Tuổi
trẻ giữa giòng xoáy của bạo lực và sợ hãi
24/05/2015
RadioCTM - Nguyệt Quỳnh
Tiếng hát của tử thần đã chiếm lĩnh những con đường đi về nơi đất
nước.
(Cánh Thiên Nga – Tagore)
Bốn mươi năm trước, trong giờ khắc hấp hối khi quân đội miền Nam
đã tan vỡ, dinh Độc Lập đã thất thủ thì ngôi trường thiếu sinh quân nhỏ bé tại
Vũng Tàu vẫn đứng vững, oanh liệt giữa tiếng súng kháng cự trong những giờ phút
cuối cùng của miền Nam. Nhắc lại câu chuyện này tôi muốn mở đầu một chuỗi những
mẩu chuyện về cách hành xử đáng kính của những người trẻ trong các tình huống
vô vọng mà tôi cho đó là nhân cách, là di sản của dân tộc Việt. Một điều mà
chúng ta phải nhìn nhận là trong xã hội hiện nay di sản đó đang tiêu hao, mòn
mỏi từng ngày.
Vào những ngày cuối tháng tư năm 1975, trường
Thiếu Sinh Quân chỉ còn lại khoảng hơn 100 học sinh ở độ tuổi từ 8 đến 17.
Những em này do nhà ở các tỉnh xa nên gia đình chưa đón về kịp. Khi được ban
quản trị thông báo là các em phải tự lo cho chính mình, nhà trường đã hết trách
nhiệm với các em; thoạt đầu, như đám gà con mất mẹ, bọn trẻ đã hoảng loạn, sợ
hãi, bỏ chạy tứ tán. Thế nhưng cuối cùng, những đứa trẻ chưa thành người lính
này đã tập họp lại, và đã đánh trả khi bộ đội Bắc Việt cho một tiểu đoàn quân
chính qui tiến chiếm ngôi trường thân yêu của các em. Trận đánh kéo dài suốt
sáu tiếng đồng hồ, cho đến khi các em nhận được tin Sài Gòn đã đầu hàng theo
lịnh của tướng Dương Văn Minh. Để bảo toàn mạng sống cho cả trường, các em lớp
12 đã quyết định ngưng bắn đầu hàng. Không muốn để quân đội Bắc Việt làm nhục
lá Quốc Kỳ, các em đã yêu cầu được làm lễ hạ Kỳ trước khi kéo cờ trắng đầu
hàng. Một buổi lễ chào cờ cuối, đẫm lệ đã diễn ra trong bầu không khí trang
nghiêm.
Như thường lệ, hai thiếu sinh quân lớp lớn đã tiến ra trước sân
cỏ. Các thiếu sinh quân tuổi từ tám đến mười bảy tập họp thành hai tiểu đoàn.
Tất cả đứng nghiêm trước cột cờ, bắt súng chào và làm lễ hạ Kỳ đúng theo lễ
nghi quân cách. Đó là buổi lễ chào cờ cuối cùng, các em hát quốc ca với những
khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Vừa mới hôm qua, dưới ngọn cờ này các em đã được
học tập, được đào tạo để mai kia trở thành những người lính sẵn sàng ngã xuống
dưới ngọn cờ để bảo vệ tổ quốc. Hôm nay mọi việc đã đổi thay! Không ai có thể
biết tâm trạng của các em lúc đó ra sao? Khi bài hát chấm dứt và khi lệnh tan
hàng của một em liên lớp 12 ban ra, thình lình những đứa trẻ oà lên khóc, rồi
cứ thế chúng ôm lấy nhau khóc nức nở !
Cùng lúc đó ở ngoại quốc, bản tin về Sài Gòn thất thủ đến với các
sinh viên VN du học như sét đánh ngang tai. Chị Bùi thị Bạch Phượng một du học
sinh tại Đức đã chia sẻ trong một bài viết của chị: “Tin khủng khiếp đến lúc
trời còn tờ mờ tối, sau một đêm khắc khoải, mất ngủ vì lo âu. Hồn tôi chơi vơi
trong một khoảng không nào đó, đôi bàn chân hình như đã lìa mặt đất, đầu óc
trống trải, mông lung. Ðến sáng hôm sau, bọn chúng tôi vào giảng đường đại học,
tìm chút hơi ấm từ bạn bè cùng chí hướng, nhìn nhau trong ngấn lệ, không biết
chảy ra tự lúc nào”.
Tại Pháp, như đoán trước định mệnh của đất nước,
ba ngày trước khi miền nam mất, sinh viên Trần Văn Bá cùng Tổng Hội sinh viên
Paris đã tổ chức “Ngày để tang cho chiến sĩ”. Trên đường phố Paris, gần 300
sinh viên du học đã đi tuần hành trong im lặng. Đầu chít khăn tang trắng, họ
lặng lẽ đi qua các đường phố của khu Latin rồi đứng lại trước tòa Đại Sứ Mỹ tại
công trường Concorde để phản đối sự bội bạc của người Mỹ trong chiến cuộc Việt
Nam!
Miền Nam mất, những sinh viên du học như những đứa con côi cút mất
lối về. Giấy thông hành của họ do chính phủ VNCH cung cấp coi như hết hiệu lực,
tất cả đều phải xin thông hành tị nạn. Nhiều sinh viên ở Đức, ở Pháp đã kể lại
cảm giác đau thương khi phải cầm cuốn sổ thông hành mới với hàng chữ “Vô tổ
quốc”. Tuy nhiên, những người trẻ bơ vơ này chưa bao giờ coi mình là những
người vô tổ quốc. Mỗi năm, vào dịp 30/4 các sinh viên này đã họp nhau lại, cùng
thức sáng đêm để đi dán bích chương. Cùng nhau tổ chức những đêm không ngủ và
những buổi hội thảo về tình hình đất nước, về thảm trạng thuyền nhân…
Vào đầu xuân năm 1976, Trần Văn Bá và các sinh
viên thuộc Tổng Hội sinh viên Paris đã cùng nhau tổ chức Tết tại Hội Trường
Palais de la Mutualité với chủ đề “Ta Còn Sống Đây”. Nhiều anh chị sinh viên đã
bồi hồi kể lại nỗi xúc động của họ trong đêm đó. Hàng ngàn người có mặt đã rơi
lệ khi nghe sinh viên Trần Văn Bá cất tiếng hát lớn bài hát “Hồn Tử Sĩ”. Lịch
sử đã sang trang, thế giới đã quay mặt, quê hương đã mất dấu; nhưng xương máu
và những hy sinh của các thế hệ cha anh vẫn luôn hiện hữu và là ngọn đuốc soi
đường cho thế hệ trẻ. Khơi dậy được tình yêu nồng nàn đối với tổ quốc trong
lòng những sinh viên VN, Trần Văn Bá đã trở thành linh hồn của lớp người trẻ tị
nạn.
Ông Võ Văn Kiệt có câu nói nổi tiếng về ngày 30/4: “có triệu người
vui mà cũng có triệu người buồn.” Tuy nhiên, trong triệu người buồn đó, đa số
đã ôm hy vọng và ước mơ về một cuộc sống mới thanh bình và tốt đẹp hơn cho
người dân cả hai miền bởi chiến tranh đã kéo dài quá lâu. Nhưng thực tế diễn ra
sau đó hoàn toàn ngược lại, thảm trạng của thuyền nhân, tù cải tạo, kinh tế mới
và cả một thế hệ thanh niên bị đẩy vào cuộc chiến vô vọng bên Cam Pu Chia…Tất
cả những thảm cảnh trên không ngừng ray rứt tâm trí của người Việt tha hương.
Ngay đến tận ngày hôm nay sau 40 năm, sự gắn bó sâu nặng với đất nước của đa số
người Việt vẫn được nhìn thấy qua sinh hoạt thường ngày: sống ở nước ngoài
người Việt vẫn theo dõi tin tức tại VN, đau với cái đau của người dân mất đất,
nhục với cái nhục khi giàn khoan của Trung Quốc nghênh ngang kéo vào lãnh hải.
Ông Hoàng Thu, một người Việt ở Florida đã tự thiêu để gióng lên tiếng chuông
cảnh tỉnh đồng bào mình về hiểm hoạ xâm lược. Ngày 20/6/2014 người đàn ông này
qua đời để lại mảnh giấy tuyệt mệnh với hàng chữ: “Hai Yang 981 phải rời khỏi
V-N hải phận”.
Là một thanh niên trẻ với bầu nhiệt huyết và niềm khao khát được
dấn thân cho quê hương, Trần Văn Bá tin rằng những chuyển đổi đất nước chỉ có
thể phát xuất từ Quốc Nội, anh tham gia lực lượng “Mặt Trận Thống Nhất các Lực
Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam” và xâm nhập về Việt Nam. Anh bị cộng sản
bắt và bị tử hình vào ngày 8/1/1985. Điều cuối cùng bạn bè còn giữ lại là những
suy tư anh viết trong thư gởi về Paris năm 1982: “ …Phần tôi cũng bình thản
thôi, cực thì có, nhưng tôi sống trọn vẹn với con người của tôi, với quê hương
nghèo đói. Con đường tôi chọn rất chông gai, nhưng dù sao tôi cũng phải đi tới
cùng…”
Tại Nhật, sinh viên Ngô Chí Dũng khi ấy mới 24 tuổi, anh là con
chim đầu đàn của Uỷ Ban Tranh Đấu Cho Tự Do Của Người Việt. Sau khi miền Nam
mất, trong tình cảnh hoang mang cực độ của hầu hết các sinh viên du học tại
Nhật, Ngô Chí Dũng đã cùng một số anh chị em sinh viên làm việc ngày đêm để
tranh đấu thành công hai vấn đề bức thiết quan trọng lúc ấy. Thứ nhất là chính
quyền Nhật đồng ý gia hạn chiếu khán cho các kiều bào ta và các sinh viên đang
sinh sống tại Nhật, thứ hai những sứ quan Pháp, Bỉ, Anh và Hoa Kỳ… đã hứa cấp
chiếu khán cho bất cứ ai muốn đến các quốc gia này định cư.
Cùng với các sinh
viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã tích cực giúp đỡ những gia đình thuyền
nhân trong các trại tị nạn. Anh tốt nghiệp nghành Kỹ Sư Hoá Học thuộc Viện Đại
Học Meisei tại Tokyo năm 25 tuổi. Nhưng cũng như Trần Văn Bá, Ngô Chí Dũng tin
rằng sự chuyển đổi đất nước chỉ có thể xảy ra tại môi trường Quốc Nội và với
cái quan niệm rằng muốn giải quyết vấn đề của đất nước thì chính mình phải nhập
cuộc, chính mình phải đi đầu. Anh bỏ lại cuộc sống êm đềm và một tương lai đầy
hứa hẹn ở Tokyo để trở về với quê hương. Anh tham gia “Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhất Giải Phóng Việt Nam” và hy sinh trên đường công tác.
Cách sống và hành xử của những người trẻ trong
hoàn cảnh tuyệt vọng của đất nước cho thấy một thế hệ thanh niên đầy nhân cách,
trong sáng và vững vàng. Một thế hệ kế thừa tinh thần Nguyễn Thái Học, những
con người sống có lý tưởng, có mục đích, có trách nhiệm với xã hội, có tình yêu
thương và niềm tin vào những giá trị tốt đẹp; do đó, dù ở trong hoàn cảnh vô
vọng họ không dễ dàng đánh mất chính mình. Và đó chính là di sản của một dân
tộc đã tồn tại qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử. Di sản đó đã khiến cả
một thế hệ thanh niên miền bắc sẵn sàng lao vào lửa đạn đến nỗi nhà thơ Hoàng
Trần Cương bảo nếu đem ghép những chiếc áo của đồng đội anh lại chắc cũng đủ
căng lên thêm một bầu trời. Và cô giáo Nguyễn Thị Mai thì bồi hồi viết trong
nhật ký: “Chưa bao giờ máu gửi nhiều theo những lá đơn / Chưa buổi lên đường
nào tình nguyện đông như vậy”. Nhưng đó là chuyện của ngày xưa, ngày nay di sản
của dân tộc Việt đang bị nhấn chìm trong một vùng nước xoáy.
Cái gọi là “Chiến thắng 30/4/75″ đã từng làm cả thế giới phải cúi
đầu nể phục một dân tộc anh hùng. Trong niềm “hân hoan” của chiến thắng ngày
ấy, không một ai có thể tưởng tượng một dân tộc hào hùng, bản lĩnh lại có thể
cam tâm chịu nhục như ngày hôm nay. Một quốc gia độc lập với một quân đội hùng
mạnh mà từ lãnh đạo đến tướng tá đều câm lặng, khuất phục nhìn từng phần chủ
quyền của đất nước bị tước đoạt, bị mất trắng, mất đau đớn trong các hiệp ước
với Bắc Kinh… Thử hỏi một cuộc duyệt binh vĩ đại mừng 40 năm chiến thắng, với
6000 người tham dự cùng các lực lượng võ trang và các khí tài hiện đại như lời
Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa thì có ý nghĩa gì? chỉ thấy bật lên một niềm đau
có chiến thắng nào cay đắng đến vậy? Sau cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, hàng
ngàn những vành khăn tang đã chít trên mái đầu vợ con của người lính miền nam,
hàng ngàn những thanh niên miền bắc ra đi không trở lại, giấy báo tử rơi đầy
mái rạ; chỉ để đổi lấy một đất nước đói nghèo lệ thuộc, tụt hậu, lầm than…
Nhiều blogger trong nước nhận định rằng di sản
lớn nhất của 40 năm chiến thắng là sự sợ hãi, nhu nhược, hèn kém và li tán. Dẫu
sao tôi vẫn tin rằng di sản của 40 năm không thể nào vượt thắng, không thể nào
tiêu diệt được di sản của mấy ngàn năm dân tộc. Hãy nhìn những khuôn mặt rất
trẻ trong cuộc tuần hành cho cây xanh, hãy nghe Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi
nói về cái quyết tâm dành lại quyền con người của em. Giữa giòng xoáy của bạo
lực và sự sợ hãi, các em là những đốm lửa đủ sáng, đủ tin cậy, đang nương vào
nhau để thắp sáng và vực dậy di sản của dân tộc.
Di sản đó không thể bị tiêu
diệt khi chúng ta còn những người con gái Việt trẻ trung kiên cường như Nguyễn
Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Phương Uyên, Đỗ thị Minh Hạnh…khi chúng ta có những chàng
trai bản lĩnh, nhiệt huyết như Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hoà, Trần
Vũ An Bình… Bạo lực, nghịch cảnh không chỉ là rào cản ngăn chặn ước mơ của
chúng ta, mà chính nó còn thúc bách con người bước đến với ước mơ ấy. Trong ý
nghĩa đó, mọi nguy cơ đều ẩn chứa một cơ hội, một thách đố … Và chỉ trong nguy
cơ con người mới động tâm tìm ra sức bật để sinh tồn và để vượt lên một tầm cao
mới.
Bốn mươi năm đã quá đủ để người tù vừa rời khỏi
trại giam vẫn vững vàng bước chân, để người dân ngừng lời than oán cùng sát vai
nhau đòi lại cái quyền làm chủ đất nước này. Hàng trăm người ở Cam Ranh đã
xuống đường đòi quyền được đối thoại, hàng ngàn người ở Bình Thuận đã xuống
đường đòi giải quyết môi trường ô nhiễm, hàng ngàn người ở Hà Nội đã tuần hành
để bảo vệ cây xanh, và hàng chục ngàn công nhân đã xuống đường để phản đối điều
60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội… Những bước chân dồn dập của người dân trên các nẻo
đường đất nước đang làm rung chuyển chế độ độc tài.
Tôi nghĩ đến Nguyễn Đặng Minh Mẫn, người thiếu
nữ vừa mới bị biệt giam tuần rồi và câu nhắn của cô qua một tù nhân lương tâm.
Quả thật Minh Mẫn vẫn “ trước sau như một” .Tám năm tù với biết bao nhiêu lần
biệt giam không khuất phục nổi người thiếu nữ nhỏ nhắn này. Như bao nhiêu người
trẻ đang chịu trù dập, bách hại cho quê hương mình, Minh Mẫn chính là cánh
thiên nga trong lời thơ của thi sĩ Tagore và tôi tin rằng ban mai thế nào cũng
đến, bóng tối sẽ tan đi và tiếng đập cánh của thiên nga sẽ xé vòm trời rực rỡ.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment