà nước là thật. Kẻ
làm ra lúa mà suốt đời thiếu ăn. Làng xóm tiêu điều, không mấy đứa trẻ không
suy dinh dưỡng, người lớn hốc hác, quần áo vá chằng vá đụp.
Cán bộ vất va vất vưởng, chạy đôn chạy đáo kiếm
việc làm thêm từ cuốn thuốc lá, làm pháo, đan len thuê, nuôi lợn, nuôi gà công
nghiệp, v.v... để “tự cứu mình”. Công nhân không tìm cách ăn cắp vật tư bán thì
cũng trốn việc hoặc xin nghỉ không lương để đi làm ngoài. Chưa hết, suốt ngày
còn phải tính chuyện lo xếp sổ mua hàng. Cha chết không lo bằng mất sổ gạo. Gạo
sổ đã mọt lại ẩm, rồi cũng không đủ bán, phải thay bằng ngô, khoai, hạt bo bo.
Tiêu chuẩn thịt được thay bằng đậu phụ, mắm tôm hoặc có nơi quy ra phân đạm.
Giá cả tăng chóng mặt. Người bệnh không có thuốc bị chết oan là chuyện thường
tình. Trong giao dịch người ta đã xem việc phải lo lót là lẽ đương nhiên, dây
thần kinh xấu hổ cứ thế bị tê liệt đến giờ.
Mấy chục năm ngày một khốn khó, con đường tươi
sáng phía trước chẳng thấy đâu, mỗi lúc mờ mịt dần!

Vào các năm 1989, 1990 đối lập với khối quân sự
Vacxava hùng mạnh gồm Liên Xô và các nước XHCN đông Âu là khối quân sự Bắc Đại
Tây Dương. Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương chẳng tốn một viên đạn, một người tử
trận mà như dây chuyền Domino toàn phe XHCN lần lượt tan rã, chế độ XHCN ở Liên
Xô và hàng loạt các nước khác xụp đổ tan tành. Đến lúc ấy mọi người mới vỡ lẽ
ra tất cả những điều tuyên truyền xưa nay như trên chỉ là giả dối; bấy nhiêu
năm, bao thế hệ, cả dân tộc này đã bị lừa bịp. Các nhà chính trị đáng kính câm
bặt, chẳng còn mặt mũi nào mà nhắc lại cái “thành trì vững chắc” rồi “xu thế
tất yếu không thể đảo ngược”, thật tội nghiệp, thực ra nhiều người chỉ là những
kẻ bán phổi mưu sinh, họ đâu có khác gì con vẹt!
Trong bốn nước XHCN còn lại, Trung Quốc vốn đã
xây dựng XHCN theo màu sắc riêng của họ lâu rồi, Việt Nam nay chỉ còn cái tên
XHCN thôi, Bắc Triều Tiên đã trở thành một xã hội độc tài quái gở, còn Cu Ba
cũng đang di căn biến tướng theo kiểu Việt Nam. Trên hội trường đại hội đảng
của các nước này cũng dần dần vắng bóng ông tổ của mình là Karl Marx, Angels và
Lenin. Tóm lại chủ nghĩa tư bản chưa “giãy chết” mà ngược lại vẫn tỉnh queo,
khỏe như vâm; còn khối cộng sản nay như những kẻ lập dị, mạnh ai nấy lo, thoi
thóp như kẻ đang bị ung thư chỉ đợi ngày tận số!
Từ ngày có Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, kể cả
triết gia nổi tiếng Trần Đức Thảo hỏi mấy ai đã đọc hết 53 quyển của Karl Marx,
mà đọc để làm gì, có chăng chỉ là tuyển tập hoặc khi cần thì “tầm chương, trích
cú” vài câu cần thiết cho oai, nó đã trở thành cái mốt của những kẻ cơ hội.
Gần đây nhiều nhân sĩ trí thức trong và ngoài
nước như Đại tá Tân Tử Lăng nguyên là Nhà nghiên cứu, giảng viên Học viện Quân
sự cấp cao Bắc Kinh, Trung Quốc viết trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công
tội”, Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ viết trong “Thư gửi người con trai út”, Nhà văn Đại
tá Phạm Đình Trọng trong “Thưa chuyện với công cụ bạo lực chuyên chính vô sản”,
Nhà phê bình văn học, nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết trong bài “Karl Marx ông là ai
mà đày đọa dân tộc tôi mãi thế?”v.v... đó là những sĩ quan trung cao cấp của
đảng cộng sản, từng trải nghiệm trong chiến tranh… giữa thuở lý luận đã được
kiểm chứng một cách thấu đáo, khi viết những tác phẩm này họ đều trên sáu mươi
tuổi, đủ chín chứ không phải mới hai bẩy, hai tám tuổi như Marx - Angels xây
dựng lên một học thuyết mà trong đó chứa đầy những yếu tố phản khoa học.
Thực tiễn đã được minh chứng, khi cao trào của
những kẻ bần cùng bị lợi dụng hùa nhau đi phá phách đã hết người ta mới nhận
thấy chủ nghĩa Marx không phải như những điều đã được tuyên truyền, cụ thể như
sau:
1) Chủ nghĩa Marx là sản phẩm của người Đức
nhưng người Đức không dùng:
Sau Do Thái, người Đức được coi là những tộc
người thông minh nhất. Bản thân hai ông Marx và Angels đều là người Đức. Nếu
chủ nghĩa Marx là ưu việt thì trước tiên chính dân tộc Đức và những nước phát
triển khác đã nhanh chóng áp dụng thành tựu ấy, đâu đến lượt vài nước chậm phát
triển, chưa hội đủ điều kiện để thực hiện như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều
Tiên và Cu Ba (đó là chưa nói chính bốn nước này đâu có làm đúng như Marx). Rõ
ràng chủ nghĩa Marx có vấn đề, hay nói cách khác chủ nghĩa Marx cũng chỉ là một
học thuyết và cũng chẳng tốt đẹp gì.
2) Chủ nghĩa Marx – Lenin là phản khoa học, lừa
bịp và là cái nôi của chế độ độc tài:
- Trong nhiều thập kỷ qua, tại các trường lý
luận cũng như các trường đại học người ta thường truyền đạt cho nhau là: “Lí
luận chủ nghĩa Marx – Lenin là một môn khoa học…” Nhưng thuộc tính của khoa học
là phải được phản biện, tranh luận, mổ xẻ trong khi môn học này không bao giờ
được phản biện. Cho nên không thể coi lí luận chủ nghĩa Marx – Lenin là một môn
khoa học. Chỉ có kinh thánh mới không có phản biện mà thôi.
- Biết trí thức hay hoài nghi, Marx đã chọn thợ
thuyền vừa đông, trình độ học vấn thấp, cả tin dễ bị kích động để tuyên truyền
cho học thuyết của mình. Với khẩu hiệu “nếu mất chỉ mất xiềng xích còn được sẽ
được tất cả” nên sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng”, cứ động viên nhau
thí thân... khiến kẻ thù nào cũng phải chùn tay.
Hệ quả của sự hoang tưởng này là hàng chục triệu
đồng chí của họ và những người dân vô tội ở Liên Xô cũ, Trung Quốc và một số
nước trong khối cộng sản trước đây bị giết oan hoặc bị đọa đày, chết một cách
thê thảm!
- Theo Marx “chính trị là thủ đoạn”, còn thủ
đoạn là tốt hay xấu thì chưa biết nhưng đảng cộng sản nào cũng có Bộ chính trị
để thực hiện sứ mệnh như Marx nói. Hệ quả tại những nước cộng sản này là tình
trạng cha truyền con nối như Bắc Triều Tiên, anh nhường ngôi cho em như Cu Ba
hoặc đóng kịch dân chủ, biến trung ương như sân chơi riêng của mình, tự dàn xếp
trong nội bộ, phe cánh để bảo vệ ngôi báu, quyền lợi của mình. Quyền lực thuộc
về đảng, đâu có thuộc về nhân dân, ngỡ được giải phóng ai ngờ người dân lại bị
mất nước ngay trên tổ quốc của mình!
3) Chủ nghĩa Marx chưa có trong thực tế:
Sinh thời nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng
nói: Trong các đảng cộng sản anh em, đảng nào cũng tự cho mình đi đúng đường
lối chủ nghĩa Marx. Thế rồi chính các đảng cộng sản ấy lại chống nhau. Vậy chủ
nghĩa Marx đích thực như thế nào? Không ai dám khẳng định. Rõ ràng chưa có đảng
cộng sản nào tiếp cận đúng đường lối của chủ nghĩa Marx.
4) Chủ nghĩa Marx chỉ là một sự hoang tưởng:
Trong công nghiệp, dù máy móc có hoàn hảo, hiện
đại mấy cũng có sản phẩm không đạt chất lượng. Có sản phẩm còn dùng tạm, có cái
phải sửa chữa thêm mới dùng được, có cái phải vứt bỏ. Huống hồ con người lại là
sản phẩm của tự nhiên. Khuyết tật về thể xác nhiều khi khoa học còn phải bó
tay, khuyết tật về tư duy cũng vậy. Tuyệt đối hóa là phản lô gích. Những kẻ
chưa hoàn hảo đâu cứ dạy dỗ, giáo dục thêm là được, có kẻ phải cưỡng bức, thậm
chí phải loại bỏ khỏi cộng đồng, đó là một thực tế.
Vậy mà theo Marx khi xã hội loài người phát
triển đến tột đỉnh là chủ nghĩa cộng sản, lúc ấy tất cả mọi người dù lười biếng
hay chăm chỉ, đần độn hay thông minh đều được hưởng thụ như nhau; không còn đấu
tranh giữa các mặt đối lập..v..v. Toàn thế giới sẽ không còn nhà nước (có nghĩa
không còn chính quyền) và đương nhiên không còn nhà tù nữa… Quả là một bánh vẽ
tuyệt vời, ngỡ như ta đã nghe thấy đâu đó trong kinh thánh.
Tóm lại Chủ nghĩa Marx là duy tâm chứ không phải
duy vật, rất phản khoa học và cũng chính học thuyết này đã để lại cho nhân loại
một thế kỷ đầy tai họa!
Sài Gòn, 10/2011

Đỗ Trọng (danlambao)
danlambaovn.blogspot.com
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment