Đêm nay, Giáng Sinh lại về !
Mường Giang
Theo sử liệu, cách đây hơn 2000 năm, vào một đêm đông lạnh lẻo, Chúa Jésus đã được
sinh trong một máng cỏ, nơi cánh đồng cô quạnh. Nguyên do là
bà Maria tuy sắp tới ngày sinh đẻ nhưng vì có lệnh kiểm tra dân số của chính
quyền La Mã, nên phải rời thành phố đang ở là Nazareth, về quê hương tận Bethlehem,
vì vậy đã sinh Chúa giữa đồng. Tuy nhiên tới năm 350 sau TL, nhân loại mới thống
nhất được 25-12 là ngày lễ giáng sinh chung, tuy rằng mỗi nước mỗi địa phương đều
có những tục lệ khác biệt, theo tập quán phong tục riêng của họ.
Qua 200 năm đầu của Tây Lịch, các nhà thờ lúc đó đang kiểm soát gắt gao đạo Thiên
Chúa, đã không tổ chức Lễ Giáng Sinh. Lý do là không có ai
biết được một cách chính xác, ngày sinh của Chúa Jésus, ngay cả trong bốn “ Sách
Tin Mừng “, cũng không hề nhắc tới. Do trên các Giáo hôi chỉ để ý tới Cuộc Tử Nạn
và Mùa Phục Sinh của Chúa mà thôi.
Sau năm 201, mới bắt đầu có tổ chức mừng sinh nhật Chúa Hài Đồng. Tuy vậy giữa hai
Gíao Hội Ky Tô tại La Mã và Đông Phương, cũng không thống nhất. Nói chung, các
nước lúc đó thường tổ chức Lễ Giáng Sinh vào các ngày 6-1, 25-3 và 25-12.. tùy
theo tập quán lễ hội của quốc gia mình. Phải đợi tới giữa thế kỷ thứ 4, năm 335
sau Tây Lịch, cả hai Giáo Hội Thiên Chúa La Mã và Đông Phương, mới nhất thống,
cử hành Lễ Giáng sinh vào đêm 25-12 hằng năm, cho tới bây giờ.
Từ thời Trung cổ về sau, nhất là tại Âu Châu, lễ giáng sinh được tổ chức rất long
trọng và vĩ dại. Trong mùa lễ, khắp nơi đều có lập những sân khấu lộ thiên , để
các đoàn văn nghệ của giáo hội, trình diễn các tiết mục của thánh kinh . Nhờ vậy,nghệ
thuật diễn tuồng , kịch của Âu Châu được phát huy và quảng bá rộng rải. Tinh thần
Noel trên kéo dài tới cuối thế kỷ XVIII mới bị bãi bỏ. Dù vậy tới nay vẫn còn
nhiều phong tục xa xưa được chấp nhận như niềm tin rằng, trong đêm giáng sinh,
ma quỷ và các phù thuỷ không thể nào hãm hại được ai, ví đó là đêm bình an,
hoan lạc của thế nhân. Ngoài ra nếu đêm giáng sinh trúng vào mùa trăng non, thì
năm tới dân chúng làm ăn phát đạt trúng mùa. Ngày giáng sinh gặp nắng ráo thì cả
năm tới mưa thuận gío hòa. Trong đêm giáng sinh, nam nữ rủ nhau đi hái lộc non
của các cây nguyệt quế, trường xuân, đào kim chướng, chùm gởi.. qua niềm tin lộc
sẽ mang tới hạnh phúc cho họ.
Trong lúc đó thì mọi nhà, kể cả kẻ ngoại đạo, đều có tiệc tùng rất vui vẽ. Từ sau
đệ nhị thế chiến, bánh Buche de Noel, đã trở thành một thực đơn quen thuộc, không
thể thiếu trong bữa tiệc của đêm giáng sinh. Riêng lý do bánh có hình khúc củi
, cũng từ tập tục có từ thời trung cổ truyền lại, để con cháu nhớ lại thuở xưa
khắp Âu Châu, mọi người đều phải dùng củi để đốt lò sưởi, trong dịp sinh nhật
Chúa. Đây cũng là thời kỳ lạnh nhất trong năm, nên mọi ngưòi vừa đốt củi để sưởi,
vừa ngồi quanh lửa hồng để cầu xin ơn trên ban phước lành. Ngoài ra còn phải kể
tới món Gà lôi hay Gà tây, được mang từ Tân Thế Giới về Tây Ban Nha, từ thế kỷ
thứ XVI, và theo thời gian đã trở thành món ăn quen thuôc hằng ngày nhưng cũng
là đặc sản trong đêm sinh nhật Chúa.
Tuy cũng thuộc Âu Châu nhưng nước Nga với lãnh thổ rộng nhất hoàn cầu, chạy dài
từ Âu sang Á, nên khí hậu có tính cách đại lục. Mùa đông ở đây cũng khác biệt với
những lớp tuyết trắng phủ đầy , từ mặt đất lên cả mái nhà, còn mắt trời thì giống
như ngái ngủ , làm cho cả cảnh vật khắp nơi buồn hiu quạnh quẻ. Trước đây người
Nga theo Chính thống giáo và lịch riêng của mình, nên hằng năm đón giàng sinh
vào ngày 6-7/1. Hiện Liên Bang Nga đã xài lịch Gregorian, nên đón giáng sinh
cũng như các nước khác.. Theo truyền thống, người Nga có tục kiêng cữ ăn uống
trước đêm giáng sinh, trong đó có rượu Vodka và đường bị cấm tuyệt. Thời gian
này, mọi người chỉ ăn bánh Sochniki làm bằng đậu, được chiên bằng dầu thảo mộc
và uống nước lạnh. Rồi vào lúc 7 giờ tối đêm giáng sinh, khi mà khắp nước Nga,
mọi người nhìn thấy một ngôi sao nhỏ, xuất hiện trên bầu trời xám đục , lập tức
mọi người cầu nguyện . Sau đó quay quần bên bữa tiệc giáng sinh, sau kỳ ăn kiêng,
mà người Nga coi như một biểu tượng của 40 năm, Moses đã dẫn dân Do Thái đi
trong sa mạc mịt mù. Thời kỳ này, người Nga nào cũng đều làm việc từ thiện. Tại
Canada thời tiết cũng lạnh lẽo như bên Nga nhưng tuyết có rơi cũng chỉ là lất
phất vừa đủ rắc một vài lớp đá mỏng lên trên vạn vật, rồi dần tan ngay khi có
ánh nắng mặt trời. Bởi vậy khách du phương khi tới đây gặp mùa giáng sinh, bổng
thấy mình vô tình lạc vào cõi thần tiên, giữa rừng cây hằng xanh, của các pho
truyện cổ tích, mà các nghệ sĩ Âu Mỹ thường ca tụng là Pine, holly,mitlatoe.
Tại đây đâu đâu cũng tràn ngập hàng hóa dành cho ngày giáng sinh, tất cả đều rạng
rỡ dưới màu sắc của mọi màu. Đêm giáng sinh tại đây thật an bình, mọi người sau
khi dự lễ nhà thờ về, đều quay quần bên bàn tiệc với gia đình, bè bạn, trong ánh
lửa bập bùng của lò sưởi và các đèn màu mờ ảo từ các cánh thông nơi góc nhà. Ai
cũng vui vẻ hạnh phúc,nâng ly chúc tụng lẫn nhau, mặc cho ngoài trời giá lạnh căm
căm và tuyết rơi như mưa bụi, nhưng vẫn có những kẻ không nhà hay lỡ bước lang
thang.
1-LỄ GIÁNG SINH :
Mùa Giáng Sinh được người Đức gọi là “ Weihnachten”, tức là những đêm Thánh vô cùng.
Riêng những danh từ “ Natale “ của Y’, “ Noel “ của Pháp, “ Natividad “ Tây Ban
Nha hay “ Christmas của Anh, Mỹ, Canda.. đều có nghĩa là Sinh Nhật Chúa. Đây là
một lễ hội, được gắn liền với nhiều tục lệ cổ truyền, đã có từ ngàn năm trước
nhưng tới nay vẫn được chấp nhận. Nhờ đó đã giúp cho lễ Giáng Sinh đầy ý nghĩa
và thêm vui nhộn.
Lễ này bắt đầu từ các lễ hội dân gian truyền thống hằng năm của các dân tộc Âu Châu.
Năm 335, Hoàng Đế La Mã là Constantin khởi xướng, lấy ngày 25-12 làm sinh nhật
Chúa Jésus và đã trở thành ngày sinh nhật hằng năm của Đấng Cứu Thế. Thật ra lý
do chọn ngày 25-12 rất hợp lý, nhất là đối với các dân tộc sống bên hai bờ Địa
Trung Hải như Ai Cập, Syrie, Hy Lap, La Mã.. vì đây cũng là ngày kỷ niệm Vị Thánh
Bổn Mạng của Họ, tức là Vị Thần Mặt Trời Chiến Thắng Sol Invictus. Còn đối với
các xứ Bắc Âu, sau khi đã trải qua một mùa đông giá băng lạnh cóng, suốt những
ngày thu phân cho tới 25-12. Đây là thời điểm sắp giao mùa, giữa đông sang xuân,
ngày dài đêm ngắn, mà ai cũng thích, nên họ mở hội ăn mừng. Ngay người Ba Tư tận
Nam Á, cũng có phong tục mừng sinh nhật của Thần Ánh Sáng Mithras vào đúng vào
ngày 25-12 hằng năm. Nhưng lý so chính, khiến cho Hoàng Đế La Mã Constantin,
cũng như nhân loại, đã hân hoan chọn ngày trên làm ngày sinh nhật Chúa, nguyên
do vì năm đó, có ngôi sao Bethlehem đầu tiên, đã xuất hiện rực rỡ giữa bầu trời
đông băng giá.
-BÍ ẨN VỀ NGÔI SAO BETHLEHEM :
Theo thánh kinh, Bethlehem là ngôi sao lớn và sáng nhất giữa bầu trời, trong
đêm Chúa sinh ra đời. Vì vậy qua các tranh ảnh vẽ hình Chùa Jésus, bao giờ cũng
có một ngôi sao chiếu sáng rực rỡ . Chính nó đã dẫn đường Ba Vua tìm tới được
hang lừa, nơi Chúa ra đời trong một đêm đông lạnh lẽo.
Để tìm hiểu vị trí của ngôi sao Bethlehem, các nhà thiên văn học trên thế giới đã
dày công nghiên cứu, hiện tượng Supermova, tức ngôi sao mới sớm nở tối tàn. Đối
với bậc thông thái như Ba Vu, thì họ chẳng cần tới ngôi sao Bethlehem dẫn đường
mới tới được Jérusalem, vì họ là những nhà tiên tri biết được chuyện vị lai quá
khứ.
Tháng 5 năm thứ 5 trước TL, thiên văn học Trung Hoa lúc ấy đã ghi nhận được , sự
xuất hiện của một ngôi sao chổi đặc biệt , đang quét trên bầu trời Nam Dương, trong
suốt 70 ngày. Đây cũng có thể là thời gian Ba Vua đang trên đường tới hang đá ở
Bethlehem ? Tất cả đều là sự bí ẩn, vì không ai biết được chính xác ngày sinh của
Chúa Jésus. Nhưng năm 1604, nhà toán học Johannes Keeper, đã tính được vị trí của
các hành tinh thời Chúa ra đời. Ngoài ra đối với các tín đồ Thiên Chúa Giáo
xưa, thì sao Vệ Nữ còn được gọi là Sao Hôm, mọc trước bình minh, được coi như
là một biểu tượng của đấng cứu thế. Có lẽ ngôi sao Bethlehem, chẳng qua chỉ là
sự hội ngộ của hai ngôí sao sáng nhất trong Thái dương hệ. Đây là một giả thuyết
hợp lý nhất, chứng minh sự hiện hữu của ngôi sao Bethlehem, chỉ có trong huyền
thoại.
Nhưng dù có hay không, ngôi sao Bethlehem cũng vẫn là hình ảnh đặc biệt, trong dịp
lễ giáng sinh. Đã có nhiều cuộc thi trên thế giới, qua đề tài tìm hiểu về nguồn
gốc của ngôi sao trên.Tại Palmerlake ở Tiểu bang Colorado vào năm 1934, đã dựng
một ngôi sao Hòa Bình, trên một khu vực rộng tới 500 bộ, trên sườn núi Sandance
Deak. Tại thành phố Bethlehem thuộc Tiểu bang Pennsylvania, cũng có dựng một
ngôi sao lớn, trên công viên Zinzendorf, từ ngày 4/12 tới 2/1 năm tới, mới bị dẹp.
-CÂY GIÁNG SINH :
Trước khi đạo Thiên Chúa vào Âu Châu, thì trong các cuộc lễ hội tại Ý, Tây Ban Nha
và nhiều nước khác, người ta dùng hoa để trang hoàng. Nguyên do vì quan niêm của
nhà thờ lúc đó, cho rằng thông có liên hệ tới nhiều tôn giáo khác . Còn Thụy Điển
thì bảo cây thông là biểu tượng của chết chóc và tang tóc. Ngoài ra cũng được
coi là cây giáng sinh, còn có cây ô rô cũng thường được dùng để trang trí trong
mùa lễ. Sở dĩ nó được chọn như thông, vì những chiếc lá gai gốc của ô rô, rất
giống chiếc vòng gai của Đấng Cứu Thế, còn những quả màu đỏ mọng, lại được coi
như những giọt máu tươi chũa Chúa khi bị đóng đinh trên cây thập tự giá.
Bắt nguồn từ cây Sapin ở Bắc Âu, cây thông đã được người Thủy Điển mang vào nước
Đức , trong cuôc chiến 30 năm (Gueere de Trente Ans). Theo sử liệu của Đức, thì
cây thông chính thức được nhắc tới năm 1605. Tuy nhiên thực tế trước đó, người Đúc
vùng Elsass và Hắc Lâm, theo đạo Thiên Chúa Cải Cách của Mục Sư Martin Luther
(1483-1546), đã dùng cây thông để trang trí trong ngày lễ giáng sinh. Chính
Luther là người đầu tiên đặt những ngọn nến lên cây giáng sinh và gọi đó là những
biểu tượng của các vì sao trong đêm sinh nhật. Ngoài ra cây thông còn là biểu
tượng của dân Đức chống lại Nã Phá Luân.
Đến thế kỷ thứ XIX, thông theo đoàn quân viễn chinh của Phổ, vượt biển Manche vào
quần đảo Anh Cát Lợi và Ái Nhĩ Lan. Thông sau đó lại được công chúa nước Anh là
Mercklembourg, khi thành hôn với công tước Orléans, đã mang thông vào nước Pháp.
Cũng từ đó, thông chính thức được thay thế các loại hoa, để trang trí vào dịp lễ
giáng sinh. Cũng theo sử liệu, thì việc trang trí bánh kẹo trên cây giáng sinh
tại nước Anh, bắt đầu từ thời Nữ Hoàng Victoria. Năm 1880, hãng Wooworld của Mỹ,
lần đầu tiên khởi xướng đầu tiên việc bán các đồ vật treo trên cây giang sinh.
Năm 1882 bóng điện được thay nến để trang trí. Tai Mỹ, Calvin Loolidge là vị tổng
thống đầu tiên, thắp sáng cây thông trồng phía ngoài Tòa Bạch Ốc vào năm 1923.
Thông hiện nay là một biểu tượng của mùa giáng sinh, được trưng bày hầu hết mọi
nơi, từ công sở, chốn công cộng, các cửa hiệu cho tới trong gia đình. Tại Hoa Kỳ
vào dịp lễ giáng sinh,, dân chúng tiêu thụ khoảng 20 triệu cành hay nguyên cây thông.
Với chiều cao 67,4m cây thông được coi là cao nhất thế giới, được dựng tại
Northgate Shopping Center, thành phố Seatle, Tiểu bang Washington. Đài Loan và
Nam Triều Tiên, hiện là hai quốc gia Á Châu sản xuất nhiều thông giả nhất thế giới,
trong khi các Tiểu bang North Carolina, California, Pennsylvania, Wiscosine,
Michigan, Oregan.. trồng nhiều thông nhất Liên Bang, để cung cấp cho dân Mỹ
trong mùa lễ giáng sinh.
-BÀI THÁNH CA BẤT HỦ :
Tiếng Anh gọi các bài hát giáng sinh là Carol, tiếng Pháp là Noels, còn Ý là Pastorelles,
người Đức thì gọi Kristlieder.. Nhưng dù có gọi bằng thứ ngôn ngữ gì chăng nửa,
thì nguồn gốc vẫn từ các nhà thờ xưa, nơi thường diễn các vở kịch để nhớ về
ngày sinh và cuộc đời Chúa Jésus, có kèm theo những bài hát vui tươi. Ngày nay
có rất nhiều Thánh Ca nổi tiếng như The First Nowell, God Red Ye Merry, Gentlemant..
và trong số này, bài “ Silent Night , Holy Night “ muôn đời vẫn được thế giới
xưng tụng là bài thánh ca bất hủ.
Tại Âu Châu ngày nay, đêm giáng sinh ngồi quanh ánh lửa bập bùng chờ lễ. Các cụ
thường kể cho con cháu nghe xuất xứ của bài thánh ca nổi tiếng. Trong lúc đó, khắp
mọi nơi trên thế giới, từ các miền băng giá tuyết phủ, cho tới những khu rừng
nhiệt đới âm u. Từ các đô thành phố thị muôn sắc muôn màu, cho tới hải đảo cô
thôn tịch mịch . Đâu đâu nhân loại qua ngàn vạn ngôn ngữ khác nhau, cũng đều cất
cao giọng hát , bài thánh ca bất hủ “ Tille Nacht, Heilige Nacth, Silent Night,
Holi Night, Douce Nuit, Sainte Nuit.. hay Đêm đông lạnh lẽo Chúa ra đời. Lời ca
thánh thoát, lôi cuốn kỳ diệu, cuồn cuộn ra muôn vạn ý thơ, không khác gì hoa
tuyết đang là bay lã chả, trên những mái nhà củ kỷ, của vùng quê miền Savoice
nước Áo, vào mỗi độ giáng sinh về.
Năm 1818 tại ngôi làng nhỏ Oberndorf, thuộc Tyrol (Áo). Ở đây, quanh năm tuyết phủ
trắng xóa. Tại ngôi nhà thờ nhỏ trong làng, đêm giáng sinh năm đó, vì cây đàn
duy nhất của nhà thờ bi hư, nên cha Joseph Mohr đã viết bài ca thay thế, bằng
sáu câu thơ giản dị. Bài hát được Franz Gruber, một thầy giáo già cùng làng phổ
nhạc. Sau đó bài hát được phổ biến quanh vùng, rồi lan khắp nước Áo cùng các xứ
lân cận. Tuy nhiên chẳng có ai truy nguyên xuất xứ, vì họ nghĩ rằng, đây chỉ là
một bài dân ca xưa.
Mãi tới năm 1830, bài hát tình cờ lọt vào mắt Vua Nước Saxe. Ngài cũng là một nhạc
sĩ tài danh thuở đó, nên sau khi nghe được bản nhạc, đã quyết định lập một Ủy
Ban Đặc Biệt, đi khắp nơi để truy tìm xuất xứ . Vì vậy mới tìm được tác giả trong
ngôi làng nhỏ nghèo là Oberndorf.
-MÁNG CỎ VÀ HANG ĐÁ :
Qua bao nhiêu thế kỷ ,mỗi năm cứ vào mùa giáng sinh, các tín đồ đạo Thiên Chúa đều
dựng lại khung cảnh Chúa ra đời., trong máng cỏ. Nhưng tuy cùng một tín ngưỡng,
người Nhật dựng máng cỏ qua một đám rước, do các Samourai thực hiện, gần giống
như người Esquimo ở miền bắc Canada, tạc tượng Chúa Hài Đồng bằng băng, rồi đặt
nằm trên một chiếc xe trượt tuyết. Riêng Giáo Hội Đông Phương vì ảnh hưởng nghệ
thuật Byzantin, nên đặt Chúa nằm trong một hang đá chứ không trong chuồng bò tại
Palestine. Ngoài ra tượng Mẹ Maria thì đặt nằm trên một cái nệm, qua trạng thái
mệt mỏi yếu duối của một sản phụ, vừa mới sinh xong.
Theo truyền thuết, Thánh Francois là người đầu tiên, đã sang tạo ra Máng cỏ vào
năm 1223 tại làng Greccio, vào đêm giáng sinh. Nhưng phải đợi tới thời Vua Charles
III của thành Naples, Máng cỏ mới đạt tới thời hoàng kim, suốt thế kỷ XVIII. Vì
được triều đình chú trong và nâng đỡ, việc làm Máng cỏ trong mùa giang sinh,
không những được phổ biến trong cung nội, dinh thự văn võ bá quan, mà còn bành
trướng ra ngoài xã hội, từ giới sang giàu trí thực, xuống tận người nghèo bình
dân, trở thành một mốt thời thượng cho hạng lắm của nhiều tiền.
Phong trào dựng Máng cỏ trong đêm giáng sinh, từ đó lan tràn khắp các nước Âu Châu,
khién cho dân thành Naples phải kéo nhau đi làm công, khắp các thành phố lơn
như Aix En, Provence (Ý), Olot (Tây Ban Nha), Oberammergau (Đức).. Hằng năm, tại
khu vực Canabière, trong thành phố Marseille của Pháp, đều có tổ chức “ Hội Chợ
Máng cỏ “, từ tháng chạp tới giàng sinh. Hiện nay trong Viện Bảo Tàng Naples và
trên Đảo Sicile (Ý), Munich (Đức), còn lưu trữ nhiều bộ sưu tập “ Máng cỏ “ được
hình thành qua nhiều thời đại tuyệt đẹp. Thang 12/1996 tại phi trường Orly, danh
họa Salvador người Tây Ban Nha, đã triển lãm một máng cỏ giống như tai người khổng
lồ, trong đó chứa toàn bộ những nhân vật huyền thoại của già đình Chúa Jésus.
Tóm lại dù củ hay mới, hình ảnh máng cỏ cũng gợi cho chúng ta, sự trong sáng của
tâm hồn giữa cảnh nhiễu nhương và man trá.
Năm 1975 có một nhóm thợ lặn ở làng Laveno thuộc miền Bắc Ý, đã đặt một tượng Chúa
dưới đáy hồ Majeux, sâu 23m, trong vùng Lombardie, sát biên giới Ý-Thụy Sĩ. Từ
đó mỗi năm tới đêm giang sinh, các thợ lặn lại đem thêm tượng Chúa xuống đặt dưới
đáy hồ.Năm 1978 cũng nhóm thợ lặn trên, đã đặt dưới đáy hồ sâu 3m gần bờ, một
máng cỏ trong đó có ba tượng Joseph, Maria và Chúa Jésus. Tính tới nay, số tượng
Chúa dưới đáy ho Majeux đã có 42 tượng và nhiều máng cỏ. Những tượng này được tạc
bằng đá trắng Vicence ở Bắc Ý, nặng trên 15 tấn. Lễ hội hằng năm tại dây vào
đêm 24 -12, thu hút hằng trăm ngàn du khách và tín đồ. Trong lúc trên bờ tiếng
chuông nhà thờ đổ dồn dập, thì dưới làn nước sâu lạnh lẻo, máng cỏ Noel ân hiện
chập chờn , lung linh huyền ảo theo từng cơn gió thoảng.
-ÔNG GIÀ NOEL VÀ TỤC TẶNG QUÀ GIÁNG SINH :
Đó là một người có thật, sau trở thành Thánh Nicholas sống vào thế kỷ thứ 4 sau
TL. Ông tên thật là Santa, sinh tại Patara thuộc miền Lycya những sống tại
Myra, nay thuộc Thổ Nhỉ Kỳ. Theo sử liệu , ông là người có tính tình vị tha
nhân ái, thường lấy tài sản của mình, để phân phối cho người nghèo, trẻ em. Vào
mùa lễ giáng sinh, ông thả những túi đựng tiền vàng , xuống ống khói lò sưởi
hay ném qua cửa sổ, những bít tất dài trong đó dựng đầy quà, dành cho trẻ em
nghèo. Năm 325 ông được phong chức giám mục tại Nicaca nhưng lúc qua đời thì
chôn tại nhà thờ Myra và được phong thánh. Cũng từ đó, trong mùa lễ phục sinh,
tòa Thánh La Mã đã phối họp mừng chung với thánh Nicholas. Năm 1087, người ta
đánh cắp thi hài của ông, đem về chôn tại nhà thờ Bari của nước Ý. Sự kiện trên
càng làm tăng thêm mức khả tín của người Âu Châu đối với nhân vật huyền thoại
Santa. Do đó ông trở thành vị Thánh bổn mạng của Hy Lạp và Nga. Nhiều thành phố
lớn như Fribourg (Thụy Sĩ), Mạc Tư Khoa (Nga).. đều tôn vinh Santa như vị cha
già. Uy tín to lớn của ông đến nổi, ngay từ tời Hoàng Đế La Mã Jutinta 1, trị
vì thế kỷ thứ VI, cũng đã cho xây nhà thờ tại Constantinople. Từ đó về sau, khắp
thế giới, đã có hằng ngàn nhà thờ lớn nhỏ, mang tên ông .
Nhưng từ khi đạo Tin Lành ra đời tại Âu Châu, thnh Nicholas bị xem là người của
đạo Thiên Chúa, nên không còn được tôn trọng, trừ Hòa Lan. Từ đó, lại có các
ông già Noel khác ra đời như Weihnachtsmann (Đức), Pere Noel (Pháp), Father Christmas
(Anh), Santa Claust hay Saint Nick (Hoa Kỳ).. Tuy nhiên dù được mang một tên gì
chằng nửa, thì củng chỉ một hình thức biến dạng từ chữ gốc Saint Nicholas mà
thành. Tại New York, những người Mỹ gốc Hòa Lan, được coi là dân tộc đầu tiên
mang ông già Noel từ Âu Châu vào Bắc Mỹ. Họ gọi thánh Nicholas là San Nicholaas,
sau đó là Sant Klaus và cuối cùng trở thành Santa Claus tời ngày nay.
Ngoài đời ông xuất hiện như một người bình thường. Đó là ông già béo tốt, râu tóc
bạc phơ nhưng đôi má lại đỏ au, luôn mặc bộ quần áo đỏ, tượng trưng cho hạng người
vui vẽ, độ lượng và chân thành. Vì xuất phát từ miền bắc cực, đúng vào mùa đông,
nên thường ngự trên một chiêc xe tuyết do bốn hay sáu con hươu kéo đưa ông dạo
chơi khắp nơi. Đặc biệt trên vai ông lúc nào cũng vác một chiếc bị lớn đựng quà
bánh và đồ chơi cho các trẻ em.
Cũng liên quan tới ông già Noel, có tục tặng quà trong mùa lễ giáng sinh. Đây cũng
là một tập quán lâu đời của người La Mã cổ, với thói quen hay tặng quà cho nhau,
trong các dịp lễ hội hay Tết Dương Lịch. Ngoài ra theo truyền thuyết ghi trong
kinh thánh, sau khi Chúa sinh ra đời được 12 ngày, thì ba Vua mới mang lễ vật tới
chúc mừng. Vì vậy ngày nay, tại các nước Ý, Tây Ban Nha và nhiều nước theo Ky
Tô giáo, trẻ em nhận được quà sau khi giáng sinh , đã qua 12 ngày.
Tại Hoa Kỳ, năm 1822 thi sĩ Clement Moore đã viết bài thơ “ Đêm Trước Giáng
Sinh “ đưa thêm uy tín của Thánh Nicholas lên đỉnh yêu thương của mọi người,
còn họa sĩ nổi tiếng Nast, qua các bức hí họa, làm cho hình ảnh của ông già
Noel, càng đi sâu vào tâm hồn của người trần thế.
-TỤC KÉO CỦI VÀ ĂN ĐẦU HEO :
Trong đêm Giáng Sinh, người Bắc Âu sẽ cùng nhau kéo một khúc gỗ sồi , được mang
từ rừng về, gây nên cảnh tượng rất vui nhộn khi mọi người gặp nhau đều ngả nón hay
cười vui chào hỏi. Tại nhà, khúc củi được đốt lên bằng mồi lửa được giữ từ tro
than năm ngoái. Khúc lửa này sẽ được chủ nhân giữ trọn năm, vì mọi người đều tin
rằng lửa sẽ giữ được cho ngôi nhà của họ quanh năm được ấm cúng hạnh phúc, tránh
được tật bệnh thiên tai từ bên ngoài đem tới.
Cũng ở Bắc Âu ngày xưa, người ta tin rằng Vị Thần Điều Khiển Ngũ Cốc cư ngụ ở trong
đầu heo, nên cứ đến ngày lễ Giáng Sinh, lại có tục giết heo làm thịt ăn, với hy
vọng mùa màng thêm trúng. Ngày nay vùng này, trong đêm lễ, chiếc đầu heo thật
được thay bằng những ổ bánh hình con heo.
2-KINH THÁNH VÀ CHỮ THẬP :
Theo từ nguyên của danh từ “Bibble” của Hy Lạp, thì kinh thánh có nghĩa là những
cuốn sách nhỏ. Theo truyền thuyết, thì kinh thánh được liên tục viết trong 1600
năm, khởi đầu từ năm 1513 trước TL, cho tới năm 98 sau TL. Hiện nay còn truyền được
66 cuốn, mà quyển đầu tiên là kinh “Sáng Thế Kỷ”. Kinh này thuật lại câu chuyện
mất vườn địa đàng, do sự phản nghịch của ông Adam và bà Eva. Còn cuốn cuối cùng
là kinh “ Khải Huyền “, trình bày địa cầu sẽ trở lại cảnh địa đàng,qua sự chăm
sóc của Chúa. Thật ra câu chuyện vườn địa đàng là ám ảnh và nổi bưc xúc của
nhân loại hơn 2000 năm qua, và họ cứ mãi miết đi tìm, từ những ốc đảo, rừng rậm
cho tới miền núi đồi băng giá. Cuối cùng khắp các nơi chốn đi qua, con người lại
mang thêm niềm nhớ muôn thu, khi cảm nhận được sự lầm lẫn đã đánh mất cõi thiên
đàng.
Cho tới thế kỷ thứ 16 sau TL, , vẫn chưa có ai thắc mắc về sự việc liên quan tới
vườn Eden trong kinh Sáng Thế Kỷ, trái lại người ta càng ra sức tô bồi thêm thắt
câu chuyên cho phong phú diễm tình. Nhà tiên tri Ezechiep đã viết “ trong vườn địa
đàng, ở hai bên bờ dòng thac, mọc lên mọi thứ cây ăn quả, không bao giờ héo úa,
cạn kiệt , năm tháng đều cóthu hoạch mới..”. Chính những lời tiên tri đó, thúc
đẩy con người thực hiện những giấc mộng đi tìm thiên đàng, trong nổi mơ hồ lãng
mạng cho tới hôm nay, vẫn còn chưa hề nao núng, dù thực tại vẫn là ảo vọng.
Trong 66 cuốn kinh thánh, 39 cuốn đầu tiên viết bằng tiếng Hebrew, một phần nhỏ
khác dùng chữ Aram. Còn 27 cuốn cùng mới dùng chữ Hy Lạp. Năm 280 trước TL,
kinh thánh được dịch toàn bộ ra chữ Hy Lạp, gọi là bản Septuagint. Sau cùng lại
được dịch ra chữ LaTinh. Ngày nay kinh thánh được dịch ra 1700 thứ tiếng, với số
ấn bản hằng tỷ cuốn, lưu hành khắp thế giới. Tóm lại kinh thánh co 31.102 câu,
1189 chương, chia thành 66 tập, chương ngắn nhất là chương thanh thi 117 và
chương 119 dài nhất.
Riêng chữ thập được coi như một biểu tượng phong phú nhất của con người. Chính
truyền thống Thiên Chúa Giáo đả làm giàu ý nghĩa của chữ thập. Trong các tranh ảnh
nói về đạo Ky Tô, chữ thập diễn tả nhục hình cũng như nổi thống khổ của đấng cứu
thế. Hiện nay trên thế giới có 4 loại thánh giá và mỗi thứ mang riêng một ý nghĩa.
Thánh giá có hình chữ T, tượng trưng cho con rắn bị đóng trên một cây cọc, nói
về sự tử vong. Thánh giá có một thanh ngang, hiện được lưu dùng khắp thế giới,
đó là thánh giá của phúc âm, tượng trưng cho 4 yếu tố căn bản của con người và
sự bành trướng của đạo thiên chúa khắp 4 hướng. Chân thánh giá chôn dưới đất là
nền tảng của đạo, nhánh trên là hy vọng hướng về thiên chúa, thanh ngang là
tình yêu vươn lên với kẻ thù, còn bề dài nói về sự bền chí. Loại thánh giá có
hai thanh ngang, thanh trên có ghi dòng chữ của Ponce Pilate “ Jésus thành
Nazareth, vua Do Thái “ , còn thanh dưới là chỗ tựa tay của Chúa trước khi chết
. Thánh giá này còn được gọi là Anjou hay Lorraine, một biểu tượng của nước Pháp
từ năm 1473. Trong thế chiến 2, lực lượng liên minh tự do kháng chiến của De
Gaulle cũng dùng quân hiệu với màu đỏ, đối nghịch với quân Pháp đã đầu hàng Hitler,
dùng phù hiệu chữ vạn ngược màu đen. Cuối cùng là thánh giá có ba thanh ngang,
tượng trưng cho kỷ cương của đạo, tương xứng với ba vòng mủ của Giáo Hòang, Hồng
Y và Giám mục. Từ thế kỷ thứ XV về sau, theo luật của Tòa Thánh La Mã, theo đó
chỉ có Giáo Hoàng được đeo thánh giá ba thanh ngang, Hồng Y đeo thánh giá hai
thanh ngang và Giám Mục trở xuống đeo thánh giá một thanh ngang. Tuy nhiên cũng
tùy theo địa phương, với giáo hội La Mã thì thánh giá gồm một một dài một ngắn.
Giáo hội Phương Đông có hai thanh bằng nhau. Đặc biệt tín đồ thiên chúa giáo
vùng Saint André, mang thánh giá hình chữ X.
3-NHỮNG BỨC TRANH VÔ GIÁ VẼ MẸ MARIA VÀ
CHÚA JÉSUS :
Ngoài người Ai Cập, La Mã và Trung Hoa, dân tộc Hy Lạp cũng mang tính nghệ sĩ độc
đáo qua mọi thời đại và đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật ngay từ thế kỷ thứ 5
trước TL. Nhưnng từ khi Ky Tô giáo từ vùng cận đông du nhập vào Âu Châu, đã làm
có nhiều thay đổi quan trọng trong nghệ thuật, suót thời trung cổ, kéo dài từ
thế kỷ thứ V ố XV sau TL. Đây cũng là giai đoạn các nhà nghệ sĩ đã chuyển từ chủ
nghĩa Duy Nhiên sang vẽ Bích và Minh Họa các vị Thánh, đạt tới mức hoàn mỹ.
Tuy nhiên vì các đề tài đều do đơn đặt hàng của Tòa Thánh hay nhà thờ, cho nên hầu
hết đều mang tính ước lệ , kiểu mẫu từ hình thức cho tới nội dung.
Sau thời trung cổ, nhờ các họa sư người Ý như Giotto, Leonard de Vinci, Raphael
Santi.. đã có công lớn trong việc làm sống đọng nghệ thuật Ky Tô giáo, từ thời phục
hưng cho tới ngày nay, qua các họa phẩm về Mẹ Maria, Chúa Jésus,bằng cách mượn
ngay hình ảnh của người bình thường, để làm mẫu vẽ. Với Leonard de Vinci, ông
đã thành công tuyệt mỹ , qua bức tranh “ Đức Mẹ Thành Benoir “ , khi mượn hình ảnh
hiền dịu khả ái của một thiếu phụ trẻ, đang mỉm cười nhìn cánh hoa đang hé nở
trong tay đứa bé. Toàn bộ bức tranh thật linh hoạt sống đọng, qua hình ảnh người
thiếu phụ tượng trưng cho mẹ Maria. Nhưng ý nghĩa nhất vẫn là đôi mắt của Chúa
Hài Đồng, lúc chăm chú nhìn vào cánh hoa, đồng thời đưa một ngón tay khẻ chạm
vào nó, như sợ vuôt mắt niềm tin quý báu. Bức tranh này về sau được gọi “ Tranh
Đức Mẹ Với Cành Hoa “, khác biệt với những tranh mẫu trước thời phục hưng. Ngoài
ra Vinci còn sáng tạo nhiều tuyệt tác phẩm khác như “ Đức Mẹ Lita, Đức Mẹ và
Thánh Ana “ , tới nay cũng vẫn còn là đỉnh cao của nghệ thuật.
Đồng thời với Vinci, còn có họa sư Raphael Santi, cũng là người Ý và cũng sáng tạo
chung một đề tài về Đức Mẹ và Chúa Jésus. Tuy nhiên phong thái của hai người hoàn
toàn khac biệt, do tính chất nghệ sĩ cá nhân của mỗi người. Trong lúc Vinci sống
nơi phố phường đô hội, trái lại Raphael thì sinh và trưởng thành tại Urbino, một
miền quê thơ mộng và xinh đẹp của miền Bắc Ý. Vì vậy sau này dù ở tại các thành
phố lớn như Florence hay Rome, ông vẫn lấy khung cảnh đồng quê để hoàn thành
các tuyệt tác phẩm như Đức Mẹ Cadatempi, Đức Mẹ với Hài Nhi, , Cậu Bé Jean
Baptist và Người Mẹ Elizabeth. . Bức họa nào cũng tuyệt đẹp và thơ mộng,
qua cảnh vườn cây bãi cỏ xanh mượt, chen lẫn giữa muôn hoa. Nhưng nổi bật hơn hết,
vẫn là hình ảnh của tháp chuông nhà thờ cao vòi vọi, đứng im lìm soi bóng trên
mặt hồ phẳng lặng. Năm 37 tuổi sắp qua đời, ông lại hoàn thành một tác phẩm vĩ
đại lưu danh thiên cổ, đó là “ Đức Mẹ Ở Sixtine “ . Đây là một nghệ thuật độc
đáo, đã dung hòa được tinh thần nhân văn, thời phục hưng và truyền thống cổ.
Cuối cùng cũng không thể không nhắc tới một loài hoa mà VN gọi là hoa Trạng Nguyên,
theo truyền thuyết từ một câu chuyện cổ tích diễm tình. Ngày xưa có một sĩ tử
trên đường vào kinh đô ứng thí, đã nhìn thấy một giống cây lá xanh, mọc tha thướt
bên vệ đường. Khoa đó ông đỗ trạng nguyên và trên đường về vinh quy bái tổ, bất
chợt gặp lại cây lá xanh bên đường hôm nào. Nhưng hôm đó nó đã biến đổi một
cách kỳ diệu, vì những cánh lá xanh nõn nường trên ngọn, nay trở thành màu đỏ
thắm, như đang đồng điệu với thế nhân, chúc người thi đổ. Cảm khái, ông đã
không ngần ngại ban cho giống hoa tình nghĩa trên một mỹ danh “ Hoa Trạng Nguyên
“ và được lưu giữ tới ngày nay.
Đây chính là giống cây, mà hằng năm trên thế giới, người ta dùng trang trí
trong ngày sinh nhật và họ gọi là Hoa Giáng sinh (Christmas Flower). Đây là một
loại hoa rất đặc biệt, vì hoa cũng là lá và lá cũng là hoa với một cụm lá màu đỏ
ở trên đỉnh, được bao quanh bởi đám lá xanh. Ở Đông phương, giống hoa này cũng
rất được yêu thích và được gọi bằng những cái tên khả ái như “ Nhất Phẩm Hồng “
(Trung Hoa) hay “ Tinh Tinh Mộc “ (Nhật Bản ). Nhưng dù mọc ở đâu hay được gọi bằng
một cái tên nào chăng nửa, nó vẫn là biểu tượng của sự cao quý, dịu dàng và mộc
mạc, rất phù hợp với tâm lý của người đàn bà VN. Có lẽ vậy, nên ở miền quê, hoa
này thường được trồng trước ngõ hay trên rào giậu như dâm bụt, với ngụ ý chào mừng
khách quý. Là giống cây thân mềm,lá xanh ẻo lã rất giống các thiên kim tiểu thư
và chỉ chuyển đổi màu lá từ xanh sang đỏ, trong thời gian nhất định, giữa tuần
lễ từ Giáng Sinh tới Tết Nguyên Đán mà thôi. Ngoài ra, thời tiết càng lạnh lẻo,
thì hoa càng có màu sắc rực rỡ.
Theo truyền thuyết của phương tây, thì hoa này có liên hệ với Chúa Jésus,bởi chúng
được tạo thành từ những giọt máu cuối cùng của Ngài, khi bị đóng đinh trên cây
thập giá. Chính màu máu tươi đã nhuộm màu lá xanh thành đỏ thắm và chính giữa
có những nhụy vàng. Cũng do tính chất thần thánh trên, mà hầu hết các thiệp chúc
và bánh giáng sinh, gần như đều có in hình cánh hoa truyền thống này.
Xứ người mấy chục năm qua, đêm giáng sinh nào cũng nghe lại được những bài hát Đêm
Đông, Đêm Thánh Vô Cùng, Mừng Chúa Giáng Sinh.. khiến cho hồn thêm bâng khuâng
cô quạnh khi nhớ tới:
“ những người năm xưa ấy
giờ lưu lạc phương nào..?”
Đêm nay giáng sinh lại về, ta kẻ ngoại đạo một mình lang thang trên phố vắng người.
Trên lầu cao, nhà ai tràn ngập ánh đèn màu và chập chùng tiếng nhạc giáng sinh
thánh thoát, quyện theo gió xa đưa mùi hương huệ trắng thơm ngát ngào ngạt. Ôi
đêm thánh vô cùng khắp trần gian, ta đón mừng với giọt nước mắt ly hương, lầm lũi
trong đêm lạnh. :
“ Ta đã khóc dù hồn đâu có muốn
nhìn dòng đời hờ hững nhớ quê hương ..”
Xóm Cồn Ha Uy Di
Mùa Giáng Sinh 2017
MƯỜNG GIANG
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment