----- Forwarded Message -----
From: MINHHA PHAM
To:
Sent: Friday, September 1, 2017 1:48 AM
Subject: Bắc Thuộc Mấy Lần? - Nguyễn-Xuân Nghĩa
From: MINHHA PHAM
To:
Sent: Friday, September 1, 2017 1:48 AM
Subject: Bắc Thuộc Mấy Lần? - Nguyễn-Xuân Nghĩa
Xuan Nguyen
Bắc Thuộc Mấy Lần?
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Việt Báo 07/09/2009
https://vietbao.com/a158386/ bac-thuoc-may-lan
Việt Báo 07/09/2009
https://vietbao.com/a158386/
(Bài viết này là cái gốc của khái niệm "giải ảo" trình
bày trên báo chí và các đài phát thanh sau buổi thuyết trình tại Houston cả năm
trước do lời mời của chư tăng Chùa Pháp Luân...)
Lạc nhà xa ngàn dậm... Mà chưa ra khỏi thời kỳ Bắc thuộc...
Với tấm lòng ái quốc vằng vặc và nghệ thuật cầm quân phi thường,
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn có để lại cho hậu thế một áng hùng văn là bài
"Hịch tướng sĩ".
Bài hịch được
viết năm 1284, sau ba hội nghị, tại Bình Than, Diên Hồng và Vạn Kiếp, để khích
động tinh thần quân sĩ trước khi lâm trận chống Nguyên Mông. Đó là cuộc tấn
công thứ nhì - được Mông Cổ chuẩn bị chu đáo hơn lần trước, vào năm 1257 rồi
vẫn bị đại bại. Ngày nay, đọc lại ánh văn chương vận động ấy của Trần Hưng Đạo
vương, chúng ta bỗng giật mình.
Ông mở đầu
với những tấm gương sáng để khích lệ tinh thần ba quân, mà lại dùng toàn...
gương Tầu. Nào Kỷ Tín, Dự Nhượng tới Uất Trì, Cảo Khanh... Sau đó là những tấm
gương Thát Đát, các danh tướng Mông Cổ...
Sao lạ vậy?
Từ thời Ngô
Quyền giành lại nền tự chủ năm 939 cho đến đời Trần thì dân ta đã viết sử. Gần
với Hưng Đạo vương nhất vì xuất hiện cùng thời là bộ "Đại Việt Sử Ký"
do Lê Văn Hưu soạn xong năm 1272, vào đời Trần Thánh Tông Mà nếu không viết ra
và vỗ thành bản để phổ biến thì dân gian cũng đã có biết bao truyền thuyết về
các tấm gương sáng của nước Nam...
Không thể nào đức Thánh Trần của chúng ta lại không biết được.
Là người vô cùng yêu nước, duy nhất được dân ta tôn thành Thánh,
vì sao Trần Hưng Đạo vương lại... nhập cảng gương Tầu?
Mà bậc danh nhân đáng kính của chúng ta không là người duy nhất.
***
Sinh sau Trần
Quốc Tuấn gần 600 năm, Cao Bá Quát là nhà thơ có tài, nổi tiếng về thái độ phản
kháng. Phản kháng đến độ nổi loạn rồi bị tru di tam tộc.
Con người ấy chẳng phải người thường. Hơn hẳn các vị tiền bối,
ông còn thấy được sự xuất hiện - và mối đe dọa - của Tây phương: được đi sứ ở
Giang Lưu Ba - có lẽ là Singapore - trong phái bộ của Đào Tri Phú, và đã thấy,
xin lỗi, "đĩ Tây" - tên một bài thơ chữ Hán ông viết khi đi sứ - hay
tầu thủy chạy bằng hơi nước của Âu Châu.
Cao Bá Quát
không chỉ cười khẩy làm thơ chửi đời và nói lời khinh bạc để chọc giận thiên
hạ. Ông cũng len vào dòng văn chương thù tạc của các quan trong triều và còn
viết nhiều bài luận dâng vua, không Thiệu Trị thì cũng Tự Đức.
Nếu đọc lại bài "Biên hoặc luận thư" ("thư luận
bác bỏ điều sai lầm"), viết sau năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), chúng ta
lại một phen giật mình: "chỉ có một mình tôi ngó lơ những điều cơ xảo của
Tây mà khách đem về".
Trong bài luận thuyết này - và nhiều bài khác nữa - Cao Bá Quát
khinh miệt mọi ảo diệu kỹ thuật Tây phương, như thuyền máy chạy bằng lửa, súng
máy đeo ở vai, gương soi ngàn dặm, chuông tự đánh tiếng, đèn không thắp mà
sáng, v.v... Chỉ vì, theo lý luận Cao Chu Thần - người nước Nam mà mơ làm bầy
tôi nhà Chu - thì "từ khi có có loài người đến nay, có gì ảo diệu hơn Hà
Đồ, Lạc Thư"? Bao nhiêu tiến bộ cao xa nhất về kỹ thuật thì trăm đấng
Thánh nhân đã làm trước cả rồi.
Nói lại cho gọn ý của họ Cao, thì chúng ta không nên sợ Tây
dương vì Tây dương man rợ không có Thánh nhân. Thánh nhân của Cao Bá Quát là
các vĩ nhân Trung Hoa. Ngần ấy tấm gương sáng trong lịch sử được ông nhắc tới
đều là từ lịch sử Trung Hoa.
Cao Bá Quát
tất nhiên không thể biết về người sau như Phan Đình Phùng, quan Tán lý Quân vụ
với học vị Tiến sĩ, hay Cao Thắng, danh tướng Cần vương với biệt tài học hỏi
những điều cơ xảo của Tây mà họ Cao khinh miệt
Nhưng ông không thể không biết về những trận đụng độ Trịnh
Nguyễn với sự yểm trợ của thương nhân và kỹ thuật Bồ Đào Nha hay Hoà Lan, hoặc
chiến công của quân Tây Sơn - "Ngụy Tây" theo sử đời Nguyễn - trên
Thất Kỳ Giang (sông Ngã Bảy) chống lại tầu chiến Pháp do Manuel (Mạn Hòe) điều
khiển. Ông càng không thể không biết về vai trò yểm trợ Nguyễn Ánh của Giám mục
Bá Đa Lộc.
Vậy mà Cao Bá Quát vẫn rung đùi nói nhảm về đỉnh cao văn hoá kỹ
thuật của Thánh hiền!
Có cái gì đó rất không ổn trong chúng ta.
***
Cái không ổn
là giành lại nền tự chủ từ phương Bắc sau ngàn năm Bắc thuộc, dân ta tiếp tục
tinh thần Bắc thuộc ngay trong thời kỳ độc lập.
Không, viết vậy là sai rồi, các phần tử ưu tú của nước ta mới
nuôi dưỡng tinh thần Bắc thuộc đó trong cách sống, suy nghĩ, tổ chức và giáo
dục... Người dân nôm na vô học thì còn bảo vệ cái "Việt tính" trong
sinh hoạt hàng ngày, chứ càng đỗ đạt cao là càng bay gần tới mặt trời ở phương
Bắc. Ngoại lệ như Quang Trung Hoàng đế thật ra rất hiếm, chứ quy luật quá phổ
biến là nhiều bậc anh hùng dân tộc đã đứng lên đánh đuổi ngoại xâm từ phương Bắc,
sau đó ngồi xuống trị nước theo kiểu Bắc phương.
Rồi con cháu cũng học trọn vẹn tinh thần chủ quan, kênh kiệu và
khinh miệt các dị tộc - y hệt người Hán.
Chỉ vì từ Lê
Văn Hưu trở về sau, các bộ sử lớn của dân ta đều được viết theo lối "thông
giám" của Tầu, của "kinh" Xuân Thu, tức là ghi sử để làm gương.
Mà làm gương theo nhận thức và tiêu chuẩn Trung Hoa nếu ta chịu khó đọc hết lời
bình của những sử quan khét tiếng như Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên.... Ký ức tập
thể được ghi thành sách của chúng ta để lưu truyền cho nho sinh sĩ tử là ký ức
đã được đãi lọc theo lăng kính Trung Hoa. Làm đúng như họ thì mới nên người.
Vì vậy mới có Cao Bá Quát - và còn bao danh sĩ khác!
Tính lại thì từ năm 939 của Ngô Quyền đến khi nước ta bị Pháp
tấn công lần đầu vào năm 1859, dân ta đã trải qua 920 năm sống trong không gian
hai chiều Nam Bắc. Nước Nam có quật khởi để giành độc lập thì sau đó cũng tự bổ
nhiệm các quan Thái thú, Thứ sử hay Tiết độ sứ bản xứ - dưới tên khác - để đảm
bảo là sẽ giáo dục và đào tạo nhân tài theo khuôn thước Trung Hoa. Mãi sau này,
khi đã bị Tây đô hộ rồi, nhiều người còn tiếp tục ngước nhìn lên phương Bắc để
tìm giải pháp cho những bài toán mới, của thời đại mới.
Cả ngàn năm như vậy mà không phải là kéo dài thời kỳ Bắc thuộc
sao?
***
Hãy nhìn lại một chút cái chuyện vật đổi mà sao không dời đó...
Khi Ngô Quyền giành lại nền tự chủ và xưng vương, rồi Đinh Bộ
Lĩnh tiến xa hơn để xưng Hoàng đế - ngang hàng các Hoàng đế Trung Hoa - thì
phần tử ưu tú và có học của nước ta chính là các nhà sư, là bậc quốc sư và
chiến lược gia đã góp phần xây dựng độc lập. Nhà Lý hình thành như vậy nhờ ảnh
hưởng rất lớn của tầng lớp trí thức theo Phật giáo. Đỉnh cao nhất của ảnh hưởng
này là vào đời Trần, với nhiều vị vua đã đi tu và coi việc chống giặc hay cứu
nước cũng là một cách giải nghiệp và cứu độ chúng sinh.
Nhưng sau đó?
Sau đó là sự xuất hiện của một tầng lớp ưu tú mới, những người
được giáo dục và đào tạo theo hệ thống khoa cử Trung Hoa - của nước Nam. Từ đó,
các nhà sư đã bước ra hoặc bị đẩy ra khỏi triều. Hết còn quốc sư hay thánh
tăng, họ mở chùa kín đáo nhỏ bé ở trong làng và chu toàn chức năng xã hội của
các trung tâm giáo dục hay y tế công cộng. Trong triều, các quan theo Nho học
đã lập ra một trật tự mới.
Trật tự đó đi tới đỉnh cao là vào thời Lê Thánh Tông và cứ thế
mà lụn bại dần, cho đến ngày Tây qua.
Nếu có đọc sử, ta thấy bàng bạc - không, lại sai rồi - thấy tràn
ngập những sử quan - quan điểm lịch sử - của các quan viết sử đã thấm nhuần đạo
Thánh hiền đến xương tủy. Họ phê phán Phật giáo, thậm chí cả các ông vua ưa xây
chùa in kinh là dị đoan, lãng phí công khố, là lạc đạo Thánh hiền.
Thật ra, lý luận "Tam giáo đồng nguyên" là một huyền
thoại - là chuyện không thật mà cứ được loan truyền.
Sự thật là tư tưởng Khổng nho đã thống trị và là khuôn phép độc
tôn trong hệ thống chính trị. Cao điểm của nền Bắc thuộc ấy là khi dân ta tiếp
nhận thứ Khổng nho nghiệt ngã chật hẹp nhất của đời Tống. Tinh thần Lão Trang
bị suy đồi thành Đạo giáo và bị đả kích là mê tín. Còn Phật giáo thì bị coi là
huyễn hoặc. Một bài luận đả kích Phật giáo xuất sắc nhất chính là của... Cao Bá
Quát. Học đúng phép danh gia đời Đường là Hàn Dũ, ông không tiếc lời mạt sát
đạo Phật để xiển dương đạo Thánh hiền.
Lồng trong hệ thống tư tưởng Bắc thuộc là tinh thần trọng nam
khinh nữ - lại sai nữa - là miệt thị phụ nữ. Và tự coi mình là cái rốn của vũ
trụ, đầy chất bài ngoại và kỳ thị các sắc dân thiểu số.
Trong cả ngàn năm, chúng ta học nguyên con và dạy lại trọn vẹn
các "giá trị" Trung Hoa như khuôn vàng thước ngọc. Nghĩ sai là thi
rớt, làm sai là mất chức... Hệ thống lý luận một chiều ấy chỉ nhằm củng cố
vương quyền... Bước khỏi ách thống trị ấy là manh nha có ý đồ làm giặc!
Thì cũng đành vậy, vì hoàn cảnh khó khăn của người xưa khi ít có
cơ hội tiếp xúc với bên ngoài để hiểu rằng ngoài vòm trời này còn có vòm trời
khác và không ai có độc quyền chân lý..
***
Nhưng ngày
nay?
Ngày nay, khi
thế giới không còn là không gian hai chiều Nam-Bắc mà đã tiến vào toàn cầu hóa
- với trăm ngàn giải pháp của các quốc gia dân tộc và nhiều nền văn hoá khác -
thì dường như chúng ta vẫn chưa thoát khỏi ách Bắc thuộc về tư tưởng.
Một biểu hiện
đầy nghịch lý là nhiều người theo Phật giáo đã tiếp nhận trọn vẹn tinh thần cực
đoan lạc hậu xa xưa khi lý luận rằng chỉ có Phật giáo mới có tinh thần dân tộc!
Hàm ý bên dưới: Công giáo chỉ là mũi xung kích văn hoá và chính trị của thực
dân. Lối phê phán đầy tính Bắc thuộc ấy là một bản sao của tư tưởng Hà Nội! Vì
gây chia rẽ ngay trong chúng ta.
Mà vẫn còn nhẹ.
Giải quán quân vô địch về ý chí nuôi dưỡng tinh thần Bắc thuộc
phải được giành cho lãnh đạo Cộng sản Việt Nam.
Khi tiến hành cách mạng và cải tạo, họ không học theo Liên Xô
hay đảng Cộng sản Pháp, Ý, hoặc Nam Tư, mà rập theo mẫu mực Mao Trạch Đông. Vì
vậy cũng "trăm hoa đua nở" - bách hoa tề phóng - rồi đàn áp văn nghệ
sĩ sau khi cải cách ruộng đất và đấu tố y hệt Trung Quốc.
Trong cuộc
chiến gọi là "chống Mỹ" năm xưa, họ chỉ muốn làm sáng danh "người
anh em phương Bắc". Nhà thơ Chế Lan Viên viết thẳng như vậy, có khác gì
bài biểu của nhà thơ Cao Bá Quát hơn trăm năm về trước? Anh em phương Nam giết
nhau tới cùng để đẹp lòng Thiên triều ở phương Bắc! Còn có sự lệ thuộc vào vĩ
đại hơn?
Sau chiến tranh và khi đã có độc lập, lãnh đạo Hà Nội vẫn không
có khả năng suy nghĩ độc lập.
Gặp bất cứ
vấn đề gì thì họ cũng ngửa lên xem Bắc Kinh giải quyết ra sao. Để rập khuôn áp
dụng. "Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" của Hà
Nội là bản sao của "Xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa" của Bắc
Kinh. Rồi tinh thần nô lệ tư tưởng, lại đi với đỉnh chung đốn mạt thời mở cửa,
mới dẫn đến chuyện nhượng đất nhượng biển, và rước giặc vào nhà để khai thác
bốc xít, cho dân bốc đất mà ăn...
Chúng ta muốn giải trừ nguy cơ Bắc thuộc đó thì phải tìm lên cái
gốc là tinh thần "Bắc thuộc tự nguyện", hiện đang thấm vào xương tủy,
não trạng và túi tiền của lãnh đạo Hà Nội.
***
Mà muốn giải trừ như vậy, thì ngay tại bên ngoài xin làm ơn lưu
ý đến một tiểu tiết phản ảnh một đại họa.
Nếp văn hoá
Đại Hán tự cho mình là cái rốn của vũ trụ, và Trung Quốc là trung tâm thế giới.
Hà Nội cúi đầu thần phục nên dùng chữ "Trung" trong mọi chuyện liên
hệ đến Trung Quốc. Là phận tôi đòi thì họ nói và viết như vậy - mà không biết
nhục.
Chúng ta thì có chữ "Hoa" đã dùng từ lâu, như "Hoa
kiều", "người Việt gốc Hoa", "chiến tranh Hoa-Việt"
hay..."Tân Hoa xã" - hệ thống thông tin của Bắc Kinh. Cớ sao ngoài
này vẫn có người nhanh nhẩu (ngu xuẩn là chữ chính xác hơn vì được báo chí Việt
ngữ thoải mái sử dụng) dùng chữ "Trung" của Hà Nội?
Quan hệ giữa
Trung Quốc với Việt Nam lại thành chuyện "Trung-Việt" hay sao? Khi
ấy, miền Trung của chúng ta là gì và làm gì? Cứ như vậy thì dịch "Xinhua
News Agency" hay "Agence Chine Nouvelle" ra... Tân-Trung xã hay
sao"
Dường như vì chểnh mảng sơ ý, chính tiềm thức của chúng ta cũng
chưa ra khỏi thời Bắc thuộc!
***
Thơ Trần Thái Tông - một hoàng đế anh hùng và là một bậc cao
tăng - có câu "lạc nhà xa ngàn dặm"... Ngày nay, ngồi ở trong nhà mà
ta vẫn có thể lạc nhà được. Thành thử, bao giờ chưa giải ảo thì dân ta còn tiếp
tục lang thang.
Dưới bóng rợp Trung Quốc.
(Viết cho Đặc san Quân Cụ, số 2, tháng Chín 2009)
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment