Lý
do Trung Cộng còn để Việt Cộng tồn tại trong một thời gian nữa là vì khả năng
của Việt Cộng làm tiêu tan sức mạnh đối kháng của dân tộc Việt giúp giùm cho
Trung Cộng. Ngày nào khả năng này của Việt Cộng không còn cần thiết nữa thì
Trung Cộng sẽ ra tay bóp nát Việt Cộng trong nháy mắt.
Sent: Thursday, May 18, 2017
9:07 AM
Subject: [PhungSuXaHoi] HẬU THÁNG TƯ ĐEN: Bàn về hoạt động tình báo của
Trung Cộng tại Việt Nam , Nguyễn Trọng Dân
Bàn về hoạt động tình báo của Trung Cộng tại
Việt Nam
Nguyễn Trọng Dân (Danlambao) - Mọi chế
độ tràn ngập tham nhũng chính là dấu hiệu của cả một quốc gia đang dần dần trở
thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của một quốc gia
khác. Mọi xã hội có chế độ độc tài thì xã hội đó bị suy yếu và mất sức đề
kháng. Việt Nam đã không còn sức để kháng Trung Cộng được nữa và sẽ trở thành nạn
nhân của sách lược "khống chế tình báo" của Trung Cộng. Niềm hy vọng
duy nhất cho sức để kháng Trung Cộng của Việt Nam bây giờ chính là tinh thần
dân tộc dân quyền của công dân Việt Nam Cộng Hòa ở trong nước lan ra tới hải
ngoại. Ngày nào còn chê bai, dị biệt, xa lánh tình thần Việt Nam Cộng Hòa là
ngày đó, Việt Nam vẫn còn là nạn nhân của Trung Cộng trên mọi lãnh vực từ kinh
tế chính trị đến an sinh xã hội, là nạn nhân của sách lược "khống chế tình
báo" do Bắc Kinh tiến hành.
*
A. Lời mở:
Giới phân tích về tinh hình Việt Nam hết sức ngạc nhiên
khi vào ngày 30 tháng Chín năm 2015, ông Hà Huy Hoàng, một phóng viên làm việc
cho tờ báo Thế Giới do bộ Ngoại Giao của Việt Cộng làm chủ quản, đã bị kết án
sáu năm tù về tội làm gián điệp cho Trung Cộng (1)
Việt Cộng đã lật đật gỡ xuống hết các bài báo trên mạng về
vụ việc ông Hà Huy Hoàng nhưng theo tường trình của các hãng thông tấn gần xa
bên ngoài Việt Nam có thể dò tìm trên mạng nhờ vượt tường lửa hay liên kết link
((2) & (3)), chúng ta biết ông Hoàng được cho là có dan díu với một nữ
phóng viên làm việc cho ban tuyên giáo của Trung Cộng có tên là Nhạc Xuân. Ông
Hoàng quen biết được Nhạc Xuân cũng nhờ sự giới thiệu thông qua một phóng viên
Trung Cộng khác làm việc tại Việt Nam có tên là Tôn Vân Quế.
Ông Hoàng cũng bị
cáo buộc đã sáu lần sang Nam Ninh Trung Cộng từ năm 2009 đến năm 2011, gặp gỡ
"cảm tình" với Nhạc Xuân để rồi từ đó, nhiều tin tức bí mật được tiết
lộ. Ba điểm mấu chốt của các tin tức mà ông Hoàng tiết lộ cho Trung Cộng có thể
tóm tắt như sau:
Điểm một: Kế hoạch của Việt Cộng đối với các cảng biển
quan trọng của Việt Nam vào năm 2020.
Điểm hai: Tin tức ai giật dây bạo động mạnh chống người
Trung Quốc tại Bình Dương.
Điểm ba: Thông tin đời tư của giới chóp bu Việt Công.
Nghiên cứu kỹ tầm quan trọng của ba điểm trên, mọi người
dễ dàng thấy rõ như sau:
Về điểm một - vấn đề tiết lộ kế hoạch các cảng biển quan
trọng chiến lược của Việt Nam vào năm 2020:
Rõ ràng thông tin này cho thấy Việt Cộng đang giấu kín tối
đa chủ trương quốc phòng của mình đối với cảng Cam Ranh. Cam Ranh chính là ẩn số
mà Trung Cộng muốn dò tìm từ lâu. Năm 2012, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ là
Panetta khẳng định điểm mấu chốt của sự tiến triển quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ
là quyền sử dụng cảng Cam Ranh dành cho Hải Quân Hoa Kỳ. "Và tương lai này
sẽ không xa", ông Pannetta còn khẳng định thêm ((4),(5)).
Từ đó đến nay và
sau này, tổng thống Hoa Kỳ có thể khác nhưng chung cuộc, xác suất Hoa Kỳ sẽ vào
đóng quân tại Cam Ranh như ông bộ trưởng Panetta tuyên bố là rất lớn, có khác chăng
là Hoa Kỳ vào Cam Ranh như thế nào, điều kiện tiền bạc trao đổi thuê mướn như
thế nào. Dường như Hoa Kỳ rất kiên nhẫn, đang chờ đợi nền kinh tế định hướng Xã
Hội Chủ Nghĩa của Việt Nam vỡ nợ hoàn toàn thì mới đưa ra bản hợp đồng thuê mướn
Cam Ranh để thuê được rẻ hơn và khi đó, Việt Cộng cũng hết đường lựa chọn.
Về điểm hai-biểu tình đập phá bạo động chống người Trung
Quốc tại Bình Dương:
Một cuộc biểu tình bạo động chống Trung Cộng, dù mức độ
nguy hại có cao nhưng nếu không do người ở trong Cộng đảng giật dây tổ chức thì
việc gì Việt Cộng phải lo sợ giấu nhẹm?
Xin được nhắc lại là cuộc biểu tình bạo động tại Bình
Dương xảy ra vào tháng Năm năm 2014 (6). Đây là một cuộc biểu tình chống Trung
Cộng độc nhất vô nhị tại Việt Nam trước giờ, với một lực lượng thanh niên trai
tráng đông đảo hùng mạnh, có tổ chức, đập phá và kích động có bài bản, chuyên
nghiệp, có vũ khí, không có tâm lý sợ hay lo lắng công an chính quyền can thiệp
gì cả, ngang nhiên chủ động tinh hình tại nơi biểu tình, biến mất rất lẹ khi cần
thiết.
Rõ ràng lực lượng của cuộc biểu tình ở Bình Dương không phải xuất thân từ
phía người dân lành rất dễ đàn áp như đã thấy qua bao nhiêu cuộc biểu tình trước
giờ, kể cả cuộc tổng biểu tình ngày 5 tháng 3 mới đây. Rõ ràng lực lượng biểu
tình bạo động có tổ chức tại Bình Dương là lực lượng phải từ quân đội hay lực lực
lượng an ninh cải trang làm dân thường tiến hành biểu tình kích động gây đập
phá.
Kẻ quyền uy nào ở trong Cộng đảng giật dây cuộc biểu tình
ở Bình Dương vào năm 2014 phải là kẻ có khả năng đảo chánh Việt Cộng bất cứ lúc
nào cũng được. Cho nên, tiết lộ thân phận kẻ quyền uy này dính líu đến cuộc biểu
tình là điều tuyệt đối không thể nào chấp nhận được.
Về điểm thứ ba-thông tin về đời tư của giới chóp bu Việt
Cộng:
Đương nhiên, giới chóp bu trong chế độ Cộng đảng lừa dối
độc tài phải coi đây là tin tức rất nhạy cảm, nhất là các tin tức liên quan đến
các tài khoản của thân nhân em út giới chóp bu Cộng đảng. Cho nên tiết lộ các
tin tức này là điều không thể. Nếu ông Hoàng bị bắt vì tiết lộ những thông tin
này thì không có gì là lạ.
Thế nhưng, một nhân vật tép riu như ông Hoàng mà có thể
biết được chi tiết những tin tức tối mật liên quan đến cảng Cam Ranh, thân thế
quyền hành kẻ bí mật giật dây biểu tình chống Trung Cộng tại Bình Dương cũng
như chi tiết đời tư giới chóp bu để rồi tiết lộ cho Trung Cộng là một điều
không thể nào! Cho nên, việc Việt Cộng xử án thẳng tay sáu năm ông Hoàng về tội
gián điệp cho Trung Cộng là một hành động có tính dằn mặt về mặt chính trị bên trong
nội bộ Việt Cộng, cũng như dằn mặt về mặt ngoại giao giữa "tình đồng chí Cộng
Sản Việt Nam Trung Hoa" hơn là phòng chống hoạt động gián điệp của Trung Cộng
tại Việt Nam.
Ông Hoàng cùng lắm cũng chỉ là một người đưa tin cho một
nhân vật cao cấp nào đó trong giới chóp bu Việt Cộng đang ngã về phía Trung Cộng
hay có lập trường thân Trung mà thôi. Nội gián Trung Cộng cài vào nội bộ Việt Cộng
không thể nào chỉ ở cấp phóng viên chạy lăng xăng như ông Hoàng mà thực chất, nội
gián của Trung Cộng phải nằm ở ngay cấp chóp bu trung ương của Việt Cộng.
Trước đây, các "đồng chí" của Lê Khả Phiêu cũng
tung tin ra ngoài là Lê Khả Phiêu vướng phải ái tình với Trương Mỹ Vân do Trung
Cộng cài đặt sanh ra đứa con gái, để rồi từ đó bị Trung Cộng khống chế hết đường
cựa quậy mà phải dâng toàn bộ vịnh Bắc Bộ cho Trung Cộng. Chuyện ăn ngủ gái ghiếc
riêng tư của Lê Khả Phiêu, người dân làm sao mà biết được vì đảng bưng bít mọi
bề nên tin tức này phải là từ nội bộ của Cộng đảng xì tin tức ra ngoài.
Tuy nhiên, hai mảng tin về Hà Huy Hoàng cùng Lê Khả
Phiêu, một có thật, một đồn đại, cũng cho thấy là nội bộ chóp bu của Việt Cộng
chính thức thừa nhận sự khống chế của Trung Cộng về mặt tình báo lên Việt Nam
cũng như Trung Cộng sẽ tìm mọi cách khống chế và để đẩy mạnh hoạt động tình báo
tại Việt Nam. Lời thú nhận của tướng Công an Trương Giang Long (7) về hiện tình
Cộng đảng đang bị Trung Cộng "khống chế tình báo" không hiểu vì sao được
phát tán ầm ĩ trên mạng gần đây càng khẳng định thêm sự thật này.
B. Quan niệm "khống chế tình báo" của Trung Cộng:
Dựa trên sự phân tích hàng loạt các phản
ứng, các chính sách ở mọi mặt của Trung Cộng, mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy
mục tiêu của Trung Cộng là tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng ảnh hưởng chính trị,
quân sự của mình lên mọi nơi cũng như bành trướng địa dư, và tìm đủ cách bảo vệ
an toàn con đường chở dầu hỏa về cung phụng nền kinh tế của Trung Cộng. Từ đó,
Trung Cộng cần một đối sách chiến lược tình báo để tăng cường sức ảnh hưởng của
mình lên nhiều quốc gia, nhằm đảm bảo an ninh kinh tế và an ninh chính trị cho
Trung Cộng. Chiến lược tình báo này tạm gọi là chiến lược "khống chế tình
báo.”
Do đó, có thể hiểu định nghĩa của “khống chế tình
báo" là khả năng mà ngành tình báo có thể khống chế hay lèo lái quyết định
của giới cầm quyền của một quốc gia, của một tổ chức, một phe nhóm hay của một
công ty, vân vân, về mặt nhân sự, về mặt kinh tế đầu tư, về mặt quốc phòng, thông
tin và an ninh sao cho có lợi cho mình.
Ngành tình báo của Trung Cộng vạch rõ mục tiêu hay ngành
nghề cụ thể cần phải "khống chế tình báo" cho từng quốc gia khác
nhau. Do đó, hoạt động và mục tiêu tình báo của Trung Cộng ở mọi quốc gia cũng
khác nhau. Đặc biệt, trong nỗ lực bành trướng ảnh hưởng chính trị và kinh tế ra
toàn cầu, tình báo của Trung Cộng bỏ dần chủ trương hỗ trợ khủng bố của ba thập
niên từ 1960 đến 1990 mà từ từ tập trung đi theo khái niệm "khống chế tình
báo" để gia tăng quyền lợi kinh tế, quyền lợi chính trị của mình lên các
nước.
Tập Cận Bình là người chủ trương đẩy mạnh khái niệm tình
báo này. Nhờ lèo lái khôn khéo ngành tình báo tay chân của mình theo khái niệm
này, họ Tập đã có thể loại bỏ được vây cánh Trùng Khánh đông như kiến của Bạc
Hy Lai mà đảng Cộng Sản không bị đổ vỡ, lại có thể buộc trùm an ninh tình báo
Trung Cộng là Chu Vĩnh Khang buông tay đầu hàng không phản kháng. Đó là chưa kể
khiến phe Thượng Hải của họ Giang phải tan hàng dù biết vây cánh mình đủ sức giết
họ Tập bất cứ lúc nào mình muốn. Họ Tập cũng dùng phương thức "khống chế
tình báo" để buộc những kẻ bị mình thanh trừng không thể động binh phản
pháo mà phải tự tử hoặc chịu đòn tù tội trong im lặng dù binh lực nắm cả vạn
người trong tay, lúc nào cũng sẵn sàng.
Mức độ và khả năng "khống chế tình báo" của
Trung Cộng dưới thời họ Tập phát triển ngày một tinh vi, giúp cho họ Tập nắm toàn
quyền tuyệt đối trong nội bộ, bành trướng mạnh hoạt động tài chánh và đầu tư của
Trung Cộng ra ngoài hải ngoại, lèo lái âm thầm để những lập trường chính trị
bài xích hàng hóa Trung Cộng ở từng quốc gia bị suy yếu đi.
Đối sách "khống chế tình báo" mà Trung Cộng
đang sử dụng lên các nước ASEAN khiến ASEAN như bãi cát rời, khiến Mỹ thì chập
chừng thiếu quyết đoán, khiến Úc thì nghi ngại để rồi mọi quyết định cần thiết
của cộng đồng quốc tế để ngăn cản và chấm dứt sự xây lấn tái phép biển đảo của
Trung Cộng tại biển Đông không thể thực hiện được.
Quan niệm "khống chế tình báo" khác hẳn với
hành động khống chế theo kiểu "black mail" thường nghĩ ở một chổ, quyết
định của nạn nhân bị "black mail" hầu hết là cưỡng ép trong khi hầu hết
quyết định của những nạn nhân bị "khống chế tình báo" lại là tự nguyện
do suy tính phản ứng trước tình huống sao cho có lợi nhất về mình. Nghĩa là, nạn
nhân bị "khống chế tình báo" có thể là một tổ chức, một công ty, một
đảng phái hay một quốc gia, hay một nhân vật quan trọng, đưa ra quyết định sao
cho có lợi nhất cho mình, cho gia đình mình trong một hoàn cảnh nhất định,
nhưng sự suy tính đã bị chi phối bởi những ảnh hưởng bí mật do ngành tình báo
cài đặt từ xa, qua nhiều bước cài đặt tinh vi chồng chất. Nạn nhân có toàn quyền
quyết định khác đi nếu muốn, nhưng ngay cả khi quyết định khác đi, sự quyết định
này của nạn nhân cũng có lợi cho thế lực đang có phương tiện "khống chế
tình báo.”
Thí dụ như tình hình Việt Nam. Việt Nam hiện nay đang dần
dần trên đà là nạn nhân của phương thức "khống chế tình báo" của
Trung Cộng. Nghĩa là trong cả hai trường hợp, Việt Cộng quyết định chống ảnh hưởng
Trung Cộng hay Việt Cộng quyết định quy thuận Trung Cộng thì đều có lợi cho
Trung Cộng.
Nếu bàn thảo chống hay đánh Trung Cộng để tự vệ thì ngành
tình báo của Trung Cộng mọc rễ sâu rộng trong giới chóp bu của Việt Cộng dư sức
làm cho bộ Chính Trị của Việt Cộng bị rối loạn tự tan rã trong chớp mắt khiến
Việt Nam lại thuận thảo Trung Cộng hay bị Trung Cộng chiếm đóng.
Còn trong trường hợp Việt Cộng quy thuận
Trung Cộng ngay từ đầu thì Việt Cộng cũng không thể tồn tại trên quyền lực vì mọi
quyết định của Việt Cộng đều phải nằm trong một khung sườn chính trị ngoại giao
do Bắc Kinh để ra rất cụ thể và chi tiết. Nền tài chánh Việt Nam bị Trung Cộng
kiểm soát. Lúc đó, mặt nhân sự của Cộng đảng bị bóp méo mất tự chủ và toàn bộ nền
kinh tế quốc phòng của Việt Nam là do Trung Cộng chi phối đều khiến. Đó là chưa
kể Bắc Kinh có thể sẽ cử người trực tiếp tiếp quản Việt Cộng theo phương thức
bí thư hay cố vấn từ Bắc Kinh, ban thường trực là người địa phương, khiến Việt
Cộng hoàn toàn bị mất quyền lợi ngoại giao, quyền lợi kinh tế. Trung Cộng cũng
có thể sẽ chia Việt Nam ra thành nhiều quận hạt với nhiều hình thức bù nhìn
khác nhau khiến Việt Cộng không còn khả năng phản kháng.
Đương nhiên, Việt Cộng còn giải pháp ngã về phía Hoa Kỳ
mong Hoa Kỳ "rộng thương cỏ nội hoa hèn" mà giúp nhưng do bị “khống
chế tình báo” bởi Trung Cộng sâu rộng bên trong, làm gì mà nội bộ Việt Cộng có
thể đủ sức đi đến quyết định làm đồng minh của Mỹ?
Tuy nhiên, xin được lưu ý là nếu Việt Cộng bị lật đổ
trong bất ngờ để thể chế dân chủ dân quyền Việt Nam Cộng Hòa thiết lập thì mọi
nỗ lực "không chế tình báo" của Trung Cộng trước giờ lên Cộng đảng bị
hóa giải hoàn toàn- khiến Trung Cộng muốn có được tình huống "không chế tình
báo" trở lại thì phải cần thời giờ gầy dựng lại từ đầu rất khó và rất lâu.
C. Các phương thức "khống chế tình báo" của
Trung Cộng:
Đi tìm nguồn gốc của sách lược "khống chế tình
báo" mà Trung Cộng áp dụng để coi ai là cha đẻ của sách lược này, đến giờ
phút này vẫn chưa có sự khẳng định rõ ràng, chỉ biết là phương thức "khống
chế tình báo" của Trung Cộng là một chương hay một phần trong “sách lược sức
mạnh mềm" được Hoa Kỳ đẩy mạnh vào thời các tổng thống Clinton, Bush con
và Obama.
Đối với Việt Nam, "sách lược sức mạnh mềm" đã
được Hoa Kỳ áp dung vào năm 1992 và thỉnh thoảng bị hé lộ úp úp mở mở trên các
hãng thông tấn, trên các bài bình luận của các chiến lược gia Hoa Kỳ với tiếng
lóng là "flirting policy", tạm dịch là "đối sách dụ khỉ".
Dường như Trung Cộng bỏ hết các chương mục khác của toàn bộ đề nghị "sách
lược sức mạnh mềm" mà chỉ lấy chương "khống chế tình báo" trong
sách lược này để sử dụng với nhiều cách thức tàn nhẫn, tốn kém và gấp rút hầu
mong đạt được kết quả nhanh hơn dự tính trong mọi lãnh vực từ thanh trừng chính
trị đến khống chế kinh tế, chính trị ở nhiều quốc gia.
Thông qua hàng ngàn tin tức thu thập bấy
lâu về kinh tế chính trị trên thế giới, chúng ta có thể thấy Trung Cộng sử dụng
các phương thức chủ yếu sau đây để đạt được mục tiêu "khống chế tình
báo" của mình:
1, Lũng đoạn tài chánh
2. Mua chuộc nhân sự
3. Thâu tóm thị trường
4. Khống chế thông tin
5. Liên kết quyền lợi.
Như vậy, khi Việt Cộng là nạn nhân
"khống chế tình báo" của Trung Cộng thì:
1. Nền tài chánh do Việt Cộng chủ quản
sẽ bị Trung Cộng lũng đoạn tối đa.
2. Nhân sự hàng ngũ Cộng đảng cũng bị
Trung Cộng mua chuộc tối đa ở mọi cấp, kể cả ở quận huyện, ở khối doanh nghiệp,
ở các ban ngành.
3. Thị trường hàng hóa tại Việt Nam phải
là thị trường hàng hóa của Trung Cộng.
4. Mọi thông tin trên mạng từ mọi cơ sở
chính quyền, từ mọi tổ chức tại Việt Nam, kể cả email đều bị Trung Cộng thu thập,
phân tích và khống chế. Tất cả các internet server (hay gọi nôm na là ổ chứa vi
tính) hiện nay tại Việt Nam đều sẽ phải có các phần mềm dò xét (spyware) của
Trung Cộng cài đặt hay phải kết nối hoặc bị khống chế bởi các server của Trung
Cộng trong mục tiêu kiểm soát khống chế thông tin.
5. Quyền lợi đem đến nhờ độc tài đảng
trị đã là dã tâm làm mờ mắt các đảng viên và tạo ra sức hút quá mạnh buộc Việt
Cộng phải liên kết với Trung Cộng để chống đa đảng, đa nguyên và đòi hỏi tiến bộ
dân quyền trước sức ép của mạng internet và của Hoa Kỳ trong sách lược “sức mạnh
mềm.” Do đó, hợp tác giữa Việt Cộng và Trung Cộng về an ninh chính trị cần phải
có, để rồi vòng xoáy dã tâm tham vọng quyền lực khiến Việt Cộng từ từ hoàn toàn
trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của Trung Cộng
hết cách cứu vãn, đẩy toàn bộ xã hội Việt Nam vào tình trạng lệ thuộc Trung Cộng
về mọi mặt.
Khi đã biết được năm phương thức chủ yếu mà ngành tình
báo của Trung Cộng tiến hành để biến Việt Nam thành nạn nhân của "khống chế
tình báo" thì sẽ hiểu được hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt Nam
sẽ phải như thế nào, sâu rộng ra làm sao.
D. Hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt Nam:
Hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt Nam từ đó, như
đã trình bày phần trên, sẽ phải dàn trải sâu rộng vào mọi ngã ngách của xã hội
Việt Nam, vào mọi ngành nghề của Việt Nam, vào mọi tập đoàn kinh tế của Việt Cộng
do chủ quản, ở mọi địa phương, ở mọi cấp bậc trong chính quyền, trong Cộng đảng,
mọi máy vi tính, mọi ổ chứa server, thậm chí lan rộng luôn vào bộ phận tình báo
lẫn bộ quốc phòng của Việt Cộng. Nói một cách khác, Trung Cộng biết chi tiết mọi
tình huống xảy ra ở Việt Nam trong mỗi phút trước cả thông tin được tải đăng
trên báo chí.
Khi tổng thống Obama sang thăm Việt Nam, ông ghé vào quán
bún bình dân nhỏ bé ở góc phố bình thường như mọi góc phố dơ bẩn ồn ào khác ở
ngoài Hà Nội (8), ông muốn gởi một thông điệp cảnh cáo đến giới chóp bu Cộng đảng
ở Hà Nội là một quán bún nhỏ ở ngỏ ngách Lê Văn Hưu mà Tổng thống nước Mỹ cũng
biết thì những gì Cộng đảng đang toan tính, những mưu mô lợi dụng nước Mỹ,
đương nhiên tổng thống Mỹ cũng biết. Thế nhưng đồng thời, tổng thống Obama cũng
muốn gởi thông điệp đến Bắc Kinh, đang dòm ngó nội tình Việt Nam hết sức kỹ lưỡng
không xót một viên gạch, là mọi hoạt động tình báo sâu rộng mà Trung Cộng đang
tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam được thì người Mỹ cũng làm được.
Điều này cho thấy rõ Việt Nam hiện tại vẫn là chiến trường
của hai siêu cường Trung Cộng và Hoa Kỳ, một loại chiến trường kiểu mới không
tiếng súng, khiến người dân bình thường không nghĩ đến, không biết, không thấy
có bom đạn đổ máu, nhưng kẻ thắng trong chiến trường này sẽ kiểm soát được quốc
gia Việt Nam sau này. Đó là chiến trận chiến tình báo tại Việt Nam.
Cũng giống như năm 1963, Hoa Kỳ phải vào tham chiến miền
Nam để ngăn cản sức tấn công tàn khốc của Cộng Sản Bắc Việt lên Việt Nam Cộng
Hòa, kể từ năm 1992 thì Hoa Kỳ đã phải nhảy vào tạo ra trận chiến mặt trận tình
báo, nhằm cứu vãn trong âm thầm cho Việt Nam thoát khỏi sự tấn công tình báo từ
phía Trung Cộng, để quá trình Việt Nam trở thành nạn nhân của sách lược
"khống chế tình báo" của Trung Cộng trở nên khó khăn hơn.
Tuy nhiên, cũng giống như trận chiến ngăn chống sự tấn
công của Cộng Sản Bắc Việt trước năm 1975, sự can dự phòng thủ mặt trận tình
báo của Hoa Kỳ cho Việt Nam ngày nay có mức độ và giới hạn. Và Trung Cộng cũng
sẽ đi đường vòng ra phía sau hậu trường nước Mỹ để vận động cho một sự thoái
lui trên mặt trận tình báo của Mỹ, giống như trước năm 1975 nước Mỹ thoái lui về
quân sự do hậu trường chính trị thay đổi để Việt Nam hoàn toàn bị Trung Cộng
lũng đoạn.
Việt Cộng không cách gì có thể đủ sức
phòng thủ nổi trong lãnh vực tình báo trước Trung Cộng do giới chóp bu của Việt
Cộng và hầu hết các đảng viên đang bị mờ mắt trước quyền lợi tiền tài từ Trung
Cộng đem lại cũng như từ sự độc tài toàn trị đem lại và sẽ đẩy Việt Nam hoàn
toàn trở thành nạn nhân của chiến lược "khống chế tình báo" của Trung
Cộng.
Lý do Trung Cộng còn để Việt Cộng tồn tại
trong một thời gian nữa là vì khả năng của Việt Cộng làm tiêu tan sức mạnh đối
kháng của dân tộc Việt giúp giùm cho Trung Cộng. Ngày nào khả năng này của Việt
Cộng không còn cần thiết nữa thì Trung Cộng sẽ ra tay bóp nát Việt Cộng trong
nháy mắt.
E. Lời kết:
Mọi chế độ tràn ngập tham nhũng chính là dấu hiệu của cả
một quốc gia đang dần dần trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình
báo" của một quốc gia khác. Mọi xã hội có chế độ độc tài thì xã hội đó bị
suy yếu và mất sức đề kháng. Việt Nam đã không còn sức để kháng Trung Cộng được
nữa và sẽ trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của Trung
Cộng.
Niềm hy vọng duy nhất cho sức để kháng Trung Cộng của Việt
Nam bây giờ chính là tinh thần dân tộc dân quyền của công dân Việt Nam Cộng Hòa
ở trong nước lan ra tới hải ngoại. Ngày nào còn chê bai, dị biệt, xa lánh tình
thần Việt Nam Cộng Hòa là ngày đó, Việt Nam vẫn còn là nạn nhân của Trung Cộng
trên mọi lãnh vực từ kinh tế chính trị đến an sinh xã hội, là nạn nhân của sách
lược "khống chế tình báo" do Bắc Kinh tiến hành.
13/5/2017
________________________________________
Ghi chú:
(4). Nguyên văn lời ông Panetta phát biểu như sau: “Access for
U.S. naval ships into this facility is a key component of this relationship and
we see a tremendous potential here,
__._,_.___
Posted by: "Patrick Willay"
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment