Thứ
năm, 27/3/2014 | 17:18 GMT+7
Cuộc đấu trí giữa Putin và ba đời tổng thống Mỹ.
Năm 2013 thành công của Tổng thống PutinTrong suốt 15 năm qua, Tổng
thống Vladimir Putin là ẩn số làm đau đầu ba thế hệ tổng thống Mỹ. Họ định xây
dựng mối quan hệ với cựu đại tá tình báo KGB theo cách của Washington, nhưng
thực tiễn không như mong muốn.
Tổng thống Bill
Clinton coi Putin là một người lạnh lùng và đáng ngại, nhưng dự đoán ông sẽ trở
thành một lãnh đạo cứng rắn, tài năng. Còn tổng thống George W. Bush muốn
làm bạn và đối tác với Putin trong vấn đề chống khủng bố, nhưng cuối cùng vỡ
mộng.
Tổng thống Barack
Obama nỗ lực cải thiện quan hệ với Điện Kremlin, bằng cách xây dựng quan hệ với
các nhà lãnh đạo Nga khác. Chiến lược này từng có tác dụng trong một thời gian,
nhưng quan hệ Mỹ-Nga dần xấu đi và đang xuống đáy kể từ sau Chiến tranh Lạnh.
Với các phương thức
khác nhau, ba đời tổng thống Mỹ đều nỗ lực xây dựng mối quan hệ mới, có ý nghĩa
lịch sử với Nga. Nhưng đến cuối cùng họ đều phát hiện ra rằng những cố gắng đều
khó thành trước Putin, một cao thủ võ thuật đồng thời là cựu đại tá tình báo
KGB.
Họ hoặc là hình dung
Putin thành một con người hoàn toàn khác, hoặc là tự cho rằng có thể điều khiển
một con người vốn không bao giờ chịu bị khống chế. Họ quan sát Putin bằng lăng
kính của mình, cho rằng ông sẽ tính toán lợi ích của Nga theo giả định của họ.
Và cả ba người đều đánh giá thấp sự bất mãn của tổng thống Nga.
|
Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton
(trái) và Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Moscow tháng 4/2000. Ảnh: AFP
|
Washington hiện nay
dường như không còn chút ảo tưởng gì về Putin nữa, đặc biệt sau sự kiện Crimea
sáp nhập vào Nga dẫn đến hàng loạt quyết định trừng phạt của Mỹ và châu Âu.
Theo nhiều chuyên gia, câu hỏi hiện nay không còn là Mỹ với Nga cần hợp tác như
thế nào, mà là hai bên sẽ đối đầu ra sao.
"Ông ấy đã tuyên
bố rõ lập trường. Đây là con người mà chúng tôi cần đối phó, không thể hy vọng
vấn đề tự biến mất được", New York Times dẫn lời ông Tom
Donilon, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Obama.
Theo nhận định của các
trợ lý ba đời tổng thống Mỹ, các ông chủ Nhà Trắng không hề ngây thơ mà không
nhận ra được con người thực của Putin, nhưng họ lại cho rằng xây dựng một mối
quan hệ tốt hơn nữa là giải pháp duy nhất. Và có lẽ chính những chính sách của
phương Tây đã khiến ông chủ Điện Kremlin bất mãn, ví dụ như việc Tổ chức Hiệp
ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) không ngừng mở rộng ra phía đông, chiến tranh Iraq
hay chiến tranh Libya.
"Ông ấy đi ngủ
với suy nghĩ của Peter Đại đế và thức giấc với tư duy của Stalin. Chúng ta cần
phải hiểu rõ ông ấy là ai, muốn gì. Điều này có lẽ sẽ không giống với những gì
chúng ta tưởng tượng trong thế kỷ 21", Nghị sĩ Mike Rogers, chủ tịch
Ủy ban tình báo của Hạ viện Mỹ, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với đài NBC.
Ông Clinton là tổng
thống Mỹ đầu tiên đối mặt với Putin, mặc dù thời gian cùng tại nhiệm của hai
người không nhiều. Phần lớn thời gian trong hai nhiệm kỳ của Clinton, ông xây
dựng được mối quan hệ ổn định với cố tổng thống Boris Yeltsin. Năm 1999, Putin
được chỉ định làm thủ tướng và sau đó trở thành tổng thống trong đêm giao thừa
sau khi người tiền nhiệm từ chức.
"Tôi ra khỏi cuộc
họp và tin rằng Yeltsin đã lựa chọn một người kế nhiệm có năng lực và mẫn cán,
có thể ứng phó tốt hơn ông ấy trước tình hình kinh tế, chính trị bất ổn của Nga
lúc đó. Hơn nữa, tình hình sức khỏe của Yeltsin thời điểm đó cũng không
được tốt", tổng thống Clinton viết trong hồi ký của mình.
Sau khi Putin chiến
thắng trong cuộc bầu cử tổng thống hồi tháng 3/2000, Clinton đã gọi điện chúc
mừng. "Sau khi gác máy, tôi nghĩ ông ấy đủ cứng rắn để đoàn kết nước
Nga", cựu tổng thống Mỹ viết.
Nhưng Clinton cũng có
những lo lắng về sự cứng rắn đó, khi ông chủ mới của Điện Kremlin chỉ huy cuộc
chiến chống ly khai ở nước cộng hòa Chechnya. Clinton từng thúc giục
Yeltsin chú ý đến người kế nhiệm, và cảm thấy bị gạt sang lề khi Putin dường
như thờ ơ trong việc hợp tác với một tổng thống Mỹ sắp mãn nhiệm.
Tuy nhiên, đó là thời
điểm Putin tăng tốc quá trình cải tổ hệ thống thuế, đất đai và luật pháp Nga.
Theo đánh giá của ông Strobe Talbott, thứ trưởng Ngoại giao thời Clinton, Putin
"đủ trẻ, đủ khéo léo và đủ thực tế để hiểu rằng, nước Nga đang diễn ra quá
trình dịch chuyển cần thiết mà ông ấy cần phải thúc đẩy nó".
|
Putin và cựu tổng thống George
W. Bush tại Slovenia, tháng 6/2001. Ảnh: AFP
|
Tổng thống Bush nhậm
chức với sự hoài nghi về Putin và từng gọi người đồng cấp là "kẻ lạnh
lùng". Nhưng sau cuộc hội đàm tại Slovenia tháng 6/2001, Bush lại
phát biểu rằng: "Khi tôi nhìn vào mắt ông ấy, tôi thấy cả tâm hồn của
ông". Putin đã tạo sự kết nối với Bush, một con chiên thành kính, thông
qua câu chuyện về đức tin của chính bản thân mình.
Tuy nhiên, không phải
ai trong chính phủ Mỹ cũng bị câu chuyện trên làm cảm động. Cựu phó tổng thống Dick
Cheney cho biết mỗi lần nhìn thấy Putin, trong đầu ông chỉ nghĩ đến KGB. Nhưng
tổng thống Bush đã quyết xóa nhòa hố ngăn lịch sử và lấy lòng Putin khi ông
thăm trại Davis cùng trang trại của gia tộc Bush ở Texas.
Tổng thống Putin
thường nói về việc ông là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên gọi cho người đồng cấp
Mỹ sau khi vụ khủng bố 11/9 xảy ra. Và ông cũng là người
mở một hành lang cho lực lượng hậu cần của quân đội Mỹ vào Afghanistan chống
khủng bố.
Nhưng ông chủ Điện
Kremlin không cảm thấy sự báo đáp từ đối tác trong Nhà Trắng. Quan hệ giữa hai
người trở nên căng thẳng bởi cuộc chiến Iraq và thái độ can thiệp của
Washington trước tình hình chính trị trong nước Nga. Đến nhiệm kỳ thứ hai của
Bush, hai nhà lãnh đạo tranh cãi không thôi về chế độ chính trị của Nga. Trong
hội nghị tại Slovakia năm 2005, căng thẳng đạt đến đỉnh
điểm.
"Chẳng khác nào một
cuộc biện luận thời trung học", tổng thống Bush phàn nàn với cựu thủ tướng
Anh Tony Blair. Một năm sau, sự thất vọng của Bush về Putin càng gia
tăng hơn nữa. "Tôi nghĩ chúng ta đã không còn kiểm soát được ông
ấy", Bush nói với một nhà lãnh đạo nước ngoài về Putin.
Tuy nhiên, Bush không
muốn từ bỏ, bất chấp việc các quan chức xung quanh ông không còn thấy cơ hội.
Sau cuộc hội đàm đầu tiên với Tổng thống Putin, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó
là Robert Gates đã nói với đồng nghiệp rằng: "Tôi nhìn thẳng vào mắt
Putin và đúng như những gì tôi từng dự đoán, ông ấy lạnh lùng như đá".
Năm 2008, Bush thúc
đẩy việc kết nạp Ukraine và Gruzia vào NATO, động thái gây chia rẽ trong nội bộ
khối và khiến cho Putin tức giận. Tháng 8, khi hai nhà lãnh đạo đang tới dự
Olympic Bắc Kinh, chiến sự tại Gruzia nổ ra.
Trong hồi ký, Bush nhớ
lại cuộc đối đầu với Putin. "Tôi đã cảnh báo ông là Saakashvili (tổng
thống Grudia khi đó) máu nóng mà", Bush nói.
"Tôi cũng máu
nóng", Putin đáp.
"Không, ông là
người máu lạnh", Bush trả lời.
Washington đáp trả
bằng cách gửi viện trợ nhân đạo cho Gruzia, điều một tàu chiến tới khu vực và
ngừng thoả thuận hạt nhân dân sự với Nga. Bush cũng lo
rằng Crimea sẽ là mục tiêu tiếp theo, nhưng cuối cùng đã thành công trong việc
ngăn cản Nga sáp nhập Gruzia.
Trước tình hình cuộc khủng
hoảng tài chính nổ ra và việc ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ, chính
quyền Bush đã không áp dụng các lệnh trừng phạt kinh tế với Nga như việc chính
phủ Obama đang làm hiện nay.
"Chúng
tôi và các nước châu Âu bị đẩy vào mối quan hệ tồi tệ vào
cuối 2008", ông Stephen Hadley, cố vấn an ninh quốc gia của tổng
thống Bush cho biết. "Chúng tôi khi đó muốn hy vọng gửi đi một thông
điệp rằng, điều này là không thể chấp nhận được về mặt chiến lược. Nay nghĩ lại
chúng tôi có lẽ nên làm nhiều hơn, ví dụ như trừng phạt kinh tế".
|
Tổng thống Obama chưa từng xây
dựng được mối quan hệ hợp tác tin tưởng lẫn nhau với người đồng cấp
Nga Putin. Ảnh: AFP
|
Ngay sau khi nhậm
chức, Tổng thống Obama đã thay đổi chiến lược của người
tiền nhiệm, coi việc khôi phục quan hệ với Moscow là trọng tâm ngoại giao trong
những ngày đầu làm chủ Nhà Trắng. Sách lược của Obama là bước qua Putin, nỗ lực
gây dựng quan hệ với các lãnh đạo khác của Nga.
Tổng thống Putin đã
tuân thủ Hiến pháp Nga, rời khỏi vị trí chủ nhân của Điện Kremlin sau khi kết
thúc hai nhiệm kỳ. Ông chuyển giao quyền lực cho Dmitry Medvedev, còn bản thân
mình đảm nhiệm vai trò thủ tướng. Trước sự kiện trên, Tổng thống Obama quyết
định coi Medvedev như nhà lãnh đạo thực sự của Nga. Trước chuyến công du
đầu tiên tới Moscow, ông còn công khai tán dương Medvedev như một nhà lãnh đạo
thế hệ mới.
Không ít người nghi
ngờ chiến lược này của Obama, bao gồm cựu bộ trưởng Quốc phòng Gates
và cựu ngoại trưởng Hillary Clinton. Nhưng cả hai người đều
thống nhất rằng chiến lược này đáng để thử. Hillary mang đến cho người đồng cấp
Nga một món quà là chiếc nút bấm in chữ "tái khởi động".
Tuy nhiên, quan hệ
Nga-Mỹ không diễn tiến như những điều ông Obama mong muốn. Bất chấp áp lực
ngoại giao của Washington, Moscow từ chối dẫn độ và cấp phép tị nạn cho cựu
nhân viên tình báo Edward Snowden. Trong vấn đề Syria, Nga cũng ba lần bỏ phiếu
phản đối dự thảo nghị quyết do Mỹ đi đầu, có nội dung cho phép Liên Hợp Quốc áp
đặt lệnh trừng phạt lên chính quyền Tổng thống Bashar al-Assad. Tổng thống
Putin cũng không chấp thuận Hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược (START
mới) do Tổng thống Obama ký duyệt.
Một số chuyên gia về
Nga cho rằng Tổng thống Obama không hiểu ông Putin đánh giá như thế nào về cuộc
biểu tình diễn ra tại thủ đô Kiev của Ukraine, cuộc biểu tình dẫn đến sự ra đi
của ông Viktor Yanukovych.
"Trong hoàn cảnh
Obama và Putin chưa xây dựng được mối quan hệ hữu hảo và tin cậy lẫn nhau, thì
khả năng giải quyết vấn đề thông qua tiếp xúc cấp cao gần như là không
thể", ông Andrew Weiss, phó chủ tịch Quỹ hòa bình quốc tế Carnegie,
nguyên cố vấn về vấn đề Nga của tổng thống Clinton, bình luận.
Obama từng nỗ lực giải
quyết khủng hoảng Ukraine, thông qua việc nhờ Thủ tướng Đức Angela Merkel,
người có quan hệ tốt với Putin, làm trung gian điều đình. Nhưng bà Merkel nói
riêng với tổng thống Mỹ rằng Tổng thống Putin "sống trong một thế giới
khác".
Câu chuyện đang diễn
ra tại Washington hiện nay xoay quanh câu hỏi: Tổng thống Putin không ngừng
thay đổi trong suốt 15 năm qua, hay chỉ là bởi cách nhìn thế giới của ông và
phương Tây không giống nhau.
Một số chuyên gia cho
rằng Obama và hai người tiền nhiệm chỉ nhìn thấy điều mà họ muốn nhìn thấy.
"Căn cứ theo quan niệm của phương Tây, Putin là một người theo chủ nghĩa
thực dụng, sẽ hợp tác nếu như lợi ích chung đủ lớn. Nhưng chúng ta đã bị cách
nghĩ này che mắt, bởi quên rằng mục đích của Putin là thay đổi trật tự thế giới
sau Chiến tranh Lạnh", Giáo sư James Goldgeier, trưởng khoa quan hệ quốc
tế thuộc đại học American, nhận định.
"Moscow đã mất đi
sức ảnh hưởng quan trọng trong trật tự thế giới sau Chiến tranh Lạnh, phải
chứng kiến cảnh phương Tây không ngừng mở rộng phạm vi ảnh hưởng.
|
Putin
và cựu tổng thống George W. Bush tại Slovenia,
tháng 6/2001. Ảnh: AFP
|
Tổng thống Bush nhậm chức với sự hoài nghi về Putin và từng gọi người đồng cấp là "kẻ lạnh lùng". Nhưng sau cuộc hội đàm tại Slovenia tháng
6/2001, Bush lại phát biểu rằng: "Khi tôi
nhìn vào mắt ông ấy, tôi thấy cả tâm hồn của ông". Putin
đã tạo sự kết nối với Bush, một con chiên thành
kính, thông qua câu chuyện về đức tin của chính bản thân mình.
Tuy nhiên, không phải ai trong chính
phủ Mỹ cũng bị câu chuyện trên làm cảm động. Cựu phó tổng thống Dick Cheney cho biết mỗi lần nhìn thấy Putin, trong đầu ông chỉ nghĩ đến KGB. Nhưng tổng thống Bush đã quyết xóa nhòa hố ngăn lịch sử và lấy lòng Putin khi
ông thăm trại Davis cùng trang trại của gia tộc Bush ở Texas.
Tổng thống Putin thường nói về việc ông là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên gọi cho người đồng cấp Mỹ sau khi vụ khủng bố 11/9 xảy ra. Và ông cũng là người mở một hành lang cho lực lượng hậu cần của quân đội Mỹ vào Afghanistan chống khủng bố.
Nhưng ông chủ Điện Kremlin không cảm thấy sự báo đáp từ đối tác trong Nhà Trắng. Quan hệ giữa hai người trở nên căng thẳng bởi cuộc chiến Iraq và thái độ can thiệp của Washington trước tình hình chính
trị trong nước Nga. Đến nhiệm kỳ thứ hai của Bush, hai nhà
lãnh đạo tranh cãi không thôi về chế độ chính trị của Nga. Trong hội nghị tại Slovakia năm 2005, căng thẳng đạt đến đỉnh điểm.
"Chẳng khác nào một cuộc biện luận thời trung học", tổng thống Bush phàn nàn
với cựu thủ tướng Anh Tony Blair. Một năm sau, sự thất vọng của Bush về Putin càng gia
tăng hơn nữa. "Tôi
nghĩ chúng ta đã không còn kiểm soát được ông ấy", Bush nói với một nhà lãnh đạo nước ngoài về Putin.
Tuy nhiên, Bush không muốn từ bỏ, bất chấp việc các quan chức xung quanh ông
không còn thấy cơ hội. Sau cuộc hội đàm đầu tiên với Tổng thống Putin, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó là Robert Gates đã nói với đồng nghiệp rằng: "Tôi
nhìn thẳng vào mắt Putin và đúng như những gì tôi từng dự đoán, ông ấy lạnh lùng như đá".
Năm 2008, Bush thúc đẩy việc kết nạp Ukraine và
Gruzia vào NATO, động thái gây chia rẽ trong nội bộ khối và khiến cho Putin tức giận. Tháng 8, khi
hai nhà lãnh đạo đang tới dự Olympic Bắc Kinh, chiến sự tại Gruzia nổ ra.
Trong hồi ký, Bush nhớ lại cuộc đối đầu với Putin. "Tôi
đã cảnh báo ông là Saakashvili (tổng thống Grudia khi đó)
máu nóng mà", Bush nói.
"Tôi cũng máu nóng", Putin đáp.
"Không, ông là người máu lạnh", Bush trả lời.
Washington đáp trả bằng cách gửi viện trợ nhân đạo cho Gruzia, điều một tàu chiến tới khu vực và ngừng thoả thuận hạt nhân dân sự với Nga. Bush cũng lo rằng Crimea sẽ là mục tiêu tiếp theo, nhưng cuối cùng đã thành
công trong việc ngăn cản Nga sáp nhập Gruzia.
Trước tình hình cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra và việc ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ, chính quyền Bush đã không
áp dụng các lệnh trừng phạt kinh tế với Nga như việc chính phủ Obama đang làm
hiện nay.
"Chúng
tôi và các nước châu Âu bị đẩy vào mối quan hệ tồi tệ vào cuối 2008", ông
Stephen Hadley, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Bush cho biết. "Chúng tôi khi đó muốn hy vọng gửi đi một thông điệp rằng, điều này là không thể chấp nhận được về mặt chiến lược. Nay nghĩ lại chúng tôi có lẽ nên làm nhiều hơn, ví dụ như trừng phạt kinh tế".
|
Tổng thống Obama chưa từng xây dựng được mối quan hệ hợp tác tin tưởng lẫn nhau với người đồng cấp Nga Putin. Ảnh: AFP
|
Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Obama đã thay
đổi chiến lược của người tiền nhiệm, coi việc khôi phục quan hệ với Moscow là trọng tâm ngoại giao trong những ngày đầu làm chủ Nhà Trắng. Sách lược của Obama là bước qua Putin, nỗ lực gây dựng quan hệ với các lãnh đạo khác của Nga.
Tổng thống Putin đã tuân thủ Hiến pháp Nga, rời khỏi vị trí chủ nhân của Điện Kremlin sau khi kết thúc hai nhiệm kỳ. Ông chuyển giao quyền lực cho Dmitry
Medvedev, còn bản thân mình đảm nhiệm vai trò thủ tướng. Trước sự kiện trên, Tổng thống Obama quyết định coi Medvedev như nhà lãnh đạo thực sự của Nga. Trước chuyến công du đầu tiên tới Moscow, ông còn
công khai tán dương Medvedev như một nhà lãnh đạo thế hệ mới.
Không ít người nghi ngờ chiến lược này của Obama, bao gồm cựu bộ trưởng Quốc phòng Gates và cựu ngoại trưởng Hillary Clinton. Nhưng cả hai người đều thống nhất rằng chiến lược này đáng để thử. Hillary mang đến cho người đồng cấp Nga một món quà là chiếc nút bấm in chữ "tái khởi động".
Tuy nhiên, quan hệ Nga-Mỹ không diễn tiến như những điều ông Obama mong muốn. Bất chấp áp lực ngoại giao của Washington,
Moscow từ chối dẫn độ và cấp phép tị nạn cho cựu nhân viên tình
báo Edward Snowden. Trong vấn đề Syria, Nga cũng ba
lần bỏ phiếu phản đối dự thảo nghị quyết do Mỹ đi đầu, có nội dung cho phép
Liên Hợp Quốc áp đặt lệnh trừng phạt lên chính quyền Tổng thống Bashar al-Assad.
Tổng thống Putin cũng không chấp thuận Hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược (START mới) do Tổng thống Obama ký duyệt.
Một số chuyên gia về Nga cho rằng Tổng thống Obama không hiểu ông Putin đánh
giá như thế nào về cuộc biểu tình diễn ra tại thủ đô Kiev của Ukraine, cuộc biểu tình dẫn đến sự ra đi của ông Viktor
Yanukovych.
"Trong hoàn cảnh Obama và Putin chưa xây dựng được mối quan hệ hữu hảo và tin cậy lẫn nhau, thì khả năng giải quyết vấn đề thông qua tiếp xúc cấp cao gần như là không thể", ông Andrew Weiss, phó chủ tịch Quỹ hòa bình quốc tế Carnegie, nguyên cố vấn về vấn đề Nga của tổng thống Clinton, bình luận.
Obama từng nỗ lực giải quyết khủng hoảng Ukraine, thông
qua việc nhờ Thủ tướng Đức Angela Merkel, người có quan hệ tốt với Putin, làm trung
gian điều đình. Nhưng bà Merkel nói riêng với tổng thống Mỹ rằng Tổng thống Putin "sống trong một thế giới khác".
Câu chuyện đang diễn ra tại Washington hiện nay xoay quanh
câu hỏi: Tổng thống Putin không ngừng thay đổi trong suốt 15 năm qua, hay
chỉ là bởi cách nhìn thế giới của ông và phương Tây không giống nhau.
Một số chuyên gia cho rằng Obama và hai người tiền nhiệm chỉ nhìn thấy điều mà họ muốn nhìn thấy. "Căn cứ theo quan niệm của phương Tây, Putin là một người theo chủ nghĩa thực dụng, sẽ hợp tác nếu như lợi ích chung đủ lớn. Nhưng chúng ta đã bị cách nghĩ này che
mắt, bởi quên rằng mục đích của Putin là thay đổi trật tự thế giới sau Chiến tranh Lạnh", Giáo sư James Goldgeier,
trưởng khoa quan hệ quốc tế thuộc đại học American, nhận định.
"Moscow đã mất đi sức ảnh hưởng quan trọng trong trật tự thế giới sau Chiến tranh Lạnh, phải chứng kiến cảnh phương Tây không ngừng mở rộng phạm vi ảnh hưởng.
"Phương Tây cho rằng ông ấy không lý trí, nhưng trên thực tế ông ấy rất lý trí theo logic
của riêng mình và chuẩn bị rất kỹ càng", ông Andrei Illarionov, cựu cố vấn của Tổng thống Putin, nói.
"Chính là phương Tây đã xa rời thực thế chứ không phải Putin"
Đức Dương (theo New York Times)"
Matxcơva đẩy
Ukraina rơi vào hỗn loạn
Những người thân Nga xung đột với cảnh sát Ukraina tại một tòa nhà
chính phủ ở Donetsk ngày 06/04/2014.
REUTERS/Stringer
Thụy My
Trong bối
cảnh tình hình giữa Ukraina và Nga đang căng thẳng hiện
nay, nhật báo Le Monde
trong bài xã luận
mang tựa đề « Matxcơva đẩy Ukraina rơi vào hỗn loạn » đã
nhận định : Kịch
bản quen thuộc một
cách tệ hại. Quen thuộc
đến cả những
chiếc nón trùm đầu che đi khuôn mặt của
những người vũ trang tấn
công vào các tòa nhà chính phủ
hôm thứ Hai 07/04/2014, tại ba thành phố
miền đông Ukraina.
Theo tờ báo, chưa đầy một tháng sau khi Nga
sáp nhập Crimée, châu Âu không còn có thể biện hộ là bị bất ngờ, trước việc những người ly khai thân Nga
tuyên bố thành lập « nước Cộng hòa Nhân dân
Donetsk » và loan báo một cuộc « trưng cầu dân ý » vào ngày
11/05/2014 về tương lai của khu vực.
Trong khi huy động đông đảo quân lính ở biên giới phía đông
Ukraina, Nga biện bạch là không muốn tràn vào các khu
vực Donbass, nơi tập trung thiểu số người nói tiếng Nga ở Ukraina. Có lẽ về điểm này thì Matxcơva nói thật.
Theo tờ báo, xâm lăng miền đông Ukraina, đối với Matxcơva, là một hoạt động quân sự và chính trị phức tạp hơn việc chiếm đóng Crimée nhiều. Dân cư ở đây không thuần nhất, người Nga sẽ gặp phải sự kháng cự thực sự của người Ukraina, và Nga
không có căn cứ quân sự nào tại đây. Tuy vậy, những dấu hiệu cho thấy các vụ manh động này do Nga xúi
giục là hiển nhiên, như Nhà Trắng cũng đã khẳng định. Vậy ông Vladimir
Putin muốn gì ?
Mục tiêu thực tế của ông ta ngày càng
rõ hơn. Điện Kremli không muốn thấy một nước Ukraina dân chủ và thân châu Âu
ngay sát nách của mình. Không muốn Ukraina thành
công, bởi vì như thế sẽ trở thành hình mẫu để nhìn vào mà áp dụng tại Nga. Để đảm bảo cho sự thất bại của Kiev, thì phải bắt đầu bằng việc ngăn trở cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 25/5 tới.
Đó là vì việc bầu tổng thống bằng phương thức phổ thông đầu phiếu sẽ là một giai đoạn chủ chốt trong việc hợp pháp hóa cuộc cách mạng ở Kiev, và sự ổn định tình hình chính
trị Ukraina. Còn nếu ngăn không được, thì ít nhất phải phá rối cho cuộc bầu cử không thể tiến hành suông sẻ, bằng cách gieo rắc hỗn loạn ở miền đông.
Một mục tiêu khác của Matxcơva, lần này thì được thú nhận, đó là việc biến Ukraina thành một liên bang. Yêu
sách này không thể chấp nhận được ! Hơn nữa, bản thân nước Nga vốn áp dụng một dạng thức liên bang tập trung hóa quyền lực một cách kỳ lạ, không có tư cách gì để đi dạy một bài học về quyền Hiến định, sự chọn lựa kiểu Nhà nước nào và quyết định về chủ quyền, mà chỉ có người Ukraina mới có thể định đoạt được.
Le Monde đặt câu hỏi vậy châu Âu muốn gì ? Và tự trả lời : Muốn xuất hiện ở phía đông Liên hiệp châu Âu một đất nước 45 triệu dân ổn định và dân chủ. Đối diện với những con người che mặt của tình báo Nga,
châu Âu phải hành động một cách quang minh
chính đại. Cần phải « đi đến » với Ukraina, có thật nhiều cuộc tiếp xúc, đưa sang những phái đoàn, những chuyến thăm của các dân biểu 28 nước châu Âu.
Bên cạnh đó là việc gởi hàng ngàn quan
sát viên đến Ukraina hôm 25/5 tới, cung cấp các chuyên gia
cho chính phủ Kiev về dự án tản quyền, thu hồi tiền bạc do bọn tham nhũng vơ vét đang gởi trong các ngân hàng,
hỗ trợ công việc của các nhà đấu tranh dân chủ trong xã hội dân sự. Tóm lại, là gióng lên điệu nhạc mới, thay vì để cho ầm vang tiếng những gót giày đinh.
NATO sẵn sàng đáp trả Nga
Cũng liên quan đến Ukraina, trên mục diễn đàn của báo Le Figaro,
bài viết của Tổng thư ký NATO, ông
Anders Fogh Rasmussen nhấn mạnh : « NATO sẵn sàng đáp trả Nga ». Ông cũng nhắc đến tầm quan trọng của mối liên hệ giữa các nền dân chủ tự do Bắc Mỹ và châu Âu.
Ông Rasmussen nhắc lại thời điểm 65 năm về trước cũng vào tháng Tư, Tổ chức Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đã ra đời trong một thế giới dày đặc hiểm nguy. Chiếc bóng của Liên Xô trải dài lên châu Âu,
và 12 quốc gia bên này và bên kia Đại Tây Dương đã quyết định cùng hợp tác để bảo vệ nền an ninh chung.
Theo với thời gian, bây giờ NATO bao gồm 28 quốc gia, bảo vệ 1 tỉ người và đóng góp vào sự ổn định của thế giới.
Nhưng theo ông, chúng
ta vẫn đang sống trong một thế giới nguy hiểm, với những rủi ro còn phức tạp và bất ngờ hơn 65 năm về trước. Một số nguy cơ là mới mẻ như hỏa tiễn và tấn công tin học, số khác xưa như Trái đất, chẳng hạn mưu toan dùng vũ lực vẽ lại đường biên giới. Điều không hề thay đổi là những cam kết của NATO về các giá trị và lý do tồn tại của mình – đoàn kết làm nên sức mạnh.
Sự đoàn kết này, theo ông
Rasmussen, rất rõ ràng trong câu trả lời trước vụ Nga tấn công bất hợp pháp vào Ukraina,
vi phạm luật pháp quốc tế. NATO đã tăng gấp đôi số phi cơ tiêm kích giám sát
không phận các nước vùng Ban-tích, tuần tiễu trên bầu trời Ba Lan và Rumani
với các máy bay radar Awacs, và các đồng minh cũng tăng cường sự hiện diện tại Hắc hải.
Tổng thư ký NATO cho biết sẵn sàng sử dụng những biện pháp bổ sung, kể cả cập nhật kế hoạch quốc phòng, tăng thêm
nhiều cuộc tập trận và huấn luyện. NATO đã tăng
thêm hỗ trợ cho Ukraina và các đối tác khác trong
khu vực, ngưng mọi hợp tác với Nga. Không có thành viên NATO nào
muốn quay lại với thời kỳ chiến tranh lạnh, nhưng khi thấy Nga muốn chia cắt châu Âu thành nhiều vùng ảnh hưởng thì không làm ngơ như không có chuyện gì xảy ra cả.
Ông Anders Fogh Rasmussen cho rằng, cuộc khủng hoảng hiện nay cho thấy vấn đề quốc phòng là quan trọng hơn bao giờ hết, và mỗi quốc gia thành viên cần phải đầu tư vào một cách thích ứng : thiết bị hiện đại, tăng cường huấn luyện và hợp tác. Theo ông,
tuy đây là một thử thách trong bối cảnh kinh tế hiện nay, nhưng nếu không đầu tư ngay từ bây giờ thì về lâu về dài, sẽ phải trả giá đắt hơn cho sự mất an ninh.
Tòa án Philippines công nhận luật ngừa thai
Nhìn sang châu Á, nhật báo công giáo La
Croix quan tâm đến việc Tòa án tối cao Philippines
công nhận đạo luật về việc miễn phí các biện pháp ngừa thai là hợp hiến. Giáo hội Công giáo
Philippines vốn chống lại đạo luật này, cam đoan sẽ tôn trọng quyết định của tòa án, mà theo tờ báo, đây cũng là một thắng lợi chính trị của Tổng thống Aquino.
Đạo luật này quy định miễn phí các phương tiện ngừa thai (báo cao su,
thuốc ngừa…) và giáo dục giới tính trong nhà trường. Luật buộc phải đào tạo các nhân viên xã
hội về kế hoạch hóa gia đình, hợp pháp hóa chăm sóc
y tế sau khi phá thai, trong lúc phá thai và ly dị vẫn đang bị cấm đoán tại Philippines.
Dân biểu Edcel Lagman, người chủ trương dự luật trên tỏ ý hoan nghênh : « Quyết định của tòa án khẳng định việc tách biệt Giáo hội với Nhà nước trong các vấn đề như y tế và phát triển kinh tế đi kèm với tiến bộ xã hội ». Phía giáo hội kêu gọi giáo dân tôn trọng quyết định trên, tuy vẫn nhấn mạnh « tiếp tục coi trọng tính chất thiêng liêng của sinh mạng con người ». Giáo hội Philippines vẫn « hướng về các khế ước xã hội, chống nghèo đói và
tham nhũng, tiếp tục hỗ trợ cho tiến trình hòa bình với phe nổi dậy Hồi giáo ở Mindanao ». Đối với giáo sư Melvin Castro, phụ trách Ủy ban gia đình Công
giáo Philippines, « cuộc chiến thật sự vượt lên trên đạo luật này, đó là làm thế nào chinh phục hoặc tái chinh phục trái tim của giới trẻ ».
Tại đất nước 100 triệu dân trong đó trên 80%
theo đạo Công giáo, Giáo hội đã chấp nhận rủi ro khi phản đối một dự luật được 72% người dân ủng hộ. Theo Régis
Anouil, tổng biên tập tờ Giáo hội châu Á, thì Giáo
hội Philippines muốn nói với Tổng thống Aquino là « không việc gì phải tuân phục chính sách gia
đình mà các chủ nợ như Ngân hàng Phát triển Á châu và Ngân
hàng Thế giới áp đặt. Tại Philippines, có
50 gia tộc nắm trong tay đến 80% của cải toàn xã hội (…). Giáo hội cho rằng sở dĩ đất nước nghèo khó, không
phải do tình trạng gia đình đông con, mà do
nguồn lực bị tập trung vào một thiểu số ».
Tân Thủ tướng Pháp Manuel
Valls trên con đường chinh phục niềm tin
Còn tại Pháp, tất cả các báo xuất bản tại Paris ngày hôm
nay đều chú ý đến bài diễn văn quan trọng của tân Thủ tướng Manuel Valls đọc trước Quốc hội chiều qua. Tờ La Croix chạy tựa trang nhất : « Manuel
Valls hứa hẹn hiệu quả ». Nhật báo kinh tế Les Echos quan tâm
đến một« Valls không cấm kỵ » - hàng tựa trang nhất, với tựa đề trang trong là « Manuel
Valls chủ trương hỗ trợ các doanh nghiệp ».
Tờ báo cánh hữu Le Figaro nhận xét đó là dấu ấn của « Ông
Hollande, nhưng theo cung cách của Valls ». Nhật báo cộng sản L’Humanité chạy tít trang nhất : « Nội các Valls : Các đại biểu đã bỏ phiếu tín nhiệm, nhưng sự ngờ vực vẫn tồn tại ». Tờ báo thiên tả Libération nhận định ở trang trong : « Manuel
Valls : Nói thẳng nói thật nhưng có chọn lọc ».
Trong bài xã luận mang tựa đề « Tìm lại lòng tin », La Croix nhìn nhận thử thách này là khó
khăn : làm thế nào khắc ghi dấu ấn khác biệt của mình nhưng tránh nói xấu ê-kíp tiền nhiệm cũng cùng cánh tả. Nói lên « sự thật » mà không có vẻ lên án ngôn ngữ sáo rỗng của người khác ; đào sâu những hướng đã được vạch ra đồng thời đưa ra những ý kiến độc đáo ; nêu lên
tình trạng thất nghiệp, bất bình đẳng và cả mất an ninh. Và thuyết phục được chính phe của mình, rằng tân Thủ tướng cũng là một chính khách phe tả ; thuyểt phục châu Âu là nước Pháp đang đi trên
một con đường đúng đắn.
Theo tờ báo, về hình thức thì ông Manuel
Valls đã thành công trong bài diễn văn đầu tiên trước Quốc hội : súc tích và
năng động. Ông không tránh né « hiệp ước trách nhiệm » vốn bị nhiều người đả kích, nhưng nhấn mạnh sự cần thiết giảm giá thành sản xuất. Valls loan báo
việc cải cách tổ chức hành chính địa phương, và đã gặt hái được những tràng pháo tay.
Có điều, tuy nói cụ thể về việc giảm nhẹ các khoản đóng góp của doanh nghiệp, nhưng Manuel Valls chưa vạch rõ được làm thế nào tiết kiệm được 50 tỉ euro như ông Hollande đã đề ra.
Trong màn xiếc thăng bằng này, Manuel
Valls nhìn nhận những vết rạn nứt trong xã hội Pháp hiện nay như về hôn nhân đồng giới, nhưng ông nhấn mạnh đây là lúc để đoàn kết lại. Ông nói về tình yêu nước Pháp của một người gốc Tây Ban Nha như ông, đến tuổi hai mươi mới nhập tịch và nay được quốc gia này giao phó cho trọng trách cao nhất trong chính phủ. Tóm lại : sự thực, hiệu quả và hòa giải là những từ khóa trong bài diễn văn của Thủ tướng mới nhậm chức, và La Croix cho
rằng người dân đang chờ đợi được biến thành hiện thực.
Khủng
hoảng Ukraina có thể buộc
Mỹ xét lại sự
hiện diện quân sự
ở Châu Âu
Tổng thống Barack Obama phát biểu về khủng hoảng Ukraina tại Nhà
Trắng, Washington, 17/03/2014.
REUTERS/Kevin Lamarque
Đức Tâm
Các hoạt
động quân sự của
Nga tại bán đảo Crimée có thể
dẫn đến việc
xem xét lại sự hiện
diện quân sự của
Hoa Kỳ ở Châu Âu. Đó là
tuyên bố của ông Derek Chollet,
phụ trách các vấn đề
an ninh quốc tế của
Bộ Quốc phòng Mỹ.
Phát biểu tại tiểu ban quân lực của Hạ viện, ngày hôm qua,
08/04/2014, ông Chollet cho rằng, « các hành động quân sự của Nga tại Châu Âu và vùng
Trung Á có thể dẫn đến việc Hoa Kỳ xem xét lại các lực lượng quân sự và nhu cầu của mình trong việc triển khai, tập trận và huấn luyện trong khu vực ». Tuy nhiên,
quan chức này nói rõ là Washington « không tìm cách đối đầu » với Matxcơva.
Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Châu Âu đã giảm mạnh từ hai thập niên qua. Hiện nay, có 67 000
binh sĩ Mỹ đồn trú ở Châu Âu, chủ yếu tại Đức, với 40 000 quân, ở Ý có 11 000 và Anh
là 9500. Vào cuối năm 1991, khi Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ có tới 285 000 quân tại châu lục này.
Đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ không cho biết việc xem xét lại kế hoạch triển khai lực lượng quân sự ở Châu Âu sẽ ra sao, nhưng hiện nay, Washington
đang phải đối mặt với các cắt giảm mạnh về ngân sách quốc phòng, cùng lúc
phải tái bố trí một phần lực lượng sang khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương, trong khuôn khổ chiến lược « xoay trục » sang khu vực này, được coi là nền tảng trong chính sách
đối ngoại của Tổng thống Barack Obama.
Sau khi tố cáo Nga can thiệp quân sự bất hợp pháp vào Ukraina,
ông Chollet nhận định rằng hành động của Matxcơva đã làm thay đổi « cảnh quan an ninh tại Châu Âu » và gây ra mất ổn định trong khu vực biên giới của Liên minh Bắc Đại Tây Dương – NATO.
Để trấn an các nước Đông Âu, thành
viên NATO, Hoa Kỳ đã cho triển khai thêm 6 máy bay tiêm kích ném
bom F-15 tại các nước Bal-tic, điều 12 máy bay F-16 và 3 máy
bay vận tải sang Ba Lan. Trong những ngày tới, khu trục hạm phóng tên lửa USS Donald Cook sẽ có mặt tại biển Đen.
Đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ cảnh báo, việc những người biểu tình thân Nga chiếm giữ các trụ sở chính quyền Donetsk và
Kharkov, ở miền đông Ukraina, « rất đáng quan ngại » và đây không phải là những cuộc biểu tình tự phát. Hành động của Nga tại miền đông Ukraina « rõ ràng
là một sự leo thang rất nghiêm trọng ». Thế nhưng, áp lực của Matxcơva không dừng lại tại Ukraina và có tác
động đến các lãnh thổ lân cận : Quân đội Nga có mặt tại Moldova. Lực lượng này, về lý thuyết đảm trách duy trì hòa
bình, sẽ ủng hộ vùng Transnistria ly
khai.
Hoa Kỳ lo ngại về tình hình an ninh
tại Châu Âu trong bối cảnh Liên minh Bắc Đại Tây Dương tỏ ra bất lực và kém hiệu quả. Hôm qua, sau cuộc gặp với Tổng thống Pháp François
Hollande, tại Paris, Tổng thư ký NATO, ông
Anders Fogh Rasmussen cho biết : « Chúng tôi không thảo luận giải pháp quân sự, nhưng nếu Nga tiếp tục can thiệp vào Ukraina, tôi
dự tính là các trừng phạt kinh tế sẽ được đưa ra nhắm vào Matxcơva ».
Cuộc khủng hoảng Ukraina buộc Liên minh phải thúc đẩy nhanh cải cách, tích cực chuẩn bị cho kế hoạch phòng thủ chung trong tương lai, cụ thể là khả năng phối hợp tác chiến tốt hơn giữa quân đội của 28 thành viên và
củng cố khả năng hợp tác trong lĩnh vực tình báo, phòng
thủ tên lửa, kiểm soát không phận và vận tải hàng không. Tổng thư ký NATO cũng hối thúc các thành
viên gia tăng sách quốc phòng, để duy trì bộ máy quân sự có hiệu quả. Thế nhưng, cuối cùng, lãnh đạo NATO vẫn đưa ra kết luận thể hiện sự trông cậy của Liên minh vào Hoa
Kỳ : Căng thẳng với Nga cho thấy cam kết rất rõ ràng của Mỹ đối với an ninh tại Châu Âu.
Trong thời gian qua, tại Mỹ, có nhiều tiếng nói kêu gọi chính quyền Obama chú trọng hơn đến việc bảo đảm an ninh cho Châu
Âu, đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment