----- Forwarded Message -----
From: MINHHA PHAM wrote
To:
Sent: Sunday, August 13, 2017 11:33 PM
Subject: Việt Nam cô đơn và lạc trong một thế giới bất an và bất định - Nguyễn Quang Dy
From: MINHHA PHAM wrote
To:
Sent: Sunday, August 13, 2017 11:33 PM
Subject: Việt Nam cô đơn và lạc trong một thế giới bất an và bất định - Nguyễn Quang Dy
Việt Nam cô đơn và lạc trong một
thế giới bất an và bất định
Nguyễn Quang Dy
“Chỉ có những kẻ khôn ngoan nhất
và ngu xuẩn nhất là không thể thay đổi” (It is only the wisest and the
stupidest that cannot change). (Confucius,
551-479 BC)
Có thể nói ngay (mà chưa cần phân
tích) là Việt Nam cô đơn và lạc trong một trật tự thế giới mới bất an và bất
định, của một thế giới “không phẳng” (xin lỗi Tom Friedman). Nhiều nước cũng khốn
đốn (như Venezuela) chứ không riêng Việt Nam. Nhưng Việt Nam đang trong một
tình thế hiểm nghèo (vì Trung Quốc đè) và có đặc thù riêng cần làm rõ. Chủ
nghĩa “đặc thù” (exceptionalism) và “tiệm tiến” (Gradualism) cùng
với chủ nghĩa “cực đoan” (extremism) và “giáo điều” (dogmatism),
chính là những rào cản trước đòi hỏi đổi mới và tiến bộ. Sau nhiều năm cố gắng
đổi mới và hội nhập với thành quả đáng kể, Việt Nam đang tụt hậu so với láng
giềng. Tuy có nhiều tài nguyên và nguồn nhân lực, nhưng đất nước đang kiệt quệ
về tài chính và phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy hô khẩu hiệu “làm bạn với tất
cả”, nhưng Viêt Nam vẫn “thân
cô thế cô” (Bill Hayton), bị bắt nạt nhưng không có đồng minh bênh vực.
Trong khi sa vào “bẫy thu nhập trung bình”, Việt Nam vẫn chưa chịu thay đổi thể
chế.
Trật tự thế giới mới
Năm 2016 được đánh dấu bởi hiện
tượng “Brexitism” (tại Anh)
và Trumpism (tại Mỹ). Đó là
một xu thế mới tạo ra một bước ngoặt lịch sử, và mở ra một thời kỳ mới, không
chỉ đối với Anh mà cả Cộng đồng Châu Âu, không chỉ đối với Mỹ mà cả thế giới.
Toàn cầu hóa đang bị thách thức bởi chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy, các giá
trị và thành quả của nó đang bị phản bác. Tự do thương mại bị thay thế bởi chủ
nghĩa biệt lập (như America First).
Các giá trị dân chủ tự do (liberal democracy) bị thách thức, và nhân quyền bị
coi nhẹ. Trật tự thế giới đang thay đổi như một số học giả đã từng cảnh báo
trong cuốn “The End of History”
(Francis Fukuyama) hay “The End
of Power” (Moises Naim). Tuy có nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng hầu hết
đều nhất trí là trật tự thế giới mới bất an và bất định, thậm chí “vô chính phủ” (Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming Anarchy”,
Foreign Affairs, February 15, 2016).
Trong khi phương Tây và Mỹ đi
xuống (falling), thì phương Đông đi lên (rising) với sự trỗi dậy đầy ấn tượng của
Trung Quốc. NATO và EU phân hóa do tác động của Brexitism & Trumpism. Sau khi
Anh rút khỏi EU, Pháp cũng lao đao, còn Đức phải suy nghĩ lại về an ninh của
mình. Trong khi đó, Trung Quốc tranh thủ cơ hội, thách thức Mỹ và trật tự thế
giới do Mỹ cầm đầu, với “Giấc mộng Trung hoa” (China Dream) và bàn cờ lớn “Một
Vành đai, Một Con đường” (One belt, One road). Hiện nay, bán đảo Triều
Tiên, Biển Hoa Đông, và Biển Đông đã trở thành những điểm nóng như “thùng thuốc
súng” (powder kegs). Trước sự trỗi dậy đầy thách thức của Trung Quốc và sự rút
lui của Mỹ, Nhật buộc phải tự lo cho an ninh của mình bằng cách sửa đổi Hiến pháp (điều 9) để
có thể tái vũ trang. Đây là một thay đổi rất lớn trong bức tranh địa chính trị
Đông Á, có thể làm thay đổi cục diện chiến lược tại khu vực.
Trong bối cảnh đó, nhiều nước
phải điều chỉnh thể chế và chính sách để thích ứng với môi trường và trật tự
thế giới mới. Nhưng với nhiều người, thay đổi tư duy “đặc thù” là việc không hề
dễ. Người ta vẫn hành xử như “thời chiến tranh lạnh”, ngộ nhận về quyền lực và
vị thế của mình, mà không lường được hệ quả. Sự ngạo mạn và ngộ nhận quyền lực
không đúng lúc, đúng chỗ, sẽ dẫn đến tai họa. Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là
một ví dụ.
Mỹ có thể cử
biệt đội SEAL xâm nhập Pakistan để tìm diệt Osama Bin Laden (2/5/2011), và
Trung Quốc cũng có thể cử các biệt đội “Săn Cáo” (Fox Hunt) sang Mỹ và các nước
khác để săn lùng các quan chức tham nhũng của họ đang lẩn trốn. Nhưng Việt Nam
không phải là Mỹ hay Trung Quốc. Mình phải tự biết mình là ai và đang ở đâu.
Lúc này, Việt Nam đang trong một tình thế đầy hiểm nghèo, cả về kinh tế lẫn chủ
quyền Biển Đông. Trong một quan hệ bất đối xứng (asymmetric) các nước nhỏ hơn và yếu hơn càng
phải thao lược. Nói cách khác, đừng nên quá sợ Trung Quốc, nhưng cũng đừng nên
coi thường Đức, là đối tác chiến lược quan trọng nhất trong số các nước EU
(nhất là sau khi Mỹ rút khỏi TPP).
Theo các chuyên
gia, Trung Quốc đã ứng dụng “Tam chủng Chiến pháp” (Three Warfares doctrine)
bao gồm “chiến tranh tâm lý” (psywar), “chiến tranh pháp lý” (lawfare), và chiến tranh truyền thông (media warfare), để đạt được mục tiêu chiến lược.
Theo binh pháp Tôn Tử, thượng sách là “thắng mà không cần đánh” (winning without fighting). Trung
Quốc quen dọa nạt và bắt nạt (bluffing and bullying) các nước láng giềng tại
Biển Đông, cũng như tại Doklam (nơi đang diễn ra xung đột giữa Trung Quốc với
Ấn Độ và Bhutan). (Brahma
Chellaney, “Calling the Chinese bully’s bluff”, Project
Syndicate, August 8, 2017).
Việt Nam đi về đâu
Trong giai đoạn đổi mới lần thứ
nhất (từ 1986), đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính Châu Á (từ 1997), khi
kinh tế một số nước bị đình trệ thì Việt Nam nổi lên như “con hổ mới” ở Châu Á.
Nhưng đáng tiếc là chưa đầy 10 năm dưới thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
(2006-2016), kinh tế Việt Nam chưa kịp cất cánh thì đã lụn bại. “Con hổ mới” đã
biến thành “con mèo hoang”. Các nhóm lợi ích thân hữu đã lợi dụng thể chế
độc quyền độc đảng để lũng đoạn và tham nhũng, biến các tập đoàn kinh tế nhà
nước (những “quả đám thép”)
thành gánh nặng thua lỗ và nợ nần (như Vinashin). Mô hình kinh tế thị trường “định
hướng XHCN” đã đẻ ra một thứ quái thai là “tư bản đỏ”. Các nhóm lợi ích
được chính quyền bảo kê đã kết hợp “CNXH thân hữu” (là cái vỏ) với CNTB hoang dã
(là cái ruột) trong một cuộc hôn phối vụ lợi. Đoàn tàu cách mạng Việt Nam đã bị
chúng bắt cóc và bẻ ghi chạy theo một hướng khác.
Trong khi Trung Quốc cải cách
kinh tế thành công và “cất cánh” với mô hình phát triển mang “bản sắc Trung
Quốc”, được các học giả phương tây gọi là “nền độc tài bền vững” (resilient authoritarianism),
thì Việt Nam thất bại. Nguyên nhân vừa do thể chế bất cập (structural gaps)
giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, vừa do điều hành tồi (operational
failure) và quản trị kém (poor governance) cộng với tham nhũng tràn
lan. Một khi quyền lực và tham nhũng không bị kiểm soát, thì nó sẽ hoành hành
như con quái vật Frankenstein bị xổng. Tư duy “kiểu Việt Nam” dựa trên sự ngộ
nhận về tính “đặc thù” (exceptionalism)
và tư tưởng “giáo điều” (dogmatism), bị các nhóm lợi ích lợi dụng và
thao túng để trục lợi.
Cải cách hành chính bị vô hiệu
hóa bởi chống đối ngầm (passive resistance). Luật doanh nghiệp bị gây
khó dễ bởi các loại “quy trình” và “giấy phép con” (thậm chí vi hiến) được các
bộ ngành và địa phương đặt ra để trục lợi (rents seeking). Mọi việc đều
bị chính trị hóa. Thói quen tư duy (mindset) “kiểu Việt Nam”, và cách làm việc
“không giống ai” đã bị dập khuôn thành “quy trình” dựa trên danh nghĩa “hệ tư
tưởng XHCN” (như bất khả xâm phạm), nên rất khó thay đổi. Ví dụ cái “loa
phường”, ai cũng biết là đã quá lỗi thời, nhưng đến tận bây giờ người ta vẫn
chưa từ bỏ. Đó là những sản phẩm ý thức hệ từ thời “chính trị là thống soái”.
Kết quả là tài nguyên thiên nhiên
(“rừng vàng biển bạc”) đang cạn kiệt dần. Trong khi dầu khí, than đá, kim loại
(và kể cả cát) sắp hết, thì ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, nhiều nơi tới
mức báo động, như bờ biển miền Trung (bị ô nhiễm bởi Formosa), hoặc không khí ô
nhiễm tại Hà Nội. Tài chính quốc gia đang cạn kiệt: ngân sách thu không đủ chi,
dự trữ quốc gia chỉ đủ trả nợ đến hạn. Chính phủ không biết lấy tiền từ đâu để
đầu tư phát triển, trong khi viện trợ phát triển (ODA) đang cạn dần. Nạn tham
nhũng tràn lan đã làm giảm tín nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, và
lòng tin của người dân cũng đang cạn kiệt. Nhiều người cảm thấy bất an và bất
lực đành “bỏ phiếu bằng chân”. Mỗi năm có khoảng một trăm ngàn người bỏ đất
nước ra đi. Họ có thể là doanh nhân, trí thức, hay quan chức. Dòng người di cư
ngày càng đông đã gây ra nạn chảy máu chất xám và thất thoát tài chính. Cũng
như người Trung Quốc, người Việt đang đổ xô di cư sang Mỹ, Canada, Úc, Anh, và
các nước phương Tây khác.
Khủng hoảng kép
Trong tháng 7/2017, có hai sự cố
như “khủng hoảng kép” (double crises) vào thời điểm nhạy cảm, đặt Việt Nam vào
thế mắc kẹt. Thứ nhất là khủng hoảng do khoan dầu tại Biển Đông. Việt Nam đã
yêu cầu Repsol ngừng khoan thăm dò lô 136-03 trong vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc đe dọa tấn công các cứ điểm Trường Sa nếu
Việt Nam không chịu dừng. Dù ngừng tạm thời hay lâu dài, Việt Nam khuất phục
Trung Quốc về quyền khai thác dầu khí, do không có đồng minh bảo vệ, và không
đủ sức mạnh răn đe. Thứ hai là khủng hoảng ngoai giao Viêt-Đức. Việt Nam đã
dùng hạ sách bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin và đưa về nước (theo thông báo
của phía Đức) “như một bộ phim
hành động thời chiến tranh lạnh”. Đức đã phản ứng mạnh mẽ, lên án Việt Nam
vi phạm luật pháp Đức và quốc tế một cách “trắng trợn” (blatant) và “chưa từng
có” (unprecedented).
Vụ bắt cóc này
đang dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng chưa lường hết, vì cả hai phía đều đang
bị mắc kẹt. Chính phủ Đức coi vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là “không thể chấp
nhận được” (unacceptable) và “không thể bỏ qua”. Đức đang đặt mọi phương án
trừng phạt Việt Nam lên bàn (và chờ thái độ phản ứng của Việt Nam), đúng lúc
Việt Nam cần Đức ủng hộ Hiệp định tự do thương mại (EVFTA), cũng như
tranh chấp tại Biển Đông. Đức là đối tác chiến lược quan trọng nhất của Việt
Nam tại EU. Đối với Việt Nam,
EU là đối tác thương mại lớn thứ hai sau Trung Quốc và là thị trường xuất khẩu
lớn thứ hai sau Mỹ. Thương mại song phương Viêt-Đức tăng từ $10 tỷ (2006) lên
$48 tỷ (2016).
Sau khi TPP bị Mỹ bỏ rơi, thì có lẽ EVFTA là cái phao cứu sinh
duy nhất đối với Việt Nam. Nhưng, thủ tướng Angela Merkel có thể gây áp lực với
các nước EU phủ quyết EVFTA cho Việt Nam (dự kiến năm 2018).
Hiện nay, Viêt Nam đang bị bao
vây bởi quá nhiều vấn đề nan giải (như “thập diện mai phục”). Nhưng nan giải và
bức xúc nhất vẫn là vấn đề nợ công và Biển Đông. Việt Nam làm thế nào để trả nợ
và đối phó với nguy cơ vỡ nợ (nếu mất khả năng thanh toán) hay nguy cơ xung đột
Biển Đông do tranh chấp chủ quyền và khai thác dầu khí (không thể nhân nhượng)?
Liệu Trung Quốc có dám tấn công Trường Sa (như năm 1988) hay chỉ hù dọa bắt nạt
Việt Nam, theo kế “rung cây dọa khỉ” và “bất chiến tự nhiên thành” (trong Binh
pháp Tôn Tử)?
Tại hội nghị ngoại
trưởng ASEAN-50 (Manila, August 5-8, 2017), mặc dù bị cô lập trong lập trường
về Biển Đông, và trước sức ép của Trung Quốc, nhưng đoàn Việt Nam vẫn kiên trì đấu
tranh. Cuối cùng hội nghị ASEAN vẫn ra được Thông cáo Chung phản ánh được phần
nào quan điểm cứng rắn của Việt Nam về Biển Đông và về quy tắc ứng xử (COC),
làm Trung Quốc tức giận, hủy cuộc gặp chính thức giữa hai ngoại trưởng. Tuy
nhiên, Thông cáo Chung của ba ngoại trưởng Mỹ, Nhật, Úc (Manila, 7/8/2017) có
nội dung và lời lẽ cứng rắn hơn nhiều so với Thông cáo Chung của các ngoại
trưởng ASEAN (6/8/2017). Ba ngoại trưởng đã lên án hành vi “bồi đắp đảo và quân
sự hóa các thực thể đang tranh chấp”, và kêu gọi “quy tắc ứng xử Biển Đông phải
ràng buộc pháp lý, thực chất và hiệu quả”. (Laura Zhou, “China
Vietnam maritime tensions flare as foreign ministers meeting called off”, SCMP,
August 7, 2017
Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin tuy táo tợn nhưng “chuyên
nghiệp một cách vụng về” (too good too be true). Thứ nhất, họ tiến hành
giữa ban ngày tại công viên có nhiều người qua lại (rất lộ liễu). Thứ hai, họ
để lại smart phone tại hiện trường (có chứng cứ). Thứ ba, họ thuê xe có cài đặt
thiết bị GPS chống trộm (dễ phát hiện). Thứ tư, họ đưa Trịnh Xuân Thanh vào Đại
Sứ Quán Việt Nam (theo thông báo của Đức). Không biết đây là do sơ xuất của
những người thực hiện, hay là họ làm theo kịch bản của một đạo diễn “cao tay”, cố ý diễn kịch để khiêu khích chính
phủ Đức. Có lẽ đây là một nước cờ “gambit” trong “trò chơi vương quyền”
(game of thrones) đầy bí ẩn “kiểu Việt Nam”, trong khi có “đợt sóng
ngầm” (theo Lê Hồng Hiệp) đang diễn ra trước Đại hội Đảng Giữa kỳ. Khủng hoảng ngoại giao do sự kiện này
gây ra sẽ tác động tiêu cực đến quan hệ Viêt Nam với Đức (cũng như với EU), làm
cho quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của Việt Nam càng thêm khó khăn. Nó
vừa phản ánh khủng hoảng chính trị và đấu tranh quyền lực tại Việt Nam đã tới
đỉnh điểm, vừa bộc lộ khủng hoảng truyền thông và đấu đá phe phái, với nhiều
“tin vịt” (fake news) làm thật giả lẫn lộn.
Giải pháp khả thi
Gốc rễ của vấn
nạn tham nhũng là do chế độ độc quyền, độc đảng, bị các nhóm lợi ích thân hữu
thao túng để trục lợi. Trong một chế độ không có pháp quyền mà chỉ có đảng trị,
thì không thể kiểm soát được quyền lực, vì những người cầm quyền tự cho mình
đứng trên pháp luật và thao túng mọi quyền lực và nguồn lực xã hội, dẫn đến tha
hóa quyền lực, bất công xã hội và mất lòng dân. Nếu bắt và xử được một Trịnh
Xuân Thanh thì sẽ có mười Trịnh Xuân Thanh khác, nếu không thay đổi thể chế
chính trị. Vì vậy, để thúc đẩy cải cách thể chế (vòng hai), Việt Nam cần tập
hợp những “nhân tố thay đổi” (change agents) trong nước và ngoài nước thành một
liên minh những người cùng chủ trương cải cách thể chế (a coalition of like-minded
institutional reformers). Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng
vừa thành lập là một ý tưởng đúng hướng (nếu đó là thực chất), vì một chính phủ
“Kiến tạo” (Constructive government).
Đối với Việt Nam, lúc này có lẽ
Nhật là đối tác chiến lược quan trọng nhất làm đối trọng trước sự bành trướng
và bá quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, khi Mỹ không còn đáng tin cậy.
Nhật không
phải chỉ là một cường quốc kinh tế, mà còn là một cường quốc quân sự, sẵn sàng
hỗ trợ các nước Đông Nam Á duy trì cân bằng quyền lực tại khu vực này. Lợi ích
an ninh của Nhật tại Biển Hoa Đông song trùng với lợi ích chiến lược của họ tại
Biển Đông, nên cam kết an ninh của Nhật đối với Việt Nam và khu vực chắc bền
vững và đáng tin cậy hơn.
Vì Chính quyền Trump đã quyết
định rút khỏi TPP và có thể giảm cam kết an ninh với Châu Á, nên việc các nước
khu vực hợp tác chiến lược mạnh mẽ hơn với Nhật càng trở nên thiết yếu hơn bao giờ
hết để lấp vào chỗ trống đó. Các nước không chỉ cần tăng cường quan hệ song
phương mà còn phải lập ra một “Mạng lưới An ninh trên Nguyên tắc” (Principled
security network) như Tổng thống Barack Obama đã từng gợi ý, hoặc một “Mạng
lưới Liên kết mở” (Mesh Networks) như Anne-Marie Slaughter & Mira
Rapp-Hooper mới đề cập gần đây (“How America’s Asian Allies Can
Survive Trump”, Project Syndicate, January 24, 2017).
Cơ chế của một mạng lưới an ninh
khu vực như vậy phù hợp với mô hình an ninh tập thể và đối tác chiến lược, nhằm
đảm bảo sự tồn tại bền vững. Theo Anne-Marie Slaughter, ngay cả khi “một khâu
bị đứt thì hệ thống vẫn tồn tại”. Quan hệ an ninh song phương được tăng
cường giữa Nhật với Việt Nam cũng như các nước khác (như Mỹ, Ấn, Úc) là nòng
cốt để xây dựng một “Đối tác Chiến lược cùng Quan điểm” (Like-Minded Strategic
Partnership) bao gồm Mỹ-Nhật-Ấn-Úc và Việt Nam (AJIA+V). Một liên minh bền
vững như vậy là một đảm bảo thiết yếu cho sự thiếu hụt cam kết an ninh của Mỹ
đối với khu vực, cũng như là một răn đe hiệu quả đối với mối đe dọa ngày càng
lớn của Trung Quốc tại Biển Đông. Trong bối cảnh đó, thỏa thuận Mỹ sẽ cho tàu
sân bay thăm Cam Ranh (năm 2018) qua chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Ngô
Xuân Lịch (7-10/8/2017) tiếp theo chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc,
(31/5/2017) là một dấu hiệu răn đe, có thể làm thay đổi cuộc chơi (game
changer).
Việt Nam hoặc bất cứ nước nào khác cũng không thể một mình đương
đầu với Trung Quốc. Các nước có cùng lợi ích chiến lược tại Biển Đông phải liên
kết lại trong một liên minh để răn đe và ngăn chặn Trung Quốc bành trướng. Muốn duy trì hòa bình và ổn định tại
Biển Đông, không thể trông chờ vào Trung Quốc và ASEAN thỏa thuận một bộ quy
tắc ứng xử (COC) có hiệu lực. Trong mấy năm nữa, ít nhất cho đến hết nhiệm kỳ
của Tổng thống Donald Trump, khi khu vực còn nghi ngờ vào các cam kết của Mỹ,
nếu các nước này không hình thành được một liên minh gồm các nước có chung lợi
ích chiến lược như vậy, để đối phó với Trung Quốc, thì sẽ là quá ít và quá muộn
(như bài học dưới thời Tổng thống Barack Obama).
Thay lời kết
Những người cực đoan giống con gà
trống. Mỗi lần nó gáy thì thấy mặt trời mọc, nên nó ngộ nhận tưởng là do mình
gáy nên mặt trời mọc. Vì vậy, nếu nó chưa gáy mà mặt trời đã mọc thì nó rất tức
tối, cho rằng mặt trời sai, chưa gáy đã mọc. Những người cực đoan thường bảo thủ,
với tư duy “đặc thù”, nên không chịu lắng nghe. Họ có xu hướng luôn khẳng định
mình là đúng, còn những người khác là sai. Vì tư duy cực đoan và giáo điều, họ
tin rằng chỉ có họ mới có quyền phán quyết đúng sai. Những ai không giống họ và
không theo họ đều bị coi là phản động và thù nghich. Vì họ không chấp nhận đa
nguyên, nên khẩu hiệu “thêm bạn
bớt thù” là vô nghĩa. Nếu không tỉnh ngộ và thay đổi thì Việt Nam rất khó
hội nhập, sẽ cô đơn không có bạn bè mà chỉ có kẻ thù. Ngay bạn bè và đồng minh
cũng có thể biến thành kẻ thù.
Chính quyền Việt Nam tỏ ra quyết
liệt chống tham nhũng (tuy nhắm vào những đối thủ chính trị nhất định) nhưng
lại không chịu thay đổi thể chế chính trị (là nguyên nhân đẻ ra ra tham nhũng).
Trong khi chống tham nhũng, lãnh đạo Việt Nam sợ đánh “vỡ bình” (chế độ) nhưng
lại sẵn sàng đánh chìm cái thuyền kinh tế & đối ngoại (là cái phao cứu
sinh). Câu chuyện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ở Berlin là một ví dụ, bất chấp luật
pháp của Đức và quốc tế, có thể bị Chính phủ Đức trừng phạt, tuy Đức là đối tác
chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam tại EU. Khủng hoảng bất ngờ trong quan
hệ Đức-Viêt thật không đúng lúc khi Việt Nam rất cần Đức và EU để ủng hộ EVFTA,
và bênh vực Việt Nam đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông. Trong khi hô khẩu
hiệu “làm bạn với tất cả”, Việt Nam đang biến một đối tác tốt thành thù
địch. Đây là một nghịch lý chết người, mà chỉ có thể hóa giải được bằng thay
đổi thể chế.
Quyền lực và tham nhũng là hai
thứ khó kiểm soát, nếu không quyết thay đổi thể chế bằng cách thay mô hình đảng
trị (party rule) bằng pháp trị (rule of law) và pháp quyền (rule
by law). Nếu quyền lực không bị kiểm soát nó sẽ tiếp tục đẻ ra tham nhũng,
do quản trị yếu kém và thiếu minh bạch. Đó là nguyên nhân chính làm kinh tế thị
trường “định hướng XHCN” bị méo mó, đi trệch đường ray phát triển. Từ mô
hình phát triển (growth model) để “hóa rồng/hóa hổ” Việt Nam đã biến
thành “con mèo hoang”, với mô hình thất bại (failed state). Đó là bài
học đắt giá từ những “diễn biến tiêu cực” trong một thập kỷ qua, làm triệt tiêu
thành quả đổi mới của hai thập kỷ trước đó, làm Việt Nam vẫn sa lầy tại ngã ba
đường ý thức hệ.
Tham
khảo
1. Le Hong Hiep, “Asia’s Evolving Security Order”, Project syndicate, August 7, 2017
2. Brahma Chellaney, “Calling the Chinese bully’s bluff”,
Project Syndicate, August 8, 2017
3. Laura Zhou, “China Vietnam maritime tensions
flare as foreign ministers meeting called off”, SCMP, August 7, 2017
4. Anne-Marie Slaughter & Mira
Rapp-Hooper, “How America’s Asian Allies Can
Survive Trump”, Project Syndicate, January 24, 2017
5.
Robert Kaplan, “Eurasia’s Coming
Anarchy”, Foreign Affairs, February 15, 2016
6. Moises Naim, “the End of
Power”, Basic Books, New York, 2013
NQD.
12/8/2017
(Nguyễn
Quang Dy là Harvard Nieman Fellow 1993, hiện nay là nhà báo và nhà nghiên cứu
độc lập. Bài này viết theo chủ đề “Việt Nam và trật tự thế giới mới” để đóng
góp làm tài liệu tham khảo cho Hội thảo Hè 2017, và để đăng trên Viet-studies).
Tác
giả gửi cho Hội thảo Hè 2017 và Viet-Studies ngày 13-8-17
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment