Thư số
68a gởi: Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
Phạm
Bá Hoa
Tôi chào đời năm 1930, vào quân lực Việt Nam Cộng Hòa
năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra.
Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi
nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo Việt Cộng với
lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại
cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc
Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền
vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các
Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ
Quốc và Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam
cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Xin gọi chung Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam là
Các Anh để tiện xưng hô. Chữ “Các Anh” viết hoa, bao gồm từ người lính đến các
cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng
Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh
phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường
tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn
của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Với loạt Thư mà tôi tổng hợp được một số tội ác của
các nhóm lãnh đạo Việt Cộng từ năm 1945 đến năm 2017. Vì quá dài, nên tôi chia
ra làm 6 Thư. Mời Các Anh lần lượt đọc để có nét nhìn rộng hơn và
sâu hơn về lãnh đạo của Các Anh đã gây tội ác đến mức nào, trong khi tuyên truyền
của họ phũ lấp những hành động của họ. Đề rồi, ngày nay người dân bị chìm trong
một xã hội chỉ có dối trá là sự thật, và dối trá đã đẩy mọi người gần như mất hẳn
nếp sống tình cảm, nếp sống văn minh lịch sự, vốn dĩ là nền tảng trong văn hóa
truyền thống Việt Nam!
Trong Thư 68a này, Các Anh sẽ nhận ra nguồn gốc của tội
ác từ Quốc Tế Cộng Sản với tham vọng thống trị một thế giới vô sản trên trái đất
này, và một số tội ác từ năm 1945 đến 1954.
Tổng quát.
Tôi tin rằng, không phải một vài trăm hay một vài triệu
người, mà là hằng tỷ người trên thế giới đều biết đến tội ác của cộng sản đối với
nhân loại, và tội ác như thế nào, nội dung này thể hiện sự cố gắng dựng lại một
góc nhỏ “chân dung tội ác” của ông Hồ Chí Minh, và tiếp nối bởi các nhóm lãnh đạo
Việt Cộng, từ bản chất độc tài toàn trị họ tạo ra tội ác để buộc người dân đem
hạnh phúc lại cho họ, đúng như nhận định của Đức Đạt Lại Lạt Ma Tây Tạng. Xin mời
đọc nhận định về tội ác của cộng sản từ một số giới chức lãnh đạo chính trị
trên thế giới, lãnh đạo tôn giáo, và nhà văn:
Ông George W. Bush, Tổng Thống Hoa
Kỳ. Ngày 12/6/2007, chủ tọa lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản
(Victims of Communism Memorial) tại Washington DC, trong diễn văn có đoạn: “…
Từ nay, oan hồn của khoảng 100 triệu nạn nhân cộng sản, được những thế hệ
hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ, vì chế độ cộng sản đã lấy
đi mạng sống của khoảng 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội”.
Tác giả Stéphane Courtois, trong quyển
“Livre Noir du Communisme” (Sách đen về chủ nghĩa cộng sản), có đoạn: “...
Vượt trên mức độ tội ác cá nhân, các chế độ cộng sản củng cố quyền hành bằng
cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị.... Sau đó, sự
đàn áp thường ngày,sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin tức, kiểm soát xuất nhập biên
giới, trục xuất người ly khai... những ký ức về khủng bố tiếp tục đặt người dân
trong tình trạng sợ hãi. Các quốc gia cộng sản đều trong qui luật này”.
Tác giả Rudolph J. Rummel: Trong
quyển “Death by Government” (Chết do chánh phủ), cung cấp vài con số nạn nhân bị
chánh phủ của họ giết chết: (1) Liên Sô 61.911.000 người. (2) Cộng sảnTrung
Hoa 35.236.000 người. (3) Quân phiệt Nhật 5.964.000 người. (4) Khmer đỏ
2.035.000 người. (5) Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người. (6) Cộng sản Việt Nam
1.670.000 người. (7) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người. (8) Cộng sản Nam Tư
1.072.000 người.
Ông Mikhail Gorbachev, Tổng Bí Thư cuối
cùng của đảng cộng sản Liên Sô, cũng là Chủ Tịch Cộng Sản QuốcTế: “Tôi đã bỏ
hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau
buồn mà nói rằng, cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo”.
Ông Boris Yeltsin, Tổng Thống đầu
tiên của Cộng Hòa Liên Bang Nga: “Anh có thể xây ngai vàng bằng lưỡi lê,
nhưng anh không thể ngồi lâu trên đó. Cộng Sản là không thể nào sửa chữa, mà cần
phải đào thải nó”
Ông Medvedev, khi là Tổng Thống
Cộng Hòa Liên Bang Nga: “... Chế độ cầm quyền ở Liên Xô khi trước,
không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị...”.
Bà Angela Merkel, Thủ Tướng Cộng
Hòa Liên Bang Đức: “Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối.”
Đức Đạt Lại Lạt Ma: “Người
cộng sản làm cách mạng không phải đem lại hạnh phúc cho người dân, mà họ làm
cách mạng để buộc người dân đem hạnh phúc đến cho họ”.
Nguồn gốc của tội ác 1922-1932 (Source:
Ông Tôn Thất Thiện. Ottawa, 2004)
Đệ Tam Quốc Tế do ông Lenin thành lập năm 1919 sau khi
cướp chánh quyền ở Nga. Năm 1920, đại hội quốc tế cộng sản quy định 21 điều kiện
cho các đảng cộng sản hội viên. Ủy Ban Chấp Hành Đệ Tam Quốc Tế (ECCI), từ 10 đến
12 ủy viên, mỗi đảng lớn được hai ghế, các đảng nhỏ chỉ có quyền tham khảo chớ
không có ghế. Liên Xô đương nhiên chiếm 5 ghế, cùng với chức Chủ Tịch Ủy Ban Chấp
Hành, vì Liên Xô là quốc gia tiếp nhận tổ chức. Trên Ủy Ban Chấp Hành là một Chủ
Tịch Đoàn, và Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn có quyền hạn rộng lớn mà ông Lenin nắm
giữ từ năm 1920 đến năm 1924, sau đó là ông Stalin. Dưới đây là 7 Điêu, liên
quan trực tiếp đến các đảng hội viên:
Điều 9: “Liên hệ giữa các đảng hội viên
với các cơ quan trung ương của Đệ Tam Quốc Tế, theo nguyên tắc thống nhất và kỷ
luật vô sản. ECCI là cấp trên, các đảng hội viên là cấp dưới. ECCI có quyền
đòi một đảng hội viên trục xuất một nhóm, hay một đảng viên vi phạm kỷ luật, hoặc
trục xuất một đảng vi phạm quyết định của Đại Hội Đệ Tam Quốc Tế”.
Điều 12: "Tất cả các đảng thuộc Đệ
Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Điều 15: "Các đảng phải lập chương
trình thích ứng với điều kiện của nước, và đúng với những nghị quyết của Đệ Tam
Quốc Tế".
Điều 16: "Tất cả quyết nghị của các
đại hội thế giới Đệ Tam Quốc Tế, cùng các quyết nghị của Ủy Ban Chấp Hành của Đệ
Tam Quốc Tế, đều ràng buộc các đảng hội viên thi hành".
Điều 17: “Các đảng hội viên, chỉ là
những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, vì Đệ Tam Quốc Tế không phải là một tập hợp
của những chi bộ quốc gia, mà là một tổ chức quốc tế thống nhất".
Điều 21. “Đảng hội viên nào phủ nhận các
điều kiện và Cương Lĩnh của Đệ Tam Quốc Tế, sẽ bị loại khỏi Đệ Tam Quốc Tế”.
Điều 30: “Các cán bộ lãnh đạo của một đảng
hội viên chỉ được từ chức nếu được phép của ECCI, sự chấp thuận của Ủy Ban Chấp
Hành Trung Ương của Đảng đó không đủ. Để kiểm soát chặt chẽ, thỉnh thoảng Đệ
Tam Quốc Tế gởi phái viên đến dự đại hội của các đảng hội viên”.
Ông Lênin giải thích rằng, Đệ Tam Quốc Tế là "một
đội quân vô sản quốc tế" mà nhiệm vụ là "thực hiện cách mạng vô sản
quốc tế, thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết Quốc Tế".
*****
Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam
năm 1911 sang Pháp với tên Văn Ba. Tháng 12/192, ông sang Hoa Kỳ với
tên Paul Tất Thành. Cuối năm 1913, ông sang nước Anh làm nghề cào tuyết.
Cuối năm 1917, ông trở lại Pháp làm nghề chụp hình. Từ năm 1919, ông dùng tên Nguyễn
Ái Quốc. Năm 1920, ông dự đại hội đảng Xã Hội Pháp, và sau đó ông là thành
viên trong nhóm sáng lập đảng cộng sản Pháp. Từ đó, ông là người cộng sản. Năm
1922, Nguyễn Ái Quốc sang Nga dự đại hội Quốc Tế Cộng Sản lần 4, nhờ vậy
mà ông được gặp ông Lenine, và từ đó ông trở thành thành viên trong Ban Đông
Nam Á của Quốc Tế Cộng Sản.
Tháng 6/1923, ông vào học trường đại học Lao Động Cộng Sản Phương Đông, đào tạo về chủ nghĩa Marx, về tuyên truyền và khởi nghĩa võ trang. Năm 1924, trong đại hội lần thứ 5 Quốc Tế Cộng Sản, ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam. Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu với tên Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chánh phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 3/2/1930, ông Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hong Kong. Năm 1931, Nguyễn Ái Quốc dưới tên Tống Văn Sơ, bị nhà cầm quyền Hong Kong bắt giam.
Tháng 6/1923, ông vào học trường đại học Lao Động Cộng Sản Phương Đông, đào tạo về chủ nghĩa Marx, về tuyên truyền và khởi nghĩa võ trang. Năm 1924, trong đại hội lần thứ 5 Quốc Tế Cộng Sản, ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam. Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu với tên Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chánh phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 3/2/1930, ông Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hong Kong. Năm 1931, Nguyễn Ái Quốc dưới tên Tống Văn Sơ, bị nhà cầm quyền Hong Kong bắt giam.
Ngày 9/8/1932, báo L Humanite
của Pháp loan tin: “Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá
nhà tù Hong Kong, đồng thời tố cáo thực dân Pháp cùng với thực dân Anh ám sát
người lãnh đạo của đảng cộng sản Đông Dương”. Sau đó, có những nguồn tin cho rằng
sự kiện đó chỉ là ngụy trang, và thật sự ông Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống…..Nhưng
không có tài liệu nào phũ nhận hay xác nhận bản tin bên dưới nói rằng Nguyễn Ái
Quốc đã chết. Thôi thì, cho dù Nguyễn Ái Quốc còn sống, hay đã chết và có người
bí mật thay thế Nguyễn Ái Quốc, xin tiếp tục những tội ác mà lần lượt các nhóm
lãnh đạo Việt Cộng gây ra cho dân tộc Việt Nam. (Source: Wikipedia)
Source: <ChauXuanNghia's
Blog>. Một văn kiện quan trọng của đảng cộng sản thừa nhận
rằng nhận vật Nguyễn Ái Quốc “đã bị ám sát vào giữa năm 1932 tại Hồng
Kông”. Sự kiện này được viết rất
rõ trong tập 4, văn kiện đảng toàn tập, tại bài “kỷ
niệm ba năm này thành lập đảng cộng sản Đông Dương”: “Đảng Cộng Sản Đông
Dương vừa được thống nhất vào đêm trước của cuộc bãi công có tính chất khởi
nghĩa của các phu đồn điền Phú Riềng, bởi ba nhóm cộng sản của Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ, dưới sự
lãnh đạo của người sáng lập của nó là đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã bị
ám sát vào giữa năm 1932 trong nhà tù địa ngục của Hồng Công”.
Tác giả đã viết ra văn kiện trên là ông Hà
Huy Tập, Tổng Bí Thư đời thứ
3 của đảng cộng sản Việt Nam, nhiệm kỳ 1937-1938. Đến năm 1941,
ông Hà Huy Tập bị Pháp bắt và bị xử bắn. Tài liệu này
đang trong kho lưu trữ trung ương đảng và được đăng tải ngày 10/6/2003.
Trang web là cơ quan ngôn luận
chính thức của trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Tổng biên tập tờ báo này là
ông Đào Ngọc Dũng, sinh năm 1956, cựu uỷ viên ban biên tập báo Nhân Dân.
Thử đi tìm sự thật, “Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành
hay Hồ Tập Chương -cũng là Hồ Quang- gốc Tàu? Dưới đây là năm nguồn tin có
kết luận giống nhau:
Nguồn tin 1. Giáo Sư Sử Học Hồ
Tuấn Hùng ở Đài Loan, Hồ Chí Minh tên thật là Hồ Tập Chương, người
dân tộc Hẹ, sinh năm 1901 tại Đài Loan, trong cùng một gia tộc với tác giả quyển
Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo. Giáo Sư Hồ Tuấn Hùng xác nhận, theo các tài liệu
trong văn khố của nhà cầm quyền Anh ở Hong Kong, Tống Văn Sơ (bí
danh của Nguyễn Tất Thành lúc hoạt động tại Hong Kong) sau khi bị Cảnh
Sát Hong Kong bắt giữ năm 1931, đã được chữa trị bệnh lao phổi trâm
trọng trong một bệnh viện bài lao, và đã chết năm 1932. Nguyễn Tất Thành đã mắc
bệnh lao phổi lúc ở Paris (1917-1923). Về mặt y học, bệnh
lao phổi vào thập niên 1930 không chữa trị được vì phương Tây chưa có thuốc
trụ sinh Streptomycin. Mãi đến ngày 19/10/1943, Sinh Viên Cao Học Albert
Schatz, thành viên một nhóm nghiên cứu y học của Hoa Kỳ dưới quyền điều khiến của
Bác Sĩ Selman Abraham Waksman, mới khám phá ra thuốc Streptomycin. Đên
năm 1946, thuốc Steptomycin mới được đem ra thí nghiêm trên lâm sàng đế chữa trị
bệnh lao phối.
Nguồn tin 2. Căn cứ một bài
viết của Huỳnh Tâm tựa đề “đảng cộng sản Việt Nam”. Theo đó thì
phiên bản Của Tình Báo Trung Cộng đăng trên , một số
tài liệu của Tình Báo Trung Cộng hiện còn lưu trữ tại hai cơ quan Tình Báo ở
Hoa Nam và Bắc Kinh đã dược giải mã. Các tài liệu đã giải mã, đặc biệt là Sổ Tay
của Đặng Bình Ánh (DBA), xác nhận nhân vật đã được đảng cộng sản Trung Hoa
gởi đến căn cứ Pác Bó năm 1940 là Hồ Tâp Chương mang bí danh Hồ
chí Minh từ năm 1932. Hồ Tập Chương là một điệp viên của Trung Cộng
có năng khiếu về tinh báo và biết nói nhiều thứ tiếng: Hẹ, Quảng Đông, Quan Thoại,
Nhựt, Nga, Pháp, và Việt Nam. Tuy nhiên, Hồ Tập Chương viết và nói tiếng Việt
và tiếng Pháp còn nhiều sai lầm vì mới học. Tiếng Hẹ có thanh âm gần giống tiếng
Việt và tiếng Quảng Đông. Nếu so sánh chữ viết trên lá đơn đề ngày 11/9/1911 của Nguyễn
Tất Thành xin nhập học Trường Thuộc Địa của Pháp với chữ viết của Hồ
Chí Minh trên nhiều văn bản, nhứt là bản di chúc của ông ta, mọi người đều nhận
thấy có một sự khác biệt nổi bật. Viết tiếng Việt không rành, Hồ Chí Minh
cầm bút sắt hay bút bi như cách viết chữ Hán (cầm bút lông).
Tác giả Huỳnh Tâm còn phát hiện một tài liệu hiện còn
lưu trữ tại Học Viện Quân Sự Tình Báo Bắc Kinh ghi rõ như sau: ‘’Hồ Tập Chương
thay mặt đảng cộng sản Đông Dương tham dự quốc khánh của Trung Quốc ngày
1/10/1950 đã tuyên bố như sau: ‘’Từ ngày có đảng ta khai hóa được nhược tiểu
chư hầu Việt Nam đến với trào lưu nghĩa vụ cộng sản quốc tế, nay kính dâng lên
đảng tùy nghi sử dụng cơ sở cộng sản Đông Dương. Mao Chủ Tịch muôn năm’’.
Nguồn tin 3. Trung Cộng
chánh thức xác định Chủ Tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là Thiếu Tá Hồ Quang, của quân đội nhân dân Trung Hoa, từng phục vụ
trong Đệ Bát Lộ Quân đồn trú và hoạt động tại Tỉnh Quảng Tây.
Nguồn tin 4. Năm 2015, Cục
Văn Thư và Lưu trữ của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, xác nhận Chủ
Tịch Hồ Chí Minh là Thiếu Tá Hồ Quang của quân đội Trung Cộng.
Nguồn tin 5. Trong một
bài viết tháng 1/1949 với tựa đề ‘’Đảng ta’’ dưới bút danh Trần Thắng Lợi,
Hồ Chí Minh đã viết như sau: ‘’Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
trở lại Tàu cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng. Trong số 7, 8 đại
biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi -tức Hồ chí Minh- nay chỉ
còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cữu, đồng chí Tán Anh (Lê tán Anh) và
vài đồng chí nữa đã oanh liệt hy sinh cho đảng và cho dân tộc lâu trước cách mạng
tháng 8’’. Bài viết nầy đã được đăng trong Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5
(source: Wikipedia)
Tóm tắt. Đảng cộng sản Việt Nam là một
Chi Bộ của Đệ Tam Quốc Tế, và phải thi hành lệnh của tổ chức này thực hiện mục
tiêu của ông Lenin, là “thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết trên toàn thế giới”. Từ
khi Trung Cộng chiếm toàn lục địa Trung Hoa năm 1949, thì đảng cộng sản Việt
Nam trờ thành đàn em của Trung Cộng. Cho dù Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành hay
Hồ Tập Chương (cũng là Hồ Quang) gốc Tàu, thì tội ác mà lãnh đạo đảng cộng sản
Việt Nam -cũng gọi là Việt Cộng- gây ra cho dân tộc Việt Nam và tổ quốc Việt
Nam không thể nào chối cãi.
*****
Tội ác của lãnh đạo Việt Cộng trong hơn 70 năm qua là
không thể nào sưu tầm đến mức khả dĩ cho là đủ, bởi những gì mà tôi sưu tầm được
và tổng hợp trong loạt thư tài liệu này, chỉ là những tội ác mà nhiều người đã
biết, nhưng chưa hẳn đã rõ. Tôi tin chắc rằng, còn vô số tội ác của lãnh đạo Việt
Cộng (cộng sản Việt Nam) còn trong trí nhớ của rất nhiều người nhưng không có
cơ hội truyền đạt đến những độc giả thính giả người muốn biết, vì lịch sử phải
là sự thật do chính những người trong cuộc của từng tội ác truyền đạt bằng lời
viết, lời nói, và những nhà viết sử sẽ chọn lọc, phân tách, đánh giá, và tạo
nên những dòng sử qua từng giai đoạn.
Loạt Thư tài liệu mà tôi trích dẫn từ trong Wikipedia,
từ các tác giả, cũng như trên báo chí xã hội chủ nghĩa, có tin xác thực, cũng
có tin cần kiểm chứng lại nếu có cơ hội. Nhưng, dù sao thì loạt Thư tài liệu
này cũng gợi lại cho Các Anh và quí độc giả đôi điều suy nghĩ về tội ác của
lãnh đạo Việt Cộng. Bởi, một xã hội tôn trọng con người, tôn trọng đạo nghĩa,
luôn thích ứng với khoa học kỹ thuật trên đường phát triển từ tháng 4/1975 về
trước, mà nay trở thành một xã hội suy đồi đạo đức, con người trở nên vô cảm, dối
trá trở thành sự thật, vì giáo dục xã hội chủ nghĩa “chiếm giữ” toàn bộ hệ thống
học đường và mọi sinh hoạt xã hội từ năm 1954 đến nay, và vẫn tiếp tục, nếu …
người dân chưa đứng dậy giật sập nó.
Số 1. Tội ác tuần lễ vàng 1945. (source:
Tác giả Trần Gia Phụng)
Sau khi cướp chánh quyền
từ Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam Trần Trọng Kim, và thành lập nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2/9/1945 do Hồ
Chí Minh lãnh đạo. Ngay ngày hôm sau, ông ta tìm cách kiếm tiền từ
trong người dân vì ngân sách quốc gia chỉ có 1.250.000 đồng tiền Đông Dương mà
một nửa rách nát không còn giá trị. Võ Nguyên Giáp trách nhiệm tổ chức “Quỹ Độc
Lập” với sắc lệnh số 4/SL ngày 4/9/1945. Nội dung sắc lệnh này kêu gọi người
dân trong cả nước quyên góp ủng hộ chánh phủ. Ông Đỗ Đình Thiện trách nhiệm gây
quỹ tại Hà Nội, tại các tỉnh do lãnh đạo địa phương trách nhiệm. Ngày 7/9/1845,
phát động “tuần lễ vàng” với lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh nhẹ nhàng nhưng
không kém phần thống thiết, như đang cầu xin người dân ủng hộ tổ chức Việt Minh
(chữ tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội), che giấu cái tên Cộng Sản mà ông
ta mang từ Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản trên đất Nga trở về. Theo dự trù, tuần lễ
vàng thực hiện từ ngày 7 đến 14/9/1945, nhưng thật ra đã kéo dài trong nhiều
tháng.
Tổng kết tuần lễ vàng: “Thu được 370
kilô vàng và 20 triệu đồng, tương đương với tổng số thuế thân và thuế điền thu
được trên toàn quốc trong một năm dưới thời Pháp thuộc.” (Trích
trong bài Tuần Lễ Vàng của tác giả Trần Gia Phụng)
Tóm tắt. Với “tuần lễ vàng”, ông Hồ
Chí Minh kêu gọi lòng hảo tâm của những nhà giàu có bằng lời lẽ hết sức
nhẹ nhàng, khẩn thiết, và được người dân từ nghèo đến giàu ủng
hộ. Nhưng, chính vì lòng tốt của người dân nghe lời ông Hồ mà ủng hộ đến 370 kí
lô vàng và khối tiền rất lớn, lại giúp Hồ Chí Minh có đủ tên tuổi và tài sản của
những người mà ông ta ghép vào các thành phần đem ra đấu tố đến chết trong Cải
Cách Ruộng Đất năm 1953-1956, và tịch thu toàn bộ tài sản.
Số 2. Tội ác “giết lầm hơn thả lầm” 1945-1946.
Chiến tranh giữa thực dân Pháp với Việt Minh cộng sản
âm ỉ từ khi quân Pháp tái chiếm Việt Nam, và chánh thức bắt đầu từ ngày 19
tháng 12 năm 1946. Trong những năm đầu của cuộc chiến giữa thực dân Pháp với Việt
Minh cộng sản, quân du kích của ông Hồ tại miền Nam đã giết oan hằng trăm ngàn
người với cái tội “Việt gian” mà nạn nhân không hiểu tại sao mình lại bị gắn
cho cái tội đó! Tội này có nghĩa là người Việt Nam làm tay sai cho thực dân
Pháp. Tội là thế, nhưng cách kết tội mới là nguyên nhân của bao oan ức đối với
người bị gắn tội.
Lúc ấy tôi vào tuổi 15, nhận lời làm thư ký cho ông Đại
Đội Trưởng du kích tại Nha Mân, tỉnh Sa Đéc, để Ba Má tôi và anh em chúng tôi
được ông cho.vào ở trong gian nhà khá rộng trong thời gian chạy giặc Tây. Tôi gọi
ông là “chú Tư”. Chú Tư không biết chữ. Đại Đội này cử người theo bảo vệ
cán bộ trên Quận xuống, lập nhiều trạm gác dọc theo sông Nha Mân từ ngoài chợ
vào đến xã Hòa Tân trong ngọn. Trạm gác đầu tiên là bờ sông cạnh nhà máy xay
lúa tại Rạch Bà Thiên, cách chợ Nha Mân khoảng 500 thước, lúc ấy tại chợ Nha
Mân có cái “đồn” do lính da đen gạch mặt trấn giữ. Từ trạm gác này, tôi chứng
kiến nhiều lần mấy chú du kích kiểm soát, bắt người, và đem đi đâu đó giết chết
thả trôi trên sông Nha Mân!
Điển hình là một lần, Chú Tư Đại Đội Trưởng Du Kích bảo
tôi đến trạm kiểm soát này chứng kiến và báo cáo. Tất cả xuồng ghe qua lại
trên sông Nha Mân này đều bị kêu vào bờ kiểm soát. Trong tất cả những gì trên
ghe xuồng và trên cơ thể những người đi trên đó mà du kích khám xét, cho dù có
bao nhiêu màu sắc không cần biết, nhưng chỉ cần có 3 màu xanh, màu trắng, màu đỏ
trong số đó cho dù 3 màu đó không liền nhau trên mảnh vải hay mảnh giấy là bị kết
tội Việt Gian, bị trói ngay tại chỗ, và vài hôm sau thì mất tích! Ba màu xanh
trắng đỏ nếu may liền nhau theo đúng vị trí và đúng kích thước là quốc kỳ của
Pháp, thế nhưng mấy chú du kích không biết chữ hoặc ít học nên cứ thấy 3 màu đó
thì cho là dấu hiệu liên lạc với quân Pháp, nên kết tội Việt Gian và bắt trói.
Chỉ riêng tại Nha Mân -cũng là xã Tân Nhuận Đông- mà
như vậy, thì cả nước nói chung và tại miền Nam nói riêng có biết bao nhiêu người
chết tức tưởi như vậy! Trong những năm đầu của chiến tranh (từ tháng 8/1945),
thường ngày có quá nhiều xác người trôi lềnh bềnh trên những sông rạch miền Nam
nói chung và sông Nha Mân nói riêng, nhiều đến nỗi không ai dám ăn tôm tép nữa
vì loại này háu rỉa thịt người! Có những xác trôi riêng rẻ, có những xác bị cột
chung vào một cây tre! Tiếng lóng mà người dân thường dùng để chỉ những xác
trôi lềnh bềnh đó là “mò tôm”, ẩn nghĩa của nó là những người bị Việt Minh cộng
sản bắt giết và ném chìm dưới sông, vài ngày sau nổi lên trên mặt sông bị ánh nắng
biến xác người phần trên thành màu đen sậm, và phần dưới mặt nước trắng bệt.
Số 3. Tội ác diệt trừ văn hóa Việt (source:
Wikipedia báo Tiếng Dội 24/8/1951)
Tờ nhật báo Tiếng Dội số 462, năm thứ 3, ngày Thứ Sáu
24/8/1951, của Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc, tòa soạn trên đường
Gia Long Saigon, có bài viết “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung
Cộng”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do ông Trường Chinh ký tên, như sau :
Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Tổng Thư Ký Đảng Lao Động Việt Nam
Số 284/LĐ Đỗc Lập Tự Do Hạnh Phúc
Hỡi đồng bào thân mến,
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của
chúng ta, là một nước làm chư hầu cho Trung Hoa bao nhiêu năm rồi, cái thứ chữ
kỳ quặc của bọn da trắng tư bản đem vào?
Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ Ải Nam
Quan đến Mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes
đã đem qua xứ mình như thế?
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối
Âu Tây ấy, dù cách viết rõ ràng có mau thật đấy, và ta hãy trở về với thứ chữ của
ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Hoa. Vả chăng, người Trung Hoa,
bạn của ta mà có lẽ là Thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như
thế, có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y
khoa của Âu Mỹ, chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo, có thế thôi.
Hỡi đồng bào yêu mến,
Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn đế quốc
phương Tây đem qua xứ ta. Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của
chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu
danh tiếng khắp cả hoàn cầu. Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ
các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu
những đồ nhập cảng thực dân như là khoa hoc, phát minh v.v…Ta hãy quét sạch lũ
“trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc, và thực dân.
Chúc tổng phản công và thi hành mọi phương pháp bài trừ
thực dân.
Trường Chinh, Tổng thư ký đảng Lao Ðộng
Số báo Tiếng Dội này nằm trong Thư Viện tiếng Việt thuộc
Bảo Tàng Viện Anh Quốc (British Museum, London).
Số 4. Tội ác vụ cải cách ruộng đất 1953-1956. (Source:
Nguyễn Quang Duy. Wikipedia)
Kính gởi Đồng chí Stalin thân mến,
“Xin gửi Ngài chương trình “Cải Cách Ruộng Đất” của đảng
Lao Động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi, dưới sự giúp
đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, và đồng chí Văn Sha San. Đề nghị Ngài xem xét và
cho chỉ dẫn”.
Gửi lời chào cộng sản. Hồ Chí Minh (ký tên).
Xin chú ý: Kèm theo nguyên văn phần cuối lá Thư để quí
vị xem tên và chữ ký ở cuối thư này như là nét chữ Trung Hoa. Và nếu
đúng là nét chữ Trung Hoa, thì liệu đó là chữ ký của ông Nguyễn Tất Thành hay Hồ
Chí Minh?
Chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất trên
lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, với mục đích xóa bỏ văn hóa truyền
thống mà ông Hồ gọi là “văn hóa phong kiến”, tiêu diệt các
thành phần mà ông Hồ gắn cho những cái tên “bóc lột, phản quốc, và phản động”, để
lập nền chuyên chính vô sản, và đưa nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tiến lên chủ
nghĩa xã hội, theo Bản Tuyên Ngôn đảng cộng sản mà ông Karl Marx đã tuyên
bố: “Cách mạng ruộng đất là điều kiện giải phóng dân tộc”.
Tháng 11/1953, Quốc Hội thông qua dự
luật “Cải Cách Ruộng Đất”, và
ban hành ngày 19/12/1953. Ông Hồ Chí Minh tuyên bố: “Luật cải
cách ruộng đất của ta, chí nhân,
chí nghĩa, hợp lý, hợp tình, chẳng những
làm cho cố nông, bần nông, trung nông có ruộng cày, đồng thời chiếu cố đồng bào
phú nông, đồng bào địa chủ”.
Ngay sau đó là thành lập Ban lãnh đạo trung
ương, gồm:
- Trưởng Ban Chỉ Đạo: Trường
Chinh, Tổng Bí Thư đảng.
- Trưởng Ban Chỉ Đạo thí
điểm Thái Nguyên: Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Bộ Chính Trị Ban Chấp
Hành trung ương đảng.
- Trưởng Ban Chỉ Đạo thí
điểm Thanh Hóa + Nghệ An + Hà Tĩnh: Lê Văn Lương, Ủy viên dự khuyết Bộ
Chính Trị, Ban Chấp Hành trung ương đảng
- Giám Đốc trực tiếp điều hành chiến dịch: Hồ Viết
Thắng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp Hành trung ương đảng.
Thực hiện chiến dịch
cải cách ruộng đất.
Qua 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1, huấn luyện cán bộ: Cán bộ đảng
Lao Động -tức đảng Cộng Sản- tham gia cải
cách ruộng đất phải học khóa Chỉnh Huấn 1953, và một số
được đưa sang huấn luyện tại Trung
Hoa, trong mục đích giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng cộng
sản trong cải cách ruộng đất, theo quan điểm bốn
thành phần “trí, phú, địa, hào, phải đào tận gốc
trốc tận rễ”. Tổng số cán bộ đưa vào công tác là 48.818 người.
Sau đó, các Đội Cán Bộ cải cách ruộng đất, phải vào
các làng xã “cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm” với các bần cố nông trong làng xã đó,
để kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của Đội.
Giai đoạn 2, phân loại thành phần: Đội Cải
cách Ruộng Đất sau khi ra mắt làng xã, là
xúc tiến công tác phân loại tất cả gia đình trong xã theo 5 thành phần:
Một là địa chủ. Hai là phú nông. Ba
là trung nông cứng, nếu làm chủ 1 con bò, 1 con heo, và 1 đàn gà. Đến
trung nông vừa, nếu làm chủ 1 con heo và 1 đàn gà. Sau
cùng là trung nông yếu, nếu chỉ có 1 đàn gà hay không có gì cả. Bốn
là bần nông. Và Năm là cố nông.
Gia đình nào có 2 con heo có thể gọi
là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5% dân số tại mỗi
xã. Nếu chưa đủ tỷ lệ, các Đội Cải Cách phải
bằng mọi cách để đôn lên thành phần địa chủ cho đủ tỷ lệ 5%
là một quy định bắt buộc. Các gia đình
bị xếp vào thành phần địa chủ, Đội Cải Cách phải
lọc ra 3 thành phần nhỏ, là: Địa chủ gian ác. Địa chủ
thường. Và địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Khi bị xếp vào thành phần địa
chủ gian ác, Đội Cải Cách bắt giam
ngay lập tức.
Giai đoạn 3, học tập đấu tố: Các bần
nông, cố nông, rễ, và cành, sẽ học “lớp đấu tố” do Đội Cải Cách giảng
dạy. Qua đó, học viên biết cách nhận dạng
các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đã
bóc lột họ như thế nào. Du kích và cán bộ cải cách ruộng
đất tìm bắt các gia đình địa chủ, nếu cần, phải vào thành
phố lùng bắt địa chủ và con cái của họ, cho dù họ đang là cán bộ hay công nhân
viên chức nhà nước.
Giai đoạn 4, công khai đấu tố: Các buổi đấu
tố thường tổ chức vào ban đêm. Số người tham gia đấu tố, được huy động
từ vài trăm đến hằng ngàn người. Thời gian đấu
tố, từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố,
các bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có
tổ chức cải cách ruộng đất, đảng Lao Động -tức đảng cộng sản- cho ra tờ báo lấy
tên là “Lá Rừng”, ám chỉ
điạ chủ nhiều như lá rừng. Tờ báo có nhiệm vụ tường thuật chi tiết
các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố, các địa chủ
được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử. Gia đình và thân nhân người
bị đấu tố bị cô lập, bị bỏ đói, bị phân biệt đối xử, và nhục
hình.
Và giai đoạn 5, xử án địa chủ: Tại các huyện,
một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra, xuống các xã xét
xử các địa chủ. Sau khi kết án, thì những người bị án tử hình thì
ngay lúc ấy, Đội Tự Vệ Xã thi hành
án trước mặt mọi người. Những người không bị xử bắn, thì bị cô lập
trong các làng xã cho đến chết.
Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn
Trung Hoa, chiến dịch được mở rộng tại 3.341
xã, và thực hiện nhanh hơn để thu ngắn thời gian. Tình trạng đó đẫn đến cảnh đấu tố
tràn lan, đến mức có những trường hợp, chỉ một lời tố giác
đơn giản là Tòa Án Nhân Dân đã xử tử
hình, hoặc tù khổ sai đối với người bị tố giác.
Tổng kết chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất.
Đã tịch thu của địa chủ: (1)
148.565 ngôi nhà. (2) 810.000 mẫu ruộng. (3) 106.448
trâu bò, và 1.846.000 nông cụ.
Số nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam
1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam ấn hành tại Hà Nội năm 2004, số nạn nhân bị
đấu tố là 172.008 người bị ghép vào các thành phần: (1) 26.453
người là địa chủ cường hào gian ác. (2) 82.777 người là địa chủ thường. (3)
586 người là địa chủ kháng chiến. (4) Và 62.192 người là phú nông.
Trong tổng số 172.008 nạn nhân, số nguời bị oan chiếm
đến 123.266 người, hay là 71.6%. Con số về tổng số nạn nhân trên đây,
chưa tính đến thân nhân thân quyến của họ cũng bị cô lập và phân biệt đối xử.
Chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, đã phân chia 810.000 mẫu
đất canh tác cho 2.000.000 gia đình nông dân ở đồng bằng và trung du, tức khoảng
72,8% gia đình nông dân. Tuy nhiên, quyền tư hữu ruộng đất của nông dân
chỉ là tạm thời, vì năm 1958 thì
trung ương đảng quyết định tập thể hóa toàn bộ theo kế
hoạch phát triển nông thôn. Đến Hiến Pháp1959, thiết lập quyền sở hữu
tập thể. Và Hiến Pháp 1980, thì quyền tư hữu của nông
dân hoàn toàn biến mất, và nhà nước nắm quyền sở hữu ruộng
đất trên toàn cõi Việt Nam.
Tóm tắt.
Điểm 1. Cải Cách Ruộng Đất đã giết người
theo tỷ lệ 5% tại mỗi xã, trong tổng số nông dân tại 3.341 xã cải cách,
nếu không đủ tỷ lệ, phải đôn từ thành phần không bị giết lên thành phần bị giết.
Dòng lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước, chưa bao giờ người dân bị giết dã man
như vậy.
Điểm 2. Tịch thu đất của người bị giết,
phân chia cho nông dân với quyền sở hữu tư nhân, rồi tập trung vào hợp tác xã
trở thành quyền sở hữu tập thể, sau cùng thì quyền sở hữu ruộng đất vào tay nhà
nước.
Điểm 3. Thực hiện một xã hội vô sản
đúng theo điều lệ của cộng sản quốc tế.
Khoảng năm 1951 khi sống tại Sài Gòn, có người bạn cho
tôi đọc bản dịch của tác giả người Pháp, nghiên cứu đời sống nông dân tại các
vùng nông thôn miền Bắc. Một cách tổng quát thì mỗi xã có 5% người giàu chiếm
giữ 90% tài sản, trong khi 95% người nghèo chỉ chiếm giữ 10% tài sản. Rất có thể
trong chương trình Cải Cách Ruộng Đất, ông Hồ Chí Minh căn cứ theo đó để giết
người theo tỷ lệ 5%, vì không thấy tài liệu cho biết tỷ lệ này căn cứ vào đâu.
Cho dù không biết tỷ lệ giết người từ đâu ra, nhưng sự thật vô cùng tàn nhẫn,
vô cùng khiếp đảm!
Kết luận.
Mời Các Anh đọc vài đoạn mà
tôi trích trong bài thơ "Cảm
Tạ Miền Nam " của
nhà thơ xã hội chủ nghĩa Phan Huy, khi tác giả vào lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa cũ của chúng tôi, như sau:
...Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất”
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phụcTôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước, con người, dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô
Giận đảng, giận đoàn, bao năm phỉnh gạt
Sinh ra, lớn lên, sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mác, Lê nin
Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản.”
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi, người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang, tính bằng tem phiếu
Thân phận con người chẳng khác bèo dâu.
Trên đường về, đất trời như sụp đổ.
Tôi
thấy mình tội lỗi với miền Nam.
Tôi
thấy mình hổ thẹn với lương tâm.
Tôi
đã khóc, cho mình và đất nước ...
Các Anh phải nhớ là đồng bào
đang chờ Các Anh đứng dậy, để cùng nhau làm nên lịch sử
lưu danh mãi mãi đến ngàn năm sau, bằng cách diệt trừ đảng cộng sản, rồi xây dựng
một xã hội dân chủ pháp trị phục vụ theo nguyện vọng người dân.
Và Các Anh đừng bao giờ
quên rằng: “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh
vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát
triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải
là quà tặng.
Thượng tuần tháng 6 năm 2017
Phạm Bá Hoa
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Virus-free. www.avastcom
|
__._,_.___
Posted
by: "Nhat Lung" <
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment