Thursday, December 29, 2016

Mấy người làm gì mà bị đối xử như thế?

 

Mấy người làm gì mà bị đối xử như thế?

Mỗi khi thấy ai đó gặp rắc rối với an ninh Việt Nam và các thể loại tay sai – ví dụ bị đánh hộc máu, bị nhốt vào đồn, bị ném mắm tôm vào nhà hay bị đổ keo trét đầy ổ khóa để không ra ngoài được – người dân thường, bên cạnh cảm giác xót xa và thương cảm (nếu có), cũng dễ thắc mắc: “Không hiểu mấy ông bà ấy làm gì mà bị đối xử như vậy?”.

Bên cạnh đó, dư luận viên và những người tư duy kiểu dư luận viên thường hay đặt câu hỏi “cắc cớ” cho ra vẻ ta đây có óc suy luận, kiểu như sau: “Thì bọn đấy cũng phải làm gì mới bị như thế chứ. Như tớ đây, viết bài trên mạng, tổ chức mít-tinh đông người, dự hội thảo nước ngoài nước trong, đi lại thoải mái, xuất cảnh ầm ầm, có sao đâu”.
Một số trí thức băn khoăn: “Có thể do đường lối đấu tranh của những người đó chưa đủ ôn hòa, vẫn còn cực đoan quá, kích động quá, nên mới bị chính quyền ghét mà trấn áp nặng tay chăng?”.

KỲ THỊ VÀ NGƯỢC ĐÃI
Các cách đặt câu hỏi thì nhiều, nhưng nội dung cơ bản thì chỉ có một: Những người ấy phải làm gì mới bị như thế chứ?
Và câu trả lời cũng chỉ có một: Đúng, những người bị công an đàn áp đúng là có “làm gì” thật. Đúng là có những sự kiện mà người bình thường làm thì không sao, nhưng có một số công dân đặc biệt hễ cứ làm là bị cản phá, nặng hơn thì bị đánh đập, bắt nhốt, bỏ tù, v.v.

Đúng là mỗi ngày trên đất nước này, có hàng chục, hàng trăm hội thảo, hội nghị, với hàng nghìn người tham dự. Phần lớn các hội thảo, hội nghị đó đều có tiền cho ban tổ chức, thậm chí phong bì cho người dự, cho báo đài đến đưa tin. Đó là tiền rót từ ngân sách hoặc tiền do tư nhân tài trợ. 

Nhưng có một số công dân hễ cứ mon men tham gia là bị an ninh canh cửa, chặn đường, bắt nhốt. Và có một số hội thảo hễ cứ tổ chức là bị an ninh kéo cả đàn tới phá, cúp điện, cắt nước, gây rối, đe dọa người tham dự, thậm chí bắt giữ ban tổ chức.

Đúng là mỗi ngày có hàng nghìn người Việt Nam xuất cảnh, trong đó có không ít thanh niên du học hoặc tham gia sự kiện này khác ở nước ngoài. Nhưng có một số công dân hễ cứ ra sân bay là bị lôi vào đồn công an cửa khẩu thẩm vấn (thật ra là hỏi vớ vẩn để câu giờ cho họ trễ chuyến bay), rồi tịch thu hộ chiếu hoặc trương ra cái lệnh cấm xuất cảnh.

Đúng là mỗi ngày có hàng nghìn người Việt Nam nhập cảnh. Nhưng có một số công dân hễ cứ trở về nước sau một chuyến thực tập hoặc hội thảo, là bị lôi vào đồn công an cửa khẩu thẩm vấn, vặn vẹo xem đi đâu về, làm gì ở bên ngoài, và quan trọng nhất là “ai cho tiền mà đi?”.

Đúng là lâu lâu ở Việt Nam, cũng có diễn ra những cuộc tuần hành (tiếng Việt cộng sản gọi là “mít-tinh”), đạp xe, chạy bộ, v.v. với các mục đích kỷ niệm một sự kiện gì đó, hay bảo vệ cái gì đó. Và các cuộc tuần hành, đạp xe hay chạy bộ đó đều diễn ra ổn thỏa, thậm chí còn được báo đài đưa tin, được “lên ti vi” – một cụm từ đầy hãnh diện, đáng tự hào.

Nhưng có một số công dân hễ cứ tụ tập và tuần hành – cho dù họ ôn hòa đến đâu, cho dù vì mục đích chống Trung Quốc, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ môi trường hay bất cứ cái gì khác – là bị an ninh, dân phòng đổ xô đến bẻ tay, bẻ cổ, bắt lên xe buýt tống về đồn, về trại phục hồi nhân phẩm hay mấy cơ quan khác. Trong lúc bắt, an ninh, dân phòng cũng không quên tranh thủ bấm huyệt, cấu véo họ, tiện thì đạp chân, móc sườn, bóp cổ… Cờ quạt, biểu ngữ, băng-rôn của họ bị giật, bị xé, bị cướp sạch.

Tất cả những điều trên đều đúng cả. Đúng là có những sự kiện mà người bình thường làm thì không sao, nhưng có một số công dân đặc biệt hễ cứ làm là bị cản phá, đánh đập, bắt nhốt, bỏ tù v.v.
Đúng là “mình phải thế nào mới bị người ta đối xử như thế chứ”.

HỌ ĐÃ LÀM GÌ?
Sự thực là họ có làm gì thật. Tất cả họ đều có một điểm chung: Họ là những người ủng hộ dân chủ, nhân quyền; họ không chấp nhận sự kiểm soát của độc tài đối với đất nước – nói theo cách của tuyên giáo thì họ “không chấp hành đường lối”, “không chịu sự quản lý của Đảng và Nhà nước”. Hội thảo, hội nghị, du học, tuần hành, mít-tinh, biểu tình… gì thì gì, cứ phải theo sự chỉ đạo thống nhất, không phục tùng đường lối thì nện cho là phải rồi.

Hơn thế nữa, điều mà chính quyền công an trị ghét nhất ở họ còn là: Những gì họ làm có nguy cơ khiến cho dân chúng cũng bớt sợ hãi mà dám đứng thẳng dậy, thách thức những điều sai trái của chế độ, do chế độ gây ra. Một nhà nước mà dân lại ý thức được quyền của mình và không sợ chính quyền nữa, thì còn gì là độc tài độc đảng.
Nói cách khác, những kẻ “bướng bỉnh” đó có thể tạo tiền đề cho một sự thay đổi – điều mà đảng và nhà nước công an trị không thể chấp nhận.

Họ ủng hộ dân chủ, và trong thể chế độc tài thì họ trở thành những người bất đồng chính kiến.

Người bất đồng chính kiến chính là nhóm bị kỳ thị và ngược đãi nhất hiện nay ở Việt Nam, và sự kỳ thị, ngược đãi ấy chỉ đến từ phía chính quyền chứ không phải từ xã hội.

Hơn cả LGBT (Lesbian-Guy-Bisexual-Transgender: “đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính, chuyển đổi giới”), hơn cả bà con dân tộc thiểu số, hơn cả dân nghèo, người tàn tật, khuyết tật v.v., người bất đồng chính kiến mới là nhóm dân bị chính quyền ra mặt hành hạ, đàn áp, triệt đường sống và nói chung là muốn tiêu diệt.
* * *
Đó. Đó là câu trả lời cho thắc mắc “không biết mấy người làm gì mà bị đối xử như thế”.
__._,_.___


Posted by: Dien bien hoa binh <

Tuesday, December 27, 2016

Lisa Pham | Người dân hãy mau RÚT HẾT TIỀN trong NGÂN HÀNG | KHAI ...

Chuyện dài “nông thôn mới” người dân còn khổ hơn xưa

Image result for Văn Quang - Viết từ Sài Gòn                                           Image result for Cây cầu treo nối liền hai xóm Đổi Mới và xóm Đá 2 của xã Lỗ Sơn
Văn Quang - Viết từ Sài Gòn ngày 26. 12. 2016
                                                     Chuyện dài “nông thôn mới” người dân còn khổ hơn xưa 

Những chuyện cười ra nước mắt của người dân nông thôn ngày nay có hàng trăm thứ khổ, kể hoài kể mãi không bao giờ hết. Mỗi ngày phát hiện ra nhiều kiểu khác nhau. Gần đây nhất là chuyện cây cầu... hơn một gang tay ở xóm Đổi Mới. Việc này được chính đài truyền hình VTV1 của nhà nước phát sóng cho cả nước cùng biết.

Mới tuần trước, bản tin thời sự của VTV1 phát bản tin nguyên văn đoạn mở đầu như sau: “Ngày ngày, có hàng trăm người đi qua một cây cầu chỉ còn trơ khung sắt và mặt cầu chỉ lát vài thanh gỗ, rộng chừng hơn gang tay nối liền xóm Đổi Mới và xóm Đá 2, xã Lỗ Sơn, huyện Tân Lạc của tỉnh Hòa Bình”.
Image result for Cây cầu treo nối liền hai xóm Đổi Mới và xóm Đá 2 của xã Lỗ Sơn
Image result for Cây cầu treo nối liền hai xóm Đổi Mới và xóm Đá 2 của xã Lỗ Sơn
Cây cầu treo nối liền hai xóm Đổi Mới và xóm Đá 2 của xã Lỗ Sơn chỉ còn trơ khung sắt 

Bản tin khá dài, tôi xin tóm tắt những điểm chính qua những hình ảnh tôi đã xem trên Truyền hình của nhà nước và báo chí “chính thống” chứ không phải của “bọn phản động” tung tin láo đâu.
Chuyện cây cầu với những hình ảnh sống động. Những em bé chỉ chừng 7-8 tuổi, thậm chí bé hơn đi qua cây cầu trông bộ khung sắt thì khá lớn nhưng mặt cầu chỉ là vài thanh gỗ rất nhỏ, chỉ đủ cho một bàn chân, một người đi qua và phía dưới là cả lòng suối sâu hun hút.

Image result for Cây cầu treo nối liền hai xóm Đổi Mới và xóm Đá 2 của xã Lỗ Sơn
Các vị phụ huynh và học sinh phải men theo những thanh sắt nhỏ trên cầu để đến trường 
Ấy thế mà các em học sinh của xã Lỗ Sơn vẫn ngày ngày qua đó. Nhiều em còn không cần vịn vào sợi dây thép mỏng manh, bỏ cả hai tay đi qua, như những diễn viên xiếc lành nghề đang biểu diễn nơi công cộng.
Theo báo chí tường thuật lời ông Bùi Văn Nượm, Chủ tịch xã đó thì cây cầu trên đã có từ lâu rồi. Năm 2014, một đoàn kiểm tra của chính quyền tỉnh, huyện Tân Lạc xuống, cho rằng cầu này đã xuống cấp, không đủ điều kiện sử dụng nên đã yêu cầu xã dỡ bỏ mặt sàn và chờ dự án đầu tư.

Image result for Cây cầu treo nối liền hai xóm Đổi Mới và xóm Đá 2 của xã Lỗ Sơn
Đã có vài trường hợp các em xảy chân bị té ngã nhưng vẫn phải liều mình qua cầu vì không muốn đi vòng đường xa

Nhưng trong 2 năm qua, chẳng có dự án mới nào thay thế cả. Người dân 2 xóm Đổi Mới và Đá 2 đã không thể chờ đợi, không thể đi đường vòng 4-5 km hay lội suối, nên họ buộc phải đi như xiếc qua cầu. Các em không hề nghĩ chẳng may trượt ngã, thì mùa cạn, bên dưới suối sâu toàn đá, còn mùa mưa thì lại lũ dữ, tính mạng cũng khó mà bảo toàn.

Chuyện này đã xảy ra ở nhiều nơi như ở bản Sam Lang, xã Nà Hỳ, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên chuyện người lớn đu dây qua sông, chui vào túi nylon để người khác kéo qua sông, qua suối...

Image result for Chui vào túi nilon và nhờ người biết bơi kéo qua suối

Image result for Chui vào túi nilon và nhờ người biết bơi kéo qua suối
Chui vào túi nylon và nhờ người biết bơi kéo qua suối

Hay tại xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông (Đắk Lắk) nằm ở bờ bắc sông Krông Ana, vượt qua sông bằng xuồng rất nguy hiểm, nhất là vào mùa mưa lũ, nên phải nghĩ ra cách “đánh đu” trên lòng sông rộng hơn 50 m.
Image result for Chui vào túi nilon và nhờ người biết bơi kéo qua suối


Related image
Đánh đu trên lòng sông rộng hơn 50 m
Trở lại chuyện cây cầu rộng một gang tay. Ai cũng thấy sự quá nguy hiểm cho tính mạng người dân và người dân mong đợi chính quyền lảm cây cầu tạm hoặc sửa sang lại cho bớt hiểm nguy.

Nhưng chính quyền giải quyết như thế nào?
Cách mà “những người có trách nhiệm” giải quyết vô cùng độc đáo là tháo luôn cầu. Giờ thì người dân Lỗ Sơn chỉ còn cách duy nhất là liều mình băng qua dòng suối. Chắc chính quyền không muốn nghe những lời phàn nàn của người dân nên bỏ tuốt cây cầu cho yên thân.
Sự chờ đợi của người dân Lỗ Sơn tuyệt vọng tới mức, giờ họ mong nhớ cây cầu rộng một gang tay kia. Họ còn nói rằng giá mà báo chí, truyền hình đừng nhắc gì đến cây cầu thì họ vẫn còn có cái để qua sông.

Sự giải quyết những nguyện vọng chính đáng của người dân thường được các quan địa phương “nhanh gọn” như thế cho đỡ phiền, các quan còn phải đi họp, đi liên hoan, đi lễ Tết… đừng làm phiến đến các ông. Người dân còn hy vọng gì vào các ông lo cho dân nữa, ông lo cho nhà ông chứ tội gì lo việc bá vơ.
Một chuyện khác cũng mới xảy ra gần đây nhất, chuyện các quan ăn chặn ăn bớt của dân, thật ra chuyện không mới nhưng không ngờ đến bây giờ còn xảy ra còn “dã man” hơn.

Nhà nghèo không có quà cứu trợ, xóm trưởng nhận hẳn... 4 phần

Đó là sự việc đang gây phẫn nộ tại xóm 3, xã Hương Đô, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh). Vào sáng ngày 12/11 vừa qua, một công ty đã về tại UBND huyện Hương Khê trao hơn 300 suất quà, mỗi suất trị giá 500 ngàn đồng, cho bà con bị ảnh hưởng sau trận lũ vừa qua. Hầu hết các nhà dân tại xóm này đều bị ngập lụt, đặc biệt có rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn lại không được nhận quà, trong khi gia đình xóm trưởng lại nhận hẳn... 4 phần quà (!). Còn 46 suất, người dân cho rằng xóm trưởng lập ra danh sách 46 người nhưng thực chất thì trong số đó có nhiều người là vợ chồng.
Cũng theo anh Phương thì đa số những người nhận quà đợt này đều khá giả và có rất nhiều người là anh em với ông xóm trưởng. 

Người dân còn cho biết:
“Đa số họ là anh em của xóm trưởng. Kinh tế đều thuộc dạng khá giả, có nhà còn có ô tô, trong khi đó nhiều người già neo đơn thì không được”, Đến sáng ngày 12/11, các gia đình dân có trong danh sách trên đã lên UBND huyện Hương Khê để nhận quà. Nhưng sau khi về, các hộ dân này khẳng định đã bị xóm trưởng thu lại... 300 ngàn đồng một phần.

Một gia đình cho biết:  “Sáng hôm qua tôi được xóm trưởng đến thông báo là hai vợ chồng lên huyện để nhận quà. Danh sách này là xóm lập nên tôi không biết. Sau khi hai vợ chồng chúng tôi nhận về thì xóm trưởng thu về 600 nghìn đồng, vợ chồng tôi chỉ nhận được 400 nghìn đồng”.

Thế là quan xã cướp trắng của người dân không cần bóp cổ. Tao là quan, mày là dân nên quyền thu phát bao nhiêu là do tao. Cú này nếu tính tất cả dân trong làng lên đến hàng tỉ đồng chứ không ít. Các quan tha hồ chia nhau đi ăn nhậu, đi karaoké với bồ nhí nhé.

Làm quan xã thời nay sướng hơn các ông Lý trưởng thời phong kiến. Các ông Lý trưởng còn sợ ông chánh tổng, nhưng ngày nay quan dưới có phần thì quan trên cũng có phần nên mọi việc đều êm ru bà rù rơi vào yên lặng. Cứ làm anh quan xã là ba đời sung sướng, con cháu cũng có phận nhờ. Mai này bố chết đi lại có cá chú các bác “đề bạt” làm ông này bà nọ “theo đúng quy trình” ngồi lên đầu những thằng dân đen. Mọi chuyện đều “hợp pháp, đúng luật”.

Ôi, luật lệ do quan đặt ra cái gì cũng đúng hết chỉ có thắng dân là sai. Cái gì cũng sai! Thế nên ở VN “sáng tạo” ra hàng loạt “luật rừng”.
Ngoài ra còn chuyện những bất hợp lý trong hỗ trợ xây dựng nhà ở cho gia đình chính sách tại xã An Hữu (Cái Bè, Tiền Giang).

Họ hàng nhà quan chức ưu tiền được nhận tiền hỗ trợ
Người dân cho biết việc ông Nguyễn Văn Phúc (cha ruột ông Nguyễn Lê Sơn, Bí thư Đảng ủy xã An Hữu) được ưu ái nhận phần hỗ trợ nhà tình nghĩa dù gia đình khá giả, nhà ông Phúc không thuộc loại hư hỏng, dột nát theo quy định. Lại thêm ông Lê Hữu Tình (cậu ruột ông Sơn) cũng được ưu tiên hỗ trợ nhà ở chính sách với trị giá 40 triệu đồng.
Image result for Nhà ông Lê Hữu Tình - cậu ruột bí thư xã - đã hoàn thành trị giá trên nửa tỉ đồng.
Nhà ông Lê Hữu Tình - cậu ruột bí thư xã - đã hoàn thành trị giá trên nửa tỉ đồng.

Sau khi nhận hỗ trợ 40 triệu đồng, gia đình ông Tình xây dựng một căn nhà theo kiểu biệt thự “hoành tráng” nhất vùng với hàng rào cao bao quanh, kinh phí gần 1 tỷ đồng. Một người dân ở gần đó cho biết: “Gia đình ông Tình thuộc diện giàu có trong vùng, mấy đứa con ông đều có việc làm ổn định. Ông Tình có một căn nhà đang cho thuê ngay tại trung tâm xã, vườn cây ăn trái cũng thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhưng vẫn được hỗ trợ nhà ở cho gia đình chính sách khiến ai cũng tức bực”.

Tương tự là trường hợp ông Nguyễn Văn Phúc cũng được ưu tiên nhận một suất xây dựng nhà tình nghĩa. Khi nhận 1 suất hỗ trợ 40 triệu đồng, căn nhà ông Phúc đang xây gần hoàn thành và theo kiểu “biệt thự vườn” với kinh phí hàng trăm triệu đồng cũng rất hoành tráng như nhà ông Tình.

Image result for Nhà ông Lê Hữu Tình - cậu ruột bí thư xã - đã hoàn thành trị giá trên nửa tỉ đồng.
Người thân Bí thư Đảng ủy xã nhận xuất 40 triệu về xây dinh cơ gần 1 tỷ

Cách nhà ông Tình, ông Phúc khoảng vài trăm mét là căn nhà gỗ mục nát của ông Nguyễn Văn Bé Tư, SN: 1955 (là cựu chiến binh). Ông Bé Tư mất cách đây gần 2 tháng nhưng vẫn chưa được hỗ trợ nhà tình nghĩa. Căn nhà gỗ của ông bé tư đã hư hỏng phải dùng cây tràm chống đỡ để khỏi bị sập. Sau khi ông Bé Tư chết, gia đình mới được nhận thông báo sẽ được cấp hỗ trợ 40 triệu đồng để xây dựng nhà tình nghĩa trong năm nay.

Nhưng chờ đến bao giờ chưa biết. Họ hàng hang hốc nhà quan cứ việc lãnh tiền trợ cấp, ăn cướp của dân nghèo xây biệt thự, xây lâu đài cho các bà vợ.

Những chuyện khốn nạn như thế xảy ra thường xuyên ở những nơi khác, chuyện quái đản hơn nữa chuyện xã Viên An Đông, huyện Ngọc Hiển (tỉnh Cà Mau) rất bực tưc vì dự án hỗ trợ con giống thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chính quyền địa phương nơi đây lại “ưu ái” dành cho cán bộ và người thân cán bộ, còn dân nghèo thì… đứng ngoài cuộc.

Người mù cũng biết ký tên
Hầu hết những người được cấp con giống đều là cán bộ và người thân cán bộ. Trong số đó có ông Phan Văn Thiết (cha vợ ông Dương Văn Nguyện-Chủ tịch hội nông dân xã); ông Nguyễn Văn Tánh (anh vợ ông Võ Thành Lĩnh- Phó Chủ tịch UBND xã) và các Bí thư, Trưởng ấp, Chi hội trưởng Hội nông dân các ấp thuộc xã Viên An Đông…

Đặc biệt, có trường hợp hết sức “vô lý” là ông Phạm Đến Tiếp, là Chi hội trưởng Hội Nông dân ấp. Theo người dân cho biết gia đình ông Tiếp chuyên kinh doanh mua bán cua giống, nhưng lại được hỗ trợ cua giống từ chương trình.

Trong các biên bản họp dân tại các ấp để xét chọn đối tượng hỗ trợ gửi về cấp trên, trong số người dân tham gia ký tên có ông Phan Văn Chủ (anh ruột ông Phan Văn Thiết, người được xét chọn). Điều đặc biệt là ông Phan Văn Chủ bị mù, không viết được, nhưng lại có ký tên vào biên bản (?).
Phù phép kiểu này đúng là ngu ngốc nhưng tại sao vẫn qua mặt được quan trên?

Hỏi như thế là đã trả lời rồi. 
Chuyện nông thôn mới ở VN mà, chuyện “đểu” cỡ nào, chuyện quái quỷ gì cũng có thể xảy ra.

Văn Quang
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~



Avast logo
This email has been checked for viruses by Avast antivirus software.
www.avast.com


__._,_.___

Posted by: "Nhat Lung" 

Sunday, December 25, 2016

XUÂN CHIẾN ĐỊA



--
Kính chuyển
MG
XUÂN CHIẾN ĐỊA
Hồ Ðinh
KBC 4424,3435,4508


" Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa,
Tao mày hiu hắt đón xuân chơi
Một thằng bộ binh đời như bỏ
Một đứa nhảy dù cũng tả tơi.."

          Bốn câu thơ cũ, mới đó mà đã mấy mươi mùa thương nhớ, càng khiến cho người lính già thêm trơ trọi lạc lõng, giữ những tối ba mươi lạnh lẽo nơi chón quê người.. Trong quán khách bên đường, ta một mình sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại một năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi dã muốn cay sè, ngoài trời con chim kỹ niệm vẫn như thiết tha giục giã dù khói lửa đã ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không còn quan hà cạn chén ly bôi, sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nỡ.

          Tan tác, chia xa giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đã giốc ngược đời mình cho quê hương. Lính là thế đó, buồn nhiều vui ít với một chút nhun nhén tình cờ bắt gặp trên các nẽo đường hành quân vô định, qua dăm ba ngày Tết dưỡng quân hay canh giặc chốn tiền đồn lẽ loi ngoài quan tái.

           Ai đã từng là lính mới cãm thông cho lính, sống thật cô đơn lếch thếch và chết cũng rất hiu hắt ngậm ngùi. Thời gian và không gian đời lính cũng chẳng qua chỉ là một cái mốc vô tình để biết ta hiện hửu. Nhưng thôi tiếc làm gì ai biểu chúng ta sinh ra làm trai hùng đất Việt ? nên phải chấp nhận kiếp lính “ ôm yên gối trống đã chồn, nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh “ để rồi thui thủi “ đêm từng đêm ngó mông lung, ôm cây súng lạnh hát rừng mà nghe “..

          Gần mười hai năm lính, tết nào cũng tết tha hương, xuân nào cũng xuân chiến địa. Ðêm trừ tịch giữa tối ba mươi cái khoảnh khắc " năm cũ sắp tàn ", khi mà mọi nhà chặt then kín cửa, để sửa soạn đón giao thừa trong niềm hạnh phúc của gia đình, thì lính cũng đón chào năm mới trong chiếc hầm trốn đạn hay mái chòi canh giặc đen tối lạnh băng. Nhớ từ đâu bổng kéo tới, vây kín cái không gian nhỏ hẹp này. Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng, khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương. Dường như có ai đang hát ru một khúc tình ca của lính, nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta dìu ta trở về những mùa xuân cũ nơi chiến địa, những tết không bao giờ quên được trong cuộc đời .

-TẾT LÍNH ÐẦU TIÊN TRÊN RỪNG NÚI MIỀN TÂY BẮC BÌNH THUẬN :

           Ma Lâm xưa nay vẫn là cửa ngỏ để vào vùng tây bắc Bình Thuận hùng vĩ và đầy huyền thoại. Ma Lâm là thủ phủ của quận Thiện Giáo, nằm giữa châu thổ phì nhiêu của con sông Cả (Quao), phát nguyên tại Di Linh và ra biển Ðông tại cửa Phú Hài, có quốc lộ 12 hay còn gọi là Liên tỉnh lộ 8 hoàn thành ngày 1-10-1914, từ Phan Thiết đi Di Linh chạy ngang qua.

           Ðây là biên địa cuói cùng của Vương quốc Chiêm Thành trước khi mất nước vào năm 1693, nên có nhiều người Chàm và Thượng Ba Phủ, sống tại các xã Ma Lâm Chàm, Phú Nhiêu, Sông Trao, Trịnh Hòa, Tịnh Mỹ. Nhiều địa danh như Rừng Ðú, Mang Tố, Làng Chão, Vũng Dao.. và các câu chuyện xưa về người Chàm, trên mãnh đất Bình Thuận, theo thời gian tan biến vào cát bụi nay chỉ còn là huyền thoại của một thời vang bóng. Cũng vì địa thế hiểm trở, chinh chiến triền miền nên quốc lộ gần như bị bỏ hoang, cũng như hầu hết miền tây bắc bi quên lãng, để mặc cho người Thượng tha hồ đốt rừng bừa bải làm rẫy, dù vùng này nếu ruộng đất được khai thác, cũng đủ cung ứng nhu cầu lúa gạo cho nhiều người trong tỉnh.

          Đầu năm 1964 gần tết Nguyên Đán, chúng tôi gồm mười lăm đứa mãn khóa, từ Sài Gòn bổ sung cho Trung Ðoàn 43 biệt lập, lúc đó do Thiếu Tá Võ văn Cảnh (sau lên chuẩn tướng là tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh năm 1972), làm Trung Ðoàn Trưởng kiêm Biệt Khu Trương Biệt Khu Bình Lâm, trách nhiệm ba tỉnh Bình Tuy-Bình Thuận-Lâm Ðồng. Bộ chỉ huy Trung Đoàn đóng tại quân Di Linh với Ðại đội trọng pháo của Ðại Uý Ngô Tất Tống và Tiểu đoàn 3/43 của Ðaiỳ Uý Công. Riêng Tiểu đoàn 1/43 của Ðại Uý Ngô văn Diệp (tử trận năm 1965 tại Trảng Bàng) và Tiểu đoàn 2/43 của Ðại Uý.Hai, lúc đó đồn trú tại Phan Thiết.

          Ngày đầu tiên về đơn vị cũng là ngày cuối năm, nên khi xe lủa tới Ðà Lạt, nhằm lúc thiên hạ đang rộn rịp chuẩn bị đón giao thừa. Cao nguyên Lâm Viên mùa Tết, nên trời rét căm căm. Chúng tôi hầu hết đều là dân xứ biển và miền Nam, nên chịu không thấu với cái lạnh miền núi cát da tím thịt trong bộ đồ trận mõng manh, qua đêm đầu tiên tại nhà vãng lai của Tiểu Khu Tuyên Ðức.

           Viết sao cho hết nổi buồn rầu của bọn lính mớ xa nhà trong đêm Tết ? dù đêm Xuân Ðà Lạt thật tuyệt vời, khiến ta cứ ngở như mình đang lạc lối đào nguyên, giữa hoa và người đẹp, cả hai sắc hương đường như cùng với mây trời ngạt ngào trong sương giá. Ðà Lạt đêm xuân thú vui không kể xiết, khắp phường phố thiên hạ quần áo là lượt hạnh phúc, gắn bó từng cặp, từng đôi trong muôn màu đam mê rực rỡ nhưng với bọn lính mới đầu đời, Ðà Lạt lại vô tình hờ hửng. Bởi vậy cả bọn đều mong mau sáng, để sớm trả lại cái thiên đường hạnh phúc mà trời trót dành cho những giai nhân tài tử.

           Rồi thì chia tay, dăm đứa gọi là kém may mắn khi về Tiểu đoàn 3/43 gần mặt trời. Số còn lại bổ sung cho Tiểu đoàn 1 và 2/43. Một cuộc hành quân mở ra vào ngày mùng ba tết nguyên đán, mục đich khai thông quốc lộ 12 đưa lính mới và quân trang quân dụng bổ sung cho hai đơn vị tại Bình Thuận. Nhờ vậy mới có dịp hưởng được một cái tết núi rừng vui nhộn với người Koho, quanh bếp lửa hồng.

           Bộ tộc Koho sống đông đảo tại cao nguyên nam Trung Phần, có nguồn gốc pha trộn từ nhiều sắc dân Chàm, Mã Lai, Chà Và,Chân Lạp.. gồm các bộ lạc Churu, Noang, Sre,Maa, Sil, Toa, Queyong,Lat,Nop,Kodiong, Nam.. chủ yếu sống tại các tỉnh Quảng Ðức,Tuyên Ðức,Lâm Ðồng,Bình Thuận,Bình Tuy và Long Khánh. Ðược vui Tết với người Koho là một thích thú tột cùng, vì ngoài việc được ăn uống tự do, còn hưởng được tình người qua cử chỉ, một hành động đối với người Việt trong thời chinh chiến, hầu như đã mất mát hay nếu còn cũng chẳng qua sự giả tạo, lớp son  phấn hào nhoáng bên ngoài.

          Vì lộ trình bị bỏ hoang lâu ngày không được sửa chữa và xử dụng nên khắp nơi đầy ổ voi ổ gà. Thêm vào đó là nhiều đèo cao với vô số khúc quanh co lên trời, xuóng lủng, do đó đoàn xe di chuyển rất chậm vì phải mở đường và tu bổ quan lộ, nên đêm đó phải đóng quân và cũng là dịp ngàn năm một thuở được chủ làng trong buôn Koho, tai thung lũng Klonodium sát quốc lộ mời ăn Tết.

           Lễ hội theo truyền thống được tổ chức giữa sân nhà Hội Ðồng. Tất cả đều là sự đóng góp chung từ củi đốt, trâu bò tới rượu cần. Quang cảnh đêm Tết thật hấp dẫn với đống củi cao như núi đủ rực sáng suốt đêm, mấy trăm hủ rượu cần và ba con trâu cột sẳn quanh các hàng cộc được chạm trổ. Khắp nơi còn có những cây phướng, nêu và cờ xí càng tăng thêm nét đẹp và trang nghiêm trong ngày Tết.

          Rồi khi ráng chiều vừa khuất sau rặng Núi Bà cao đen thăm thẳm đầy huyền bí, cũng là lúc chiêng trống nơi nhà Hội Ðồng trổi dậy, thúc dục dồn dập như tiếng trống trận xua quân, kêu gọi mọi người trong Buôn tề tựu nơi bếp lửa hồng vừa cất cao ngọn. Tiếng lửa lách tách nổ vui tai, cộng với tiếng người chuyện trò huyên náo. Nam nử, già trẻ vui Tết ăn mặc quần áo đẹp và mới nhất của họ, dù chỉ là thứ vải bâu thô thiển. Ở đây hoa nhiều không đếm hết nhưng cũng không có hoa gì đẹp hơn hoa mai làm đêm thêm ngát, làm cho lính đã ngây ngất bên ché rượu cần, lại càng ngẩn ngơ hóa bướm vì tiếng hát ngây thơ hồn nhiên của các cô gái vùng cao,khiến cho mấy chục năm qua rồi, mà trong hồn mỗi lần chợt nhớ, như muốn khựng vì mùi chua của rượu cần và muì hương của núi rừng tây bắc. Sáng tới lính lại lên đường, không được như người Koho, sung sướng tiếp tục cuộc vui Tết quanh các gia đình, cho đến hết tháng giêng mới chấm dứt khi cả Buôn không còn rượu và thịt.:

“ Ớ chàng trai lính ơi,
đùng quên đêm nay bên vũ điệu Lam Tơi,
đôi ta tình cờ quen nhau ngắn ngũi
nhưng em nguyện chờ chàng trở về ..”

 - ÐÊM CHỜ TẾT NGOÀI VÒNG ÐAI ẤO CÂY BÀI (CỦ CHI).

          Cuối năm 1964, toàn bộ Trung Ðoàn 43 biệt lập từ Di Linh tăng phái hành quân cho khu 32 chiến thuật, trách nhiệm tỉnh Hậu Nghĩa nhưng chủ yếu là tại quận Củ Chi, khắp các xã Bình Mỹ, Tân Thạnh, Trung An, Phú Hòa Ðông, Phước Vĩnh An,Tân Phú Trung, Tân Thông, Nhuận Ðức,Trung Lập, Phước Hiệp, Thái Mỹ,An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng và huyện lỵ Tân An Hội. Lúc đó, BCH Trung đoàn đóng tại Tân Thông, các tiểu đoàn 2 và 3/43 nằm tiền đồn khắp các xã xôi đậu, chỉ riêng Tiểu đoàn 1/43 được dưởng quân ba ngày Tết tại quận, vì đã lội suốt một năm khắp các chiến trường Bình Thuận, Bình Tuy, Long Khánh, Bình Dương, Bình Long và Hậu Nghĩa.

           Ban 5 /TÐ đã soạn thảo nhiều chương trình để lính và gia đình vui một cái Tết đặc biệt tại hậu phương. Ngày ba mươi tháng chạp, TÐ xuất tiền hành quân công thêm tiền thưởng của Tỉnh và Trung Ðoàn, giao cho Ban 4 ra chợ Củ Chi mua sắm gà, vịt, heo, bò, bánh trái và rượu đế Bà Ðiểm làm tiệc tất niên. Lúc đó, đa số lính của Tiểu đoàn là người Trung, nên trong dịp Tết chỉ có một số nhỏ có gia đình tại Sài Gòn và vùng lân cận được phép miệng về thăm gia đình, còn hầu như là ở lại với đơn vị.

          Vì khỏi trực gác, nên lính tha hồ rong chơi khắp hàng quán, dù phố lỵ Củ Chi nhỏ xiú và buồn hiu, lưa thưa vài hàng quán và cái lồng chợ cũng bé bỏng khiêm nhượng. Cũng may, quận nằm trên quốc lộ 1, nên có rất nhiều xe đò xuôi ngược Sài Gòn-Trảng Bàng-Tây Ninh.. cũng như ngả rẽ tới Bầu Trai, Hiệp Hòa, Ðức Huệ.. Ðứng bên đường,nhìn trộm những người đẹp ngồi trên xe đang hối hả mua quà vật khi xe ngừng, hồn lính cũng cảm thấy phần nào vơi đi nổi nhớ nhà. Ở đây mùa đông không lạnh lắm so với Phan Thiết nhưng gíó nhiều nên cũng tái tê, se sắt. Bao nhiêu năm lính, lần đầu được vui một cái tết thị thành cũng thấy an ủi phần nào .

          Nhưng Tết chưa tới, tiệc cũng còn đang sửa soạn, thì lệnh hành quân khẩn cấp từ Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn ban xuống. Quân báo và an ninh Tiểu đoàn lái xe ruồng bố khắp nơi để gom lính, làm cho người Củ Chi ngạc nhiên tuá ra đường dòm ngó, như thể họ đang xem hát tuồng. Và rồi nửa giờ sau Tiểu đoàn 1/43 lại lên đường, lính chỉ mang theo súng đan và nước uóng với nhiệm vụ giải toả Ấp Cây Bài vừa bị giặc lợi dụng lệnh hưu chiến, từ mật khu Hố Bò tràn vào chiếm Ấp và bắt đồng bào làm con tin đỡ đạn. Quân ra đi như bóng ma đói, ai cũng phờ phạc buồn rầu thấy rõ, đầu gục xuống, súng vác vai, bất kể đội hình kỹ luật, im lặng như hến. Thế là thêm năm nửa, tàn mộng tết-xuân.

          Bốn giờ rưởi chiều ba mươi Tết, Tiểu đoàn 1/43 đã có mặt ngoài vòng đai Ấp, trong khi đó toàn bộ Trung Ðoàn đều tham dự cuộc hành quân này và các đơn vị đang dần xiết vòng vây. Súng nổ khắp bốn hướng giữa ta và địch, từ trong Ấp cho tới Làng Paris Tân Qui, Bến Cỏ, Phú Hòa, Ấp Nhà Việt.. chổ nào cũng có đụng lớn. Riêng TÐ 1/43 án ngử ngay con đường tỉnh lộ dẫn vào Ấp, đường đã bị cày xới tan nát.

           Ấp nằm trong tầm ngó nhưng mù mịt vì bom đạn lửa khói và rừng cao su ngút ngàn che phủ. Cánh đồng lúa ven làng đang bắt đầu ươm hạt, mùi thơm sữa lúa theo gió thoang thoảng khắp nơi, mũi mòng từng đàn đáp đậu trên da thịt, tha hồ xơi tái lính. Trong cảnh buồn rầu thê thiết, ai cũng thẩn thờ quên đau vì muỗi chích, khi nghĩ tới đồng bào vô tôi đang nằm giữa dao thớt chiến tranh, trong lúc khắp nơi mọi nhà đang rộn ríp náo nức đón xuân về. Thời gian qua thật chậm, chiến trường vẫn sôi sục bom đạn. Còi thúc quân vang dậy dồn dập nhưng lính vẫn không tiến nổi vì các khẩu súng cộng đồng của giặc từ các cao điểm trong Ấp bắn chận dữ dội, khiến cho lính TD lần hồi rụng tã tơi như mấy cánh mai vàng trước gió xuân tơi tả., khi tiệc tất niên chưa kịp hưởng, đã vội về với đất lạnh, đời lính như vậy sao mà không buồn ?.

          Không thể làm gì hơn, nên Bộ Chỉ Huy hành quân đã xin Khu chiến thuật nhờ không quân can thiệp. Màn đêm hững hờ buông rèm gói trọn vạn vật, chỉ còn nghe tiếng L19 và Khu trục cơ Skyraider vần vũ dội bom bắn phá mục tiêu. Xa xa về hường Sài Gòn, trời sáng hồng trong đêm tối, giờ này thiên hạ đang vui say chè chén nhảy nhót và hạnh phúc, chắc không ai ngờ tới, tại một thôn xóm hẻo lánh nghèo nàn, có không biết bao nhiêu người, dân cũng như lính, địch lẫn ta đang lặn lội trong bom đan, chỉ mong được phép lạ để sống còn. Suốt đêm trừ tịch, máy bay liên tục dội bom, Ấp Cây Bài đắm chìm trong biển lửa, bên ngoài Tiểu đoàn nằm chờ trời sáng. ai cũng đói lạnh nên nhiều người mặc kệ lăn kềnh trên đất ngáy khò, bất kể cái chết kề cận.

          Tờ mờ mồng một Tét quân vào Ấp trong nổi thê lương tận tuyệt, khắp nơi chỉ là cảnh chết từ người tới trâu bò heo chó. Giặc đã chém vè bằng các đường giao thông hào, bỏ lại nhiều tử thi lõa lồ bất động. Chiến tranh tàn nhẩn, oan nghiệt khiến suốt đời lính không quên được hình ảnh chết chóc của những người dân lành vô tội, giữa nhang đèn bánh mứt.. chờ đón xuân về.

 - CHUYẾN TÀU BA MƯƠI TẾT.

          Chiều hăm chín tết năm 1977, trại cải tạo Huy Khiêm của tỉnh Thuận Hải rộn hẳn lên vì ngày mai cho tới mồng hai Tết, đoàn tù khổ sai của VNCH tạm nghĩ lao tác, được đổi khẩu phần Tết với đường, thịt heo, cơm trắng không độn và một bao thuốc có cán. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái danh sách phóng thích tù nhân vào mỗi dịp Tết về, sẽ được cán bộ gọi trong buổi sinh hoạt hôm nay.

          Ðúng 1 giờ trưa chiều ba mươi tết năm đó, trại có mười người được nhận giấy phóng thích về nguyên quán trình diện. Quỹ trại không có tiền cho tù nhân mua giấy xe đò xe lửa, nên ai lo mạng nấy bằng cách lội bộ, từ Huy Khiêm tới Ga Suối Kiết xa chừng 20 cây số. Tám giờ tối cả bọn tới nhà ga thì đã lở chuyến tàu chợ, nên đành phải chờ chuyến tàu suốt Bắc-Nam, Nam Bắc vào lúc 11 giờ khuya cuối năm. Trong bọn chỉ có tôi về Phan Thiết, còn lại đều ở rất xa tận Sài Gòn, Nha Trang.. Chia ly rồi sắp chia ly nữa, anh em chỉ đành ngậm ngùi trao gởi, hưa hẹn. Trong khoảnh khắc năm củ sắp tàn, mọi nhà cài then đóng cửa đón mừng năm mới, thì chúng tôi cũng đang chờ phút giây thay đổi của đất trời.

           Ga Suối Kiết nằm cheo leo trong rừng lá, cạnh vách núi Ông cao ngất hùng vỹ, bao quanh vài chụp nếp nhà lá lụp xụp của các công nhân hỏa xa và dân làm gổ. Có lẽ hôm nay mọi người đã về quê ăn tết nên xóm nhỏ thật đìu hiu không có một chút sinh khí, chứng tỏ nàng xuân chưa ghé chốn này. Cũng may Suối Kiết là một ga lớn trên tuyén đường xe lửa Nam-Bắc, nên tất cả các chuyến tàu chợ và suốt đều phải ngừng lại, dù khách có hay không.

          Về đêm, núi rừng càng buốt cóng lạnh căm. Bộ quần áo trận năm nào dù đã được đắp thêm chục mãnh vá, vẫn không ngăn nổi cái sắt se xa xót, như từ một cõi mộ địa, theo cái lạnh xâm chiếm tâm hồn những bóng ma đang lạc lõng trong đêm xuân, không biết rồi sẽ về đâu, để kiếm chút hơi ấm của tình quê. Trong cái hiu hắt của đêm buồn, cũng đủ để mọi người nhìn rõ hình ảnh của sự cô đơn nơi ga lẽ, từ những thanh sắt han rĩ tróc sơn trước quầy bán vé, cho tới hàng ghế gổ mọt đầy vết bẩn. Tất cả bổng dưng được trùng phùng một cách ngẩu nhiên với những người tù không bản án, những quân, công ,cán cảnh của VNCH bại trận, vùa được phóng thích trong đêm tết quạnh quẽ, buồn rầu. Phải vui lên một chút để mừng năm mới, thay vì mượn rượu phá thành sầu, cả bọn lại chụm đầu vào nhau , rít chung vài bi thuốc lào ăn tết, trong khi bên ngoài gió núi lồng lộng thổi, tạt sương muối vào mặt mũi da thịt, khiến cho cơn lạnh đói càng thêm hành hạ mọi người.

          Hình như giao thừa sắp đến trong mông mênh cùng tận, như những năm nao, tôi lại âm thầm lâm râm cầu nguyện cho mẹ già, em gái, cho ngươi vợ trẻ, bạn bè, đồng đội, đồng bào.. được may mắn an bình trong buổi hổn mang dâu bể. Hởi ơi giờ này không biết mẹ già em thơ, có còn như những ngày xuân dấu ái trước năm 1975, giao thừa đi lễ chùa, xin xăm hái lộc, nhà có vui xuân đón tết hay gia đình cũng lại như tôi, tại sân ga nơi rừng núi thẳm tăm tối lạnh lẽo này, cô đơn, đói lạnh và nhục nhã trùng trùng.

           Kỹ niệm xưa từng mảng lại trôi bềnh bồng trên mắt, lén lút đẩn dắt đưa tôi về thuở hoa niên, khi những cánh hoa phượng đỏ ối nối hàng, dọc theo con đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học, đã bắt đầu rụng rơi lã tã giữa các trang lưu bút, trên từng rèm mắt ô môi, cũng là lúc bọn học trò nghĩ hè làm gã giang hồ lãng tử, trên những chuyến tàu hỏa chui Phan Thiết-Sài Gòn rồi Sài Gòn-Phan Thiết, đi hoài vẫn không thấy chán.

          Rồi những ngày dài chinh chiến, định mệnh lại đẩy đưa tôi về chốn cũ Long Khánh-Bình Tuy-Phan Thiết. Tuy tàu hỏa đã bị gián đọan nhưng suốt con đường sắt từ Mường Mán về Gia Ray, con đường mòn Võ Xu tới Suói Kiết, kể cả những suối rạch, bải đá ven sông La Ngà, đều là những lối lại qua quen thuộc, đã cùng tôi chắt chiu suốt đoan đường tuổi trẻ. Làm sao quên được những ngày dừng quân ở Văn Phong, Mường Mán ? ngày ngày ngồi ngâm nga tách cà phê đen ngon tuyệt nơi quán lẽ ven sông, ngó nhìn các chuyền tàu xuôi ngược. Giờ đây cảnh xưa vẫn nguyên vẹn, riêng tôi thì ôm một tầng trời sầu thảm không đáy, lạc lõng trên quê hương hận thù với kiếp sống nào hơn loài cỏ cây.

          Cuối cùng rồi tàu cũng đến, chúng tôi chia tay trong nước mắt. Ai nấy hấp tấp lên tàu như kẻ trốn nợ trong đêm trừ tịch, giữa tiếng còi tàu lanh lãnh thét vang, phá tan cảnh tịch mịch của rừng núi âm u, nghe sao quá ảo nảo lạnh lùng.

          Chuyến tàu suốt Sài Gòn-Phan Thiết đêm nay ế ẩm, nhiều toa hành khách vắng ngắt lạnh tanh, không như ngày thường chen chân không lọt. Có lẽ mai là mồng một tết nguyên đán, nên ai cũng muốn ở nhà để xum họp với gia đình. Ðất trời buồn mênh mông quá, thêm gió thổi vi vút từ hai bìa rừng thả hơi lạnh khắp nơi, nhưng tôi vẫn muốn ngồi ngoài hành lang để được nhìn lại quang cảnh cũ Trong các toa tàu, đèn đóm tối om, dăm ba hành khách nằm dài trên ghế như đã ngũ tụ lâu rồi. Mặc kệ, tàu vẫn chạy xiết trên đường sắt như con thú điên , với hai ánh đèn pha phá tan màn đêm tăm tối. Hởi ơi cuộc đời sao oan nghiệt quá, trong lúc nhà nhà đang đầm ấm chờ đón chúa xuân, thì tôi trong một tối ba mươi tết, buồn rầu nơi toa xe lửa lạnh lẽo này, yên lặng nép mình trong cô quạnh , để đón một mùa xuân vàng úa nữa, sắp rơi xuống bờ vai của cuộc đời.

           Trong giờ phút năm cũ sắp tàn, con tàu cũng hối hả lướt qua từng ga vắng Sông Dinh, Sông Phan,Suối Vận, Mường Man rồi Phú Hội vừa đúng 12 giờ rưởi sáng. Thế là năm mới đã qua và tôi cũng đã lở dịp nghiêng mình chào đón nàng xuân mới trên quê hương mình. Trên tàu ai nấy đều thức dậy, đang chuẩn bị xuống ga Phan Thiết. Tất cả đều xa lạ, hờ hững, buồn rầu, im lặng như bóng tối, không ai chúc nhau một lời ngắn ngủi dù là ngày tết. Bổng đâu đấy nơi một thôn xóm nào đó, dọc theo con đường sắt vang lên mấy tràng pháo chuột, bóng sáng lập lòe như muốn đưổi theo con tàu, khiến cho hồn thêm buồn rầu thương tiếc. Nổi náo nức thầm kín vừa lóe lên, chợt tắt hẳn khi nghĩ đến thực tại não nùng.
         
          Bài hát cũ của nhạc sỹ Nguyễn văn Ðông, mấy chục năm về trước, nay sao vẫn nhớ như niềm nhớ về những cái tết xa xưa nơi chiến địa : “ Chốn biên thuỳ này xuân tới chi, tình lính chiến khác chi bao người “. trong những đêm tiền đồn hay các cuộc dừng quân bất chợt, được vui ké tết với bản làng người Kpho ở Di Linh,người Thái tại Tùng Nghĩa, người Chàm vùng Tánh Linh hay người Mường tại Long Khánh ..qua những cái tết vui nhộn từ đầu thôn tới cuối ấp,  khiến người lính trẻ xa nhà chạnh lòng để rơi nước mắt, khi " nhớ về những ngày xuân cũ ", nhớ màu hoa cúc hoa mai, tết đến nở tròn như mắt môi em một thời tuổi học, tay anh đang ghì trên bán súng,mà  cứ ngở đang nắm chặt tay em, khi hai đứa sóng bước vui xuân trên các đường phố Phan Thành...

          Hởi ôi, mấy chục năm về trước, tôi, người lính trẻ xa nhà vẫn đam mê chạy đuổi theo những giọt mưa xuân giữa trời lửa loạn. Nay trong buổi xuân về, người lính già nơi đất khách trong buổi hoàng hôn, vẫn cứ lội ngược thời gian, để  mong tìm dấu vết ngày thơ như còn giấu đâu đó, nơi vòm trời đồng đội, và em, và những tết cuối cùng trong quân ngũ, để ngẩn ngơ bàng hoàng xúc động, như thể vừa bước chân lên con tàu về quê hương, của những tết ấm yên hạnh phúc đầu đời -/-


Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2016
HỒ ÐINH

__._,_.___

Posted by: Ho Dinh 

Saturday, December 24, 2016

Cuối năm lại nhớ đến Đại Đế Quang Trung, tiêu diệt quân Xiêm tại Mỹ Tho năm 1785

Kính chuyển
MG
Cuối năm lại nhớ đến Đại Đế Quang Trung,
 tiêu diệt quân Xiêm tại Mỹ Tho năm 1785
MƯỜNG GIANG


        Xưa nay, bất cứ quốc gia nào cũng đều có những trang lịch sử đẫm máu và nước mắt. Từ đó mới có những anh hùng-liệt nữ, cũng như bọn phản tặc bán nước hại dân, các đấng minh quân hay lũ bạo chúa. Lịch sử là vậy , nên dù được viết bằng văn tự rõ ràng hay loan truyền qua bia miệng, miên viễn người đời ai cũng thích tôn kính các bậc anh hùng vì dân vì nước, dù họ có phạm lỗi lầm như Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, Lê Lợi..

          Cận sử VN có Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh), có công rất lớn đối với dân tộc, vì đã thống nhất được đất nước, từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến giữa Trịnh-Nguyễn và nhà Tây Sơn. Ông cũng đã ổn định được một vùng đất mới, do các chúa Nguyễn tại Nam Hà, đã khái phá được, từ Thuận Trấn (Bình Thuận) vào tới Hà Tiên ( Thủy Chân Lạp), biến chốn hoang vu ma thiêng nước độc, bị người Chàm và Khmer bỏ hoang hằng bao thế kỷ, thành nơi thị tứ phồn hoa, ruông vườn xanh mơ bát ngát, mà ngày nay con cháu thênh thang ấm no mừng hưởng.

          Nhưng đã nói lịch sử vốn vô tình, công thì sùng kính ca ngơi nhưng nếu có tội vẫn bị chữ nghĩa phanh thây trên trang giấy. Nên đồng thời nhà vua cũng bị các sử gia nặng bút phê phán về nhiều tội như ' Vong Ân Bội Nghĩa ', khi chính tay giết những công thần đã giúp mình gồm Đổ Thành Nhơn, Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường.. Vua cũng là người nhỏ nhen khi ra lệnh đào mồ Quang Trung, phân thây Bùi Thị Xuân và trên hết vì muốn chiếm lại đế nghiệp, đã phải nhờ nước ngoài giúp mình, gây nên cảnh nồi da xáo thịt. Ngoài ra vua cũng như nhà Nguyễn đã quá ngu muội, đần độn, khi vẫn tiếp tục coi Nho là quốc giáo, để an bang tế thế, trong lúc đã nhìn thấy rõ, là Thanh Triều, cũng vì chính trị thối nát, nên nước Tàu, cũng đang bệ rạc, đâu có điều gì hay, để cho VN phải bắt chước ?

          Ngày nay qua những khai quật của lịch sử, việc quân Xiêm vào xâm lăng đất đai Nam Kỳ, nói là do Nguyễn Ánh cầu viện, vẫn đang là một nghi vấn. Nhưng sử viết vua Gia Long là người cực đoan, có tình yêu nước nồng nàn, qua hành động không bao giờ chịu cắt một ly đất đai của nước ta, nhường cho ngoại quốc, kể cả sứ bộ Bá Đa Lộc, từng vào sinh ra tử với Chúa,lúc còn tẩu quốc , đó là sự thật.

          Qua sử liệu, ai cũng biết xưa nay, trên bán đảo Đông Dương, Đại Việt và Xiêm La là hai con cọp, lúc nào cũng muốn tranh giành ảnh hưởng chính trị với hai nước yếu nằm giữa là Chân Lạp và Ai Lao, nên trong quá khứ đã có nhiều đụng chạm giữa hai nước và lần nào người Xiêm cũng bị bại trước sự dũng mãnh phi thường của nước Việt.

          Tuy nhiên người Xiêm đã thật sự sợ dân Việt hơn cọp, sau khi bị vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), tiêu diệt hơn 2 vạn quân, đồng thời đốt rụi 300 tháp thuyền, tại Vàm Rạch Gầm-Xoài Mút, tỉnh Định Tường, vào những ngày sắp Tết năm 1785.

          Vì vậy từ đó tới nay, Thái Lan thâm thù người Việt đến tận xương tủy, nên hằng tìm đủ mọi cách để trả thù. Thảm kịch của đồng bào tị nạn Nam VN trên biển Đông, do hải tặc Thái Lan gây ra, được chính quyền nước này làm ngơ hay chỉ ngó tới một cách lơ là chiếu lệ, đã nói lên rõ ràng sự trả thù của vua chúa nước này đối với VN, qua những hận nhục bại trận quá khứ. Đây cũng là một hệ lụy tất yếu của dân tộc hùng anh dũng liệt Đại Việt, nhưng luôn bất hạnh vì thiếu vắng những bậc cầm quyền tài trí đảm lược, nhất là trong thời cận sử cho tới ngày nay, khiến cho nước ta luôn bị lệ thuộc ngaọi bang, không biết tới bao giờ mới ngoi lên khỏi vũng bùn nô lệ.
.
' tiếng ai than khóc sầu thương
Nhị Hà nước xuống trùng dương xa mờ
Chương Dương, Hàm Tử ngàn xưa
Giờ sao sông núi, bụi Hồ vấn vương .. ' '

1- NƯƠC XIÊM LA :

          Xiêm La hay Thái Lan ngày nay có diện tích 198.455 sq.ml hay 512.998 km2, dân số tính tới năm 2004 là 55.448.000 người, thủ đô là Bangkok (Vọng Các) chưa kể ngoại ô có 1.867.297 người. 95% người Thái theo Phât giáo tiểu thừa.

          Thật ra Xiêm không phải là quốc hiệu của người Thái. Đó là cái tên mà người Cao Mên và Chiêm Thành dùng để gọi họ. Ngay từ thế kỷ thứ XI, danh từ SYAM đã thấy xuất hiện trên các văn bía của người Chàm tại Trung phần VN, còn hình ảnh của người Syam, thì đầy rẩy nơi các di tích của người Khmer, tại đền Angkor được dựng lên từ thế kỷ thứ XII sau TL.

          Người VN theo cách gọi của Miên và Chàm, cũng gọi là Xiêm. Riêng người Tàu qua lối phát âm Bắc Kinh, đọc là Tiêm, rồi ghép với tên của nước La Hộc, tức là vùng Lyo ngày nay, thuộc Lopburi ở hạ lưu sông Mê Nam, thành nước Tiêm-La. Còn người Pháp cũng dựa vào lối phiên âm Tàu mà đọc là Siam, trong lúc người Anh thì nói trại là Saiam. Trong bộ Bách Khoa Từ Điển của Ý Đại Lợi (Enciclopedia Italiana), đã giải thích rằng Anh và Pháp khi dùng tiếng Siam để chỉ người Thái, là căn cứ vào tiếng Saiam Sayang của người Miến Điện dùng để chỉ người Xiêm, rồi đọc trại ra là Siam hay Saiam.

          Nhưng căn cứ vào sử liệu, ta thấy từ ngày lập quốc đến nay, người Thái gọi mình là Thay, còn người Shan là Nghiện. Riêng danh từ Siam chỉ mới xuất hiện gần đây. Do trên thời xưa, nước Thái Lan được gọi là Mường Thay hay Prathet Thay. Đời vua Rama IV (1851-1868), quốc hiệu mới được đổi là Sayam (Xiêm), để đánh dấu nước này canh tân theo văn minh tây phương. Năm 1939, tướng Phibul Songgram lên làm thủ tướng, mới đổi quốc hiệu từ Xiêm sang Thái. Từ 1945-1948, tên nước trở lại là Xiêm và sau đó tới ngày nay, chính thức là Thái. Với người Anh, họ phiên âm Thay thành Thai, còn Prathet là Land, nên sau này gọi nước Xiêm là Thailand. Theo cách đó, người Pháp viết là Thailande, còn VN thì đọc là Thái Lan.

2 - NHỮNG GÂY CẤN GIỮA ĐẠI VIỆT VÀ THÁI LAN :

          Từ đầu thế kỷ thứ XVII, người Việt đã tới khai hoang tại vùng Đồng-Nai và Mỏi-Xùy (nay là Biên-Hoà và Bà Rịa) của Chân Lạp. Vì muốn thoát khỏi ảnh hưởng và sự kềm kẹp của Xiêm La đã có từ trước đến nay, nên quốc vương nước này là Chey Chetia II sang cầu thân với Chúa Nguyễn Nam Hà, để nhờ che chở. Nhân dịp đó, Chúa Hy Tôn-Nguyễn Phúc Nguyên đã vì dân nước, nên đành đem con gái cưng của mình là Ngọc Vạn, gã cho vua này làm Hoàng Hậu vào năm 1620, để lấy chỗ dựa cho dân Đại Việt tới làm ăn tại Chân Lạp. Chúa còn đem người con gái kế là Ngọc Khoa, gã cho vua Chàm để mượn đường bộ từ Phú Yên vào Đồng Nai, vì lúc đó nước Chiêm Thành vẫn còn. Do trên Xiêm La đả kết thù với Đại Việt, vì cả hai đều muốn giành giựt ảnh hưởng tới Lào và Miên, vốn là hai nước nằm giữa rất yếu kém, do nội loạn thường trực.

          Năm 1672, Chey Croetha III làm loạn, giết cha vợ là vua Batom Reachea và dắt quân Xiêm từ Nam Vang xuống Sài Côn, chiếm lại tất cả thành trì, đồng thời đuổi giết người Việt đang khẩn đất làm ăn tại Đồng-Nai, Mõ Xùy. Năm 1674 Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai binh tướng sang Thủy Chân Lạp, đánh đuổi quân Xiêm chạy về biên giới Miên-Thái, giết vua Nặc Ông Đài. Sau đó lập Năc Thu làm vua Lục Chân Lạp, đóng tại Nam Vang và Năc Nộn là phó vương miền Thủy Chân Lạp, tại Sài Gòn. Từ đó người Miên thần phục Chúa Nguyễn.

          Năm 1687, quân Xiêm lại vào cướp phá đất Hà Tiên, bắt Mạc Cửu đem về giam lỏng tại Muang Garaburi nhưng sau đó, ông đã trốn được về nước vào năm 1700. Từ đó Mạc Cửu đem đất đai Hà Tiên và binh sĩ dưới quyền, xin thần phục Nam Hà, nên được Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu phong chức tổng binh.

          Năm 1717, quân Xiêm tấn công Hà Tiên, Mạc Cửu binh ít chống cự không nổi, nên phải bỏ thành lui về giữ Long Kỳ. Quân Xiêm vào tàn phá Hà Tiên thành bình địa nhưng sau đó chiến thuyền bị bão đánh đắm trong vịnh Phú Quốc, nên phải rút về nước. Mạc Cửu trở về kiến tạo lại Hà Tiên và đắp thành ngăn giặc vào năm 1718.

          Năm 1769, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh đem quân thủy bộ tấn công Hà Tiên, lại đặt đại bác trên núi Tô Châu bắn vào thành sát hại nhiều dân chúng vô tội. Tổng binh Mạc Thiên Tứ vì binh ít và không có tiếp viện, nên phải bỏ thành, cùng các con Mạc Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên.. lui về Trấn Giang (Cần Thơ). Nhưng quân Xiêm đã bị các tướng lãnh trấn thủ Long-Hồ và Đông Khấu là Tống Phước Hợp và Nguyễn Hữu Nhân, đánh đuổi phải bỏ Hà Tiên, chạy về cố thủ thành Nam Vang.

          Năm 1772, Duệ Vương Nguyễn Phúc Thuần sai chưởng cơ Nguyễn Cửu Đàm, thống suất hai đạo Bình Khánh và Bình Thuận, gồm 10.000 quân thủy bộ và 30 chiến thuyền. Quân Nguyễn chiếm lại Hà Tiên và Chân Lạp, rồi đưa Nặc Tôn về Nam Vang làm vua trở lại. Từ đó quân Nguyễn đóng luôn ở Nam Vang, bảo hộ và làm cố vấn cho quốc vương Chân Lạp.

          Năm 1780, vì tàu buôn bị cướp ở Hà Tiên, vua Xiêm nghe theo lời xúi của quan Chân Lạp tên Bồ Công Giao, bắt cha con Mạc Thiên Tứ, Tử Hoàng, Tử Thương, Tử Duyên cùng sứ thần của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Xuân.. đem xử trảm. Mạc Thiên Tứ lúc đó trên 70 tuổi, uất ức tự tử chết. Riêng gia quyến của họ đều bị đầy lên tận biên giới Miến-Thái.

          Năm 1782, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh bị hai tướng Chất Trí và Sô Sĩ giết chết. Chất Trí lên làm vua Xiêm, xưng Phật Vương (Rama 1), tha những người Việt bị đầy , đồng thời giao hảo với chúa Nguyễn Ánh lúc đó đang bị quân Tây Sơn đuổi giết tận tuyệt

          Năm 1784, mượn cớ sang giúp Nguyễn Ánh, vua Rama 1, sai 2 vạn thủy quân và 300 tháp thuyèn, do hai người cháu là Chiêu Sương, Chiêu Tăng sang xâm lăng Nam Phần. Quân Xiêm chiếm các đạo Kiên Giang, Trấn Giang, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc.. đồng thời cướp của giết người, không ai có thể ngăn cản nổi. Sự kiện trên làm cho Nguyễn Ánh cũng phẫn uất nhưng phải bó tay ví không còn binh lực để kềm chế giặc.

          Cuối tháng chạp cùng năm, được tin quân Xiêm đã tới Định Tường, nên Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ, từ Qui Nhơn đem quân thủy bộ vào chận đánh, phá tan 2 vạn quân Xiêm tại vàm Rạch Gầm-Xoài Mút. Từ đó người Xiêm sợ Đại Việt như sợ cọp.

          Năm 1817, sau khi chiếm được Stung Treng và Vạn Tượng của Lào. Quân Xiêm tràn sang chiếm một phần cao nguyên Trung Phần, lúc đó gần như chưa có chính quyền VN hiện diện. Bọn quan lại Xiêm cai trị đồng bào thiểu số tại đấy rất tàn ác dã man. Tình trạng kéo dài tới thời Pháp thuộc mới chấm dứt.

3-NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT QUÂN XIÊM TẠI ĐỊNH TƯỜNG:

- Địa Danh Rạch Gầm, Xoài Mút (Mỹ Tho) :

          Đất Định Tường thuộc dinh Phiên Trấn, được Túc Tông Nguyễn Phúc Trú thành lập vào năm 1731. Vào năm 1772 Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần đổi là Đạo Trường Đồn, rồi thành Huyện Kiến An vào năm Gia Long nguyên niên 1801.

          Năm 1802 lại cải thành Dinh Trấn Định, phiên trấn Định Tường. Đời vua Minh Mang (1820-1840), chính thức chia đất Nam Kỳ, thành sáu tỉnh trong đó có tỉnh Định Tường. Danh xưng này tồn tại tới ngày 30-4-1975 thì mất

          Riêng hai địa danh ' RẠCH GẦM-XOÀI MÚT' nằm trong tỉnh Định Tường. Theo các tài liệu cổ có từ thời nhà Nguyễn, thì Rạch Gầm ngày xưa được gọi là Sầm Giang. Đó là một con rạch dài chừng 15km, phát nguồn từ xã Long Tiên (Cai Lậy), chảy qua các thôn xóm trù phú thuộc các xã Kim Sơn, Vĩnh Kim, Mỹ Luông, Thuộc Phiên.rồi đổ vào sông Mỹ Tho (Tiền Giang) tại Kim Sơn. Khi người Việt từ miệt ngoài, theo chân các Chúa Nguyễn vào đây khẩn hoang lập ấp, thì vùng này toàn là rừng rậm cây cao, đầy các loại dã thú như voi, cọp, trăn-rắn, heo rừng, cá sấu. Nói chung chỗ nào đêm ngày cũng có tiếng cọp gầm voi rống, làm cho ai cũng kinh hồn, sởn óc, nhiều người vô phước bị cọp vồ, cá sấu táp khi phá rừng làm ruộng. Do trên, tổ tiên ta mới đặt tên vùng này là ' Rạch Cọp Gầm'. Về sau để dễ nhớ, nên kêu là Rạch Gầm tới ngày nay không đổi. Ở đây cây cối sầm uất, hai bên bờ rạch đầy dừa nước và nhiều cây bần mọc gie ra khỏi con rạch. Đúng là một vị trí chiến lược lý tưởng, để các nhà quân sự tài danh, áp dụng lối đánh du kích, phản kích và nhất là hỏa công trận.

          Vàm Rạch Gầm có bề ngang chừng 100m, thuộc xã Kim Sơn. Trên bờ có chợ nhỏ, bán đầy các loại thổ sản miệt vườn như cam, quít, ổi, chuối .. Nhưng chợ Rạch Gầm nổi tiếng xưa nay vẫn là Vú Sửa, món đặc sản bản địa, ngon-ngọt hơn bất cứ nơi nào khác. Đặc biệt, vú sữa lại đơm bông kết trái đúng vào cuối đông sắp Tết Nguyên Đán. Cũng theo tài liệu, thì xã Kim Sơn được thành lập rất sớm trong trấn Định Tường, vào đầu thế kỷ thứ XVIII, do tiên hiền Lê Công Báu, nhưng dân chúng kiêng cữ đã đọc là Bích. Về sau ông được nhà Nguyễn phong làm Thành Hoàng và vẫn được dân chúng điạ phượng thờ kính cho tới ngày nay.

          Xoài Mút chảy từ Giòng Dứa thuộc Ấp Thạch Long tới Ấp Thạnh Hưng, xã Phước Thạnh, rồi đổ vào rạch Xoài Hột và ra sông Mỹ Tho (Tiền Giang). Khúc rạch này cũng giống như Rạch Gầm rất um tùm. Hai bên bờ đầy dừa nước và cây bần mọc gie ra ngoài, tạo nên địa thế quanh co hiểm trở. Ở đây ngày xưa mọc đầy một loại xoài trái nhỏ, hột to, cơm ít, nên muốn ăn phải mút, nên mới xuất hiện danh xưng Xoài Mút. Ngày nay dân địa phương đã chặt bỏ hết để lấy đất làm vườn, nên họa hoằn lắm mới thấy một vài cây còn sót lại. Về hành chánh, thì Xoài Mút là tên con rạch, còn Xoài Hột là tên của một ngôi chợ thuộc xã Thạnh Phú, kế xã Bình Đức. Rạch Gầm cách Xoài Mút 7km và thành phố Mỹ Tho chừng 14 km.

- Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) : :

          Trong dòng Việt sử, dù triều đại Tây Sơn hiện hữu thật ngắn ngủi (1778-1802) nhưng qua hai chiến thắng bất hủ : Trận Thủy Chiến Rạch Gầm tiêu diệt quân Xiêm và Xuân kỷ Dậu đại thắng quân Thanh, đã đưa tên tuổi Quang Trung-Nguyễn Huệ, lên hàng Đại Đế, sánh bằng các quân vương-dũng tướng của dân tộc Hồng-Lạc mọi thời như Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,Nguyễn Trải, Lê Thánh Tông, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn Duyệt..

          Dù không đồng chính kiến nhưng tất cả các sử gia triều Nguyễn cũng như đọc qua các thiên du ký của các nhà truyền giáo phương tây. Ai cũng xưng tụng ông là một trong những thiên tài quân sự lửng lẫy của VN, có thể so sánh với các tên tuổi như Đại Đế Alexander Le Grand của Hy Lạp và vua Hung Nô Attila, là những thiên tài quân sự bách chiến bách thắng.

          Giống như các bậc danh tài trên, trong khi dùng binh vua Quang Trung luôn luôn theo đúng binh pháp Tôn Tử-Trần Hưng Đạo-Nguyễn Trải, đạt yếu tố bất ngờ, hành binh thần tốc và trên hết là biết tiên liệu tình hình địch, trước khi quyết định bày binh bố trận và tấn công. Ngoài ra để nêu gương với sĩ tốt cùng thuộc tướng dưới quyền, ông luơn luôn xông xáo nơi trận mạc, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lâm trận đi đầu hàng quân, hiệu lệnh rất nghiêm minh. Bởi vậy, tướng sĩ ai cũng muốn hăm hở, lăn xả vào cái chết, để được đền ơn nhà trả nợ nước, xứng đáng bổn phận làm trai nước Việt. Ngoài thiên tài quân sự, vua Quang Trung còn được các sử gia đề cao là một nhà chính trí có thao lược, điển hình qua cách chiêu hiền đãi sĩ, kính trọng tài năng mọi người không phân biệt bất cứ một ai. Riêng tư cách thì hòa nhã độ lượng, trong khi đối xử với vua Lê và cái chết của chúa Trịnh Khải

          Nói chung từ trước tới nay, qua dòng lịch sử, VN có ba thiên tài quân sự là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Bình Định Đại Vương Lê Lợi và Đại Đế Quang Trung-Nguyễn Huê. Nhưng mỗi người đều có phép hành binh riêng biệt. Với Hưng Đạo Vương, sở trường về lối đánh ' Dùng ít chọi đông ' mà binh pháp gọi là Dàn Binh, Tướng Trận. Còn Bình Định Vương Lê Lợi thì ứng dụng phép ' Dĩ Dật Đãi Lao ', tức là lối đánh du kích, làm tiêu hao lực lượng địch. Trái lại Quang Trung Nguyễn Huệ thì luôn luôn sử dụng vận động chiến, tấn công địch trước trong tư thế mạnh với quân số, hỏa lực, mưu kế và phương tiện.

- Thủy Quân VN dười thời Tây Sơn :

          Từ năm 1627-1672, Trịnh Nguyễn đã đánh nhau bảy lần, trên chiến trường Nam và Bắc Bố Chánh (tỉnh Quảng Bình ngày nay), nhưng bất phân thắng bại. Trong lúc giao tranh, cả hai phía gần như chỉ sử dụng bộ chiến, dù cả hai đều có một đạo thủy quân rất quan trọng. Theo tài liệu của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì chúa Nguyễn ở Nam Hà có 200 chiến thuyền loại Galéré, họ Trịnh ở miền Bắc có tới 600 chiếc. Còn Quang Trung Nguyễn Huệ trái lại, đã đề cao vai trò thủy quân trên hết. Nhà vua đã cách mạng hoá hải quân bằng lối đóng thuyền cho phù hợp với bờ biển VN, trong đó đặt nặng việc trang bị vũ lực trên tàu thuyền.

          Theo sử liệu, thủy quân Tây Sơn có nhiều tàu vận tải cũng như tàu chiến, số lượng trên 1000 chiếc. Một du khách người Anh tên John Barraw, tới thăm Đàng Trong vào thế kỷ XVIII, đã viết :'Người Việt ở đây có một nghề rất tự hào, đó là kỹ thuật đóng tàu đi biển '.Theo tác giả, thuyền của Người Việt rất đẹp, chiều dài từ 50-80 pieds (1 pied bằng 0,30m), được ghép bằng 5 tấm ván, ăn khít nhờ có mộng bên trong. Thuyền lại được chia thành nhiều khoang kín, nên rất khó chìm.

          Theo Jean Baptiste Chaigeau, một võ quan người Pháp từng theo giúp chúa Nguyễn Ánh, cho biết thủy quân Tây Sơn gồm có nhiều hải đội, tổ chức khác nhau tùy theo trang bị. Do đó có thủy đội gồm 9 tàu, mỗi chiếc được trang bị tới 66 khẩu đại bác loại đường kính 24. Có thủy đội chỉ có 5 tàu, mỗi chiếc mang 50 khẩu đại bác cũng loại 24. Có thủy đội gồm tới 40 tàu, mỗi chiếc trang bị 16 khẩu đại bác cỡ 12 ly và một thủy đội đặc biệt gồm 93 tàu, mỗi chiếc chỉ có một khẩu đại bác lớn, nòng cỡ 36. Ngoài ra còn có 300 pháo hạm và 100 tàu buôn cỡ lớn. Tất cả tàu thuyền của Tây Sơn đều dùng cánh buồm hình chữ nhật.

          Về thủy quân trên tàu, thì mỗi thủy đội loại trang bị 66 khẩu đại bác, có quân số trên 700 người. Quân Tây Sơn được trang bị rất mạnh, vũ khí cá nhân gồm giáo mác, còn có súng điểm thương nhưng lợi hại nhất vẫn là loại súng phun lửa, gọi là ' Hoả Hổ' khi hai bên cận chiến. Nhờ những ưu thế về trang bị cũng như kỹ thuật tác chiến, nên thủy quân Tây Sơn đã thắng quân Xiêm một cách dễ dàng. Mặc dù lúc đó hạm đội Xiêm La cũng rất tân tiến, vì được đóng theo kỹ thuật Tây Phương, mà người Việt gọi là Tháp thuyền. Đây là loại ghe tam bản rất cao lớn, trên có pháo tháp trí súng đại bác. Các thủy thủ ngồi ngoảnh mặt về phía bánh lái mà chèo.

-Thủy Chiến tại Rạch Gầm, Xoài Mút :

          Các sử gia hiện nay, khi viết về chiến thắng của Vua Quang Trung tại Rạch Gầm-Xoài Mút, đều thắc mắc về việc hành quân của Tây Sơn. Ngay khi nghe hung tin, đại quân Xiêm La gồm thủy bộ hơn 50 vạn và 300 tháp thuyền, đã chiếm gần hết các trấn tại Nam phần. Hiện thủy quân Xiêm đã tới trấn Định Tường. Trong lúc đó Long Nhưỡng tướng quân là Nguyễn Huệ còn ở tận Qui Nhơn. Vậy ngài đã cho thủy quân từ biển vào cửa Tiểu để tới Mỹ Tho hay là vào cửa Cần Giờ, rồi men theo dòng Vàm Cỏ Tây để tới Rạch Gầm Xoài Mút, tạo yếu tố bất ngờ, đối với quân Xiêm ? Chuyện này đã không thấy các nhà sử học xưa đề cập tới, kể cả các tài liệu của quốc sử quán triều Nguyễn.

          Nhưng về chiến tích của trận thủy chiến lịch sử, thì hiện nay vẫn còn đầy rẩy trên đất Định Tường cũng như trong kho tàng văn chương bình dân bản địa, qua các bài hát ru em, ca dao, tục ngữ.. ' '

' Ầu ơ, Rạch Gầm-Xoài Mút tăm tăm
xế xuống chút nữa, là vàm Mỹ Tho
bần gie đóm đậu sáng ngời
Rạch Gầm-Xoài Mút muôn đời oai linh
Chẻ tre bện sáo cho dầy
Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau
Hay : ' gái Mỹ Tho mày tằm mắt phượng
Giặc đến nhà, chẳng vụng hươi đao.. ' '

          Ngày nay người dân sống ở rạch Bà Hào, kế rạch Gầm , vẫn thường hay kể những chuyện ma quỷ xuất hiện, vào những đêm mưa to gió lớn, mà họ quả quyết, đó là ma Xiêm, chưa được siêu thoát, dù cuộc chiến đã tàn hơn vài thế kỷ. Cũng ở vùng này, còn có một địa danh mang tên là ' Nghĩa địa Xiêm' vì có nhiều thuyền tháp bị chìm, hiện vẫn còn trơ các hàng cột ở Đìa Đôi (Ấp Hội), đầu cồn Phú Túc (Bến Tre). Ngoài ra còn nhiều quân dụng của lính Xiêm bỏ lại trận địa, được tìm thấy như súng thần công, gươm giáo, ấm, chén, nồi đồng.. tại vàm Rạch Gầm.

          Mùa thu năm 1785, vin vào cớ giúp Nguyễn Ánh đang bị quân Tây Sơn truy sát. Vua Xiêm Rama 1, cho 50 ngàn quân thủy bộ, tấn công VN bằng hai cánh quân. Lộ quân bộ chiến gồm 3 vạn, từ Nam Vang vào Nam Phần. Cánh thứ hai gồm 20 ngàn thủy quân, với 300 tháp thuyền. Cánh quân thủy này do hai người cháu của vua tên Chiêu Sương và Chiêu Tăng thống lãnh, theo đường biển, vào cửa Rạch Giá ngày 25-7-1785. Hai đạo quân Xiêm thế mạnh như chẻ tre, lần hồi chiếm hết các dinh trấn tại Nam phần như Kiên Giang, Trấn Giang,Ba Thắt, Trà Ôn, Măng Thít.. và tới Định Tường. Bấy giờ đạo quân tinh nhuệ nhất của chúa Nguyễn Ánh ở Nam Phần đã bị tan vỡ vì chúa tướng là Châu Văn Tiếp tử thương, nên không còn ai có thể cản nổi quân Xiêm. Do đó, trên bộ cũng như dưới sông, quân Xiêm tới đâu, cũng cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ Việt, tiếng than oán vọng tận trời cao, thật là thảm tuyệt.

          Tin dữ tới Phú Xuân, nên Long Nhưỡng tướng quân được lệnh, tức tốc đem quân thủy bộ từ Qui Nhơn vào Nam cứu viện. Lúc đó trời đang cuối đông, chỉ còn vài ngày nửa là đón Tết Giáp Thìn 1785. Để có thể tiêu diệt quân Xiêm đang trong thế mạnh và đông hơn quân ta, ông cho bày diệu kế, bằng lối mai phục rồi bất thần đánh úp tàu giặc đang neo đầy trên sông Mỹ Tho, giữa đọan Rạch Gầm-Xoài Mút. Đồng thời dùng hỏa công trận, để thiêu rụi toàn bộ thủy quân Xiêm.

          Mở đầu cuộc tấn công, quân Tây Sơn dùng cùi, lá và dầu dừa trộn chung với dầu mù u để làm bè lửa. Lại bày nghi binh kế, bằng cách lấy vỏ dừa khô rồi vẽ mặt người, đoạn kết thành bè, thả trôi lềnh bềnh gần chỗ thuyền giặc đậu. Chính diệu kế này, khiến cho quân Xiêm hoảng hốt, cứ ngỡ là quân Tây Sơn lặn đục thuyền, nên các tàu liên tiếp nhả đạn cho tới hết. Để nắm vững tình hình trận chiến, ông cho dựng hai chòi chỉ huy ở hai đầu sông, một tại Chùi Mong (đầu rạch Xoài Mút), còn chòi kia ở vàm Rạch Gầm. Hai chòi chỉ huy có nhiệm vu ban lệnh tấn công, khi thấy thuyền quân Xiêm lọt hết vào trận địa. Ngoài ra không muốn để cho một thuyền giặc nào còn sống sót, Nguyễn Huệ cho chẻ tre bện thành sáo dầy có cột đá hòn, để ngăn dòng Tiền Giang, tại Ấp Tây, thuộc xã Kim Sơn, ngược vàm Rạch Gầm khoảng 1 cây số.

          Khi toàn bộ chiến thuyền của Quân Xiêm đã lọt vào khúc sông trận địa, do tín hiệu từ hai chòi chỉ huy cấp báo, lập tức ông ban lệnh tấn công. Lúc đó giữa sông thì lửa đốt, còn trên bờ dùng đại bác, tên và súng phóng lửa nhắm vào 300 tàu giặc mà bắn. Vì quá bất ngờ, nên hai đại tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng 300 tháp thuyền với 20.000 quân, trở tay không kịp, lớp thì chết cháy, phần khác bị quân Tây Sơn giết. Chiêu Sương cùng Chiêu Tăng và vài ngàn tàn quân may mắn lội được vào bờ , cùng với quân bộ chiến, dùng đường bộ chạy về Nam Vang, rồi rút hết về Vọng Các, vì sợ quân Tây Sơn truy sát. Từ đó người Xiêm La bỏ mộng tranh bá đồ vương với Đại Việt trên bán đảo Đông Dương, đồng thời sợ người Việt hơn cọp.

          Ngày nay nhờ đọc lại những trang sử cũ, ta mới thấy tiền nhân đã mở dựng và giữ nước thật là gian lao cực khổ, có thể nói là người Việt đã đem máu và nước mắt của mình, để tô bồi làm xanh thêm đất, khiên hoa cỏ mới nở rộ được khắp thôn làng, đê cho chúng ta thênh thang tọa hưởng.

          Bổng thấy thấm thía tận cùng về lời nói của vị thánh quân Lê Thánh Tôn cách ta hằng bao thế kỷ : ' phải giữ gìn cẩn thận, đừng để ai lấy mất một phần sông núi của tổ tiền để lại'. Xem như thế đủ chứng tỏ rằng tiền nhân từ thời xa xưa, đã thấy trước dã tâm xâm lăng đồng hoá nước Việt của giặc Tàu, nên lúc nào cũng đoàn kết để ngăn chống ngaọi xâm.

          Vậy mà ngày nay cọng sản VN lại liên tiếp, hết bán đất biên giới, hải đảo, tới sang nhượng biển vùng đánh cá ngàn đời của dân tộc trên biển đông, làm cho cơn hồng thủy sóng thần nỗi dậy, trước sự bất lực ù lỳ của một tập đoàn cầm quyền, đang làm nô lệ cho Trung Cộng và tất cả ngoại bang, bất chấp quốc nhục

          Đúng như sử gia Hoàng Xuân Hãn đã viết :' trong dòng lịch sử Việt, khi thế nước bị suy vi hèn yếu vì chia rẻ, thì giặc Tàu mới dám lấn đất dành biển '.

          Không biết ngày nào cả nước mới có dịp theo sau gót ai, để đánh đuổi rợ Hồ, quang phục đất nước, như ngày xưa dân Việt đã theo sau bóng voi của Quang Trung Đại Đế vào Rạch Gầm-Xoài Mút đốt tàu giặc Xiêm hay ra Bắc Hà đánh đuổi quân Mãn Thanh chạy về Tàu vào những ngày Tết Kỷ Dậu 1789.

' Nhà tan sống cũng lạc loài
thánh hiền sách nát đọc hoài hay sao ?
biển Đông sóng vổ aò aò
ta nương cánh gió đi vào cõi xa
ngày mai cũng có một ngày
theo chân voi trận để vào Thăng Long.. ' '




Xóm Cồn Hạ Uy Di
Những ngày cuối Chạp 2016
MƯỜNG GIANG

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Đại Nam Nhất Thống Chí của Sử Quán nhà Nguyễn
- Việt sử xứ Đang Trong của Phan Khoang
-Lịch sử nội chiến của Tạ Chí Đại Trường
-Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ của nhiều tác giả
- sách báo trong và ngoài nước..


__._,_.___

Posted by: Ho Dinh 

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link