Lương tăng 3 lần vẫn không đủ sống
RFA-26-05-2015
Đời sống của nhân viên hưởng lương Nhà nước còn nhiều khó khăn mặc
dù chính sách tiền lương đã tăng 3 lần kể từ năm 2011.
Đó là nội dung báo cáo của Bộ Nội Vụ gửi đến Quốc hội, cho biết
mức lương tối thiểu chung được điều chỉnh tăng 57,5% trong vòng 5 năm
qua. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Nguyễn Thái Bình cho rằng đời sống của công
nhân viên chức hưởng lương từ ngân sách Nhà nước vẫn còn nhiều khó khăn vì ngân
sách tăng chậm do kinh tế tăng trưởng chậm và do áp lực giảm bội chi ngân sách
Nhà nước việc cải cách tiền lương gặp nhiều khó khăn.
Ông Nguyễn Thái Bình cho biết thêm sẽ điều chỉnh mức lương tối
thiểu khu vực dần đảm bảo nhu cầu đời sống thực tiễn trong thời gian tới.
Hiện, mức lương cơ sở là 1,15 triệu đồng/tháng, mức lương tối
thiểu vùng bình quân của khu vực doanh nghiệp là 2,6 triệu đồng/tháng. Mức lương
hàng tháng của cấp Bộ trưởng chỉ vào khoảng 14,4 triệu đồng.
Nắng hạn, thiếu ăn ở miền núi Nghệ An
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-05-26
2015-05-26
- In
trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Một ngôi nhà tạm gọi
là khang trang của người ở miền núi Nghệ An
Thành phố Vinh, Nghệ An được xếp vào diện thịnh vượng và sầm uất
bậc nhất Việt Nam, là nơi có mặt của những tập đoàn khách sạn, dầu khí, lương
thực, địa ốc thuộc hàng mạnh nhất Việt Nam. Nhưng cách Vinh không xa, những
huyện miền núi Nghệ An buồn và đẹp đến nao lòng bởi đời sống còn mang dáng dấp
nguyên thủy với những con người tưởng chừng mới bước ra từ thế giới cổ sơ. Họ
không những lạc hậu mà còn nghèo đói.
Cái đói giáp hạt ám ảnh cuộc đời
Một người tên Hồng, hiện sống tại huyện Quì Châu, chia sẻ: “Thường thường hay hết lúa hết gạo, mùa tháng giêng, tháng hai,
tháng ba mùa giáp hạt thì thiếu ăn, mọi ngày thì hay thiếu ăn, lúc này gạo cũ
thì hết nhưng gạo mới chưa có, lúc này đói nên mong cứu trợ về..”
Theo ông Hồng, không riêng gì Kỳ Sơn rơi vào cảnh thiếu ăn vào mùa
giáp hạt mà các huyện Con Cuôn, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương…, nói chung
là các huyện miền núi ở đây đều gặp cảnh đói đến xanh da vào mùa giáp hạt. Nếu
như trước đây, sự đói nghèo còn ít rõ nét bởi ai cũng khó khăn như nhau thì
hiện tại, sự đói nghèo hiện hình rất rõ. Bởi những người có thế lực, những gia
đình có người làm trong bộ máy chính quyền trở nên giàu có nhanh chóng, bù vào
đó, những gia đình thuộc diện dân đen ngày càng khó khăn, vất vả.
Thường thì một năm, thời gian an toàn nhất về lương thực của mỗi
gia đình ở các huyện miền núi kéo dài từ tháng Giêng đến tháng Tám âm lịch. Bởi
đây là khoảng thời gian thời tiết tương đối thuận lợi để sản xuất. Nhưng nghiệt
nỗi, với bà con nghèo ở các huyện miền núi, đây là thời gian đói. Cái đói có
nhiều nguyên nhân, trong đó có hai nguyên nhân chính là Tết và mùa Đông.
Nghĩa là khoảng thời gian từ tháng Giêng đến tháng Tám, mọi người quần
quật làm việc ngoài đồng để có hạt lúa dự trữ cho mùa Đông và Tết. Khi mùa Đông
đến, cũng là mùa mà mọi người vừa lo tránh lũ, vừa lo chăm chuốt cái nhà, cánh
cửa để phòng khi gió máy, bão bùng. Mùa này ngoài đồng cũng chẳng có gì để làm,
đi rừng cũng không được bởi sợ lũ quét, sợ đất lở, sợ sốt rét rừng… Chính vì
mọi việc đều co cụm trong nhà, không thể đi làm thêm bên ngoài để mua thức ăn
nên lượng gạo, mắm dự trữ trong nhà tiêu hao rất nhanh.
Mùa Đông trôi qua, bà con nông dân lại ra đồng để vỡ đất, lên rừng
kiếm củi, lên rẫy để gieo trồng, lượng lương thực dự trữ càng ngày càng vơi đi
nhiều hơn bởi phải đợi đến tháng Ba, tháng Tư âm lịch mới đến mùa thu hoạch,
mới có hạt lúa mới để mà lấp bụng. Và khi mùa Đông vừa trôi qua, cũng là mùa
Tết đến. Nếu như trước đây, khi Tết đến, cùng là cảnh nghèo như nhau, người ta
chỉ cần gói vài chiếc bánh chưng, in vài chục chiếc bánh bột nếp và cả xóm rủ
nhau mổ thịt một con lợn để chia nhau ăn Tết. Việc chia thịt lợn không làm mọi
người phải loay hoay xoay tiền trả ngay tại chỗ mà được ký sổ, đến mùa thu
hoạch lúa qui ra ký để trả.
Cách làm này vừa đỡ gây khó khăn cho người dân lại vừa tạo ra
không khí Tết vui vẻ, ấm áp, xóm làng có nhau, đảm bảo đủ lương thực đến mùa giáp
hạt. Nhưng hiện tại, người ta không thể làm thế bởi có muốn làm cũng không
được. Thời đại kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhìn chung
bên ngoài xã hội là một mặt bằng kinh tế tuy không giàu có cho mấy nhưng mức độ
chi tiêu luôn cao ngất và đồng tiền trượt giá liên tục.
Đường phố ở thành phố Vinh (RFA)
Giới quan chức giàu có ăn chơi xa xỉ, đẩy thị trường đến chỗ quay cuồng,
vòng xoáy đồng tiền liên tục tăng tốc. Đây cũng là lúc mà kẻ giàu hay người
nghèo gì rồi cũng cuốn theo vòng xoáy đồng tiền, quần quật làm lụng.
Chính vì
vậy, những tập tục, thói quen vừa mang hồn vía xưa cũ lại vừa đỡ gây tốn kém
dần mất đi. Người ta không còn đủ thời gian và bình tĩnh để ngồi lại gói một
chiếc bánh chưng Tết hay rủ nhau mổ lợn cho đỗ tốn kém. Trong một nghĩa nào đó,
vì sĩ diện, người ta mua sắm vượt quá khả năng chi tiêu cho ngày Tết để khỏi
xấu mặt. Và hậu quả của chuyện này là cứ đến mùa giáp hạt lại đói, lại ngửa tay
nhận mấy ký gạo còm từ nhà nước.
Đói khổ là chuyện riêng, tham nhũng là công thức chung
Một người khác tên Hùng, sống ở Quì Châu, buồn bã chia sẻ với
chúng tôi: “Đói khổ, nghèo nàn, ăn
cơm độn, không có khái niệm bữa ăn sáng đâu! Ngày mùa thì đi làm nông, hết mùa
lại đi hái măng, xuống đồng bằng, thị xã để đi làm phụ hồ. Nói chung là trẻ em
ở đây không có bữa ăn sáng đâu. Nghèo lắm!”.
Theo ông Hùng, mức thu nhập hiện tại của người dân miền núi Nghệ
An rất thấp, cả ngày làm thuê cuốc mướn cũng chỉ được trả 120 ngàn đồng, cao
nhất cũng chỉ 150 ngàn đồng. Tuy thu nhập thấp nhưng cũng không phải dễ kiếm ra
chỗ để làm bởi ai cũng nghèo, cũng đi kiếm việc làm thuê như nhau.
Phần đông người trong độ tuổi lao động tìm ra Hà Nội, vào Sài Gòn
để làm thuê, những người ở nhà toàn người già và trẻ con. Nhưng những người lao
động chính trong nhà vào Nam, ra Bắc làm thuê cũng bữa được, bữa mất nên người
ở nhà cũng tự cày xới để kiếm chén cơm. Và phần đông những người cày xới ở nhà
đều rơi vào thiếu thốn, đói khổ, đôi khi phải chờ đến bàn tay cứu tế, cứu trợ.
Cũng theo ông Hùng, chuyện cứu tế, cứu trợ, nếu nhìn từ những gói quá
của chính phủ hay của các nhà hảo tâm, các nhà tài trợ thì nó rất lớn, rất y
nghĩa. Nhưng khi về đến tay người dân, nó chỉ còn bé tẹo bởi người ta đã chấm
mút từ bên trên, từ khi gạo xuất kho.
Cái lối làm việc chung của các cơ quan nhà nước khi phân phát gạo
cứu trợ, cứu tế thường là ghi tên người nhà cán bộ vào diện cứu trợ mặc dù họ
không hề đói khổ. Mà số lượng nhà cán bộ thì lúc nào cũng đông đúc, họ cố gắng
moi trí nhớ để ghi mặc dầu nhiều gia đình đói đang đứng trước mặt họ mà không
phải bà con họ hàng thì họ vẫn quên mất.
Chính vì gói cứu trợ phải gánh quá nhiều miệng ăn nhà cán bộ nên
nó trở nên nhỏ lẻ, chẳng đâu vào đâu. Đó là chưa nói đến chuyện trước khi chia,
ông cán bộ, bà thư ký, chị bí thư đoàn cũng chấm mút gần hết trong đó, số chẵn
các vị chia nhau, số lẻ các vị dành cho dân. Chính vì vậy mà con số 1.560 tấn
gạo của chính phủ có nhân lên gấp mười lần thì dân đói vẫn cứ đói.
Bởi đói khổ, khó khăn, thiếu ăn thiếu mặc là chuyện riêng của mỗi
cá nhân, mỗi gia đình, còn tham nhũng là công thức hoạt động chung của guồng
máy nhà nước. Giờ biết làm sao?! Nói đến đây, ông Hùng lắc đầu.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment