From: Quyet Nong <
To: ">
Sent: Tuesday, August 25, 2015 9:53 PM
Subject: [VN-SHARE-NEWS] GIẢI PHÓNG CÁI GÌ và CHO AI?
GIẢI PHÓNG CÁI GÌ và CHO AI?
MỘT PHÓNG VIÊN NGƯỜI ĐỨC VIẾT VỀ VIỆT NAM
"tôi
chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả“.
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt
Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng
của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng.”
Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành
lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ
không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ
và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống
trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế taxi
không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.
Mười chuyến tàu thong dong chạy qua mỗi ngày,
năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh
một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại
không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Berlin đổ xuống và
những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa
hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200
dặm một giờ?
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết
thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt
động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ nhưng đến đây thì sự tương đồng với
nước Đức chấm dứt.
Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần
nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc
biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên
thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ
tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev và cũng phần khác vì
sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong
khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị
tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn
chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số
các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm
miền Nam như là một cuộc “giải phóng.” Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng
cái gì và cho ai?
Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự
áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi
phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự
do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm
chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người
khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ
những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân
bị chết đuối?
Có phải là hành động giải phóng không khi xử
tử những người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ?
Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa
hàng trăm ngàn sĩ quan,công chức VNCH vào các trại tập trung tù cải tạo, nhiều
người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tâm thần do hậu quả bị cùng chân
bỏ đói, cô lập trong buồng kín…. theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả
quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt
chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc
bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một
cuộc “chiến tranh nhân dân.”
Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của
Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó nhưng theo luật văn phạm về sở
hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được
hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân.” Thực tế không phải như vậy.
06 Apr 1972, Quang Tri City, South Vietnam ---
4/6/1972-Quang Tri City, South Vietnam- Dead North Vietnamese soldiers are
lined up beside road as refugees from Quang Tri City City flee from fighting,
4/5, five miles south of Quang Tri. --- Image by © Bettmann/CORBIS
06 Apr 1972, Quang Tri City, South Vietnam — 4/6/1972-Quang Tri City, South Vietnam- Dead North Vietnamese soldiers are lined up beside road as refugees from Quang Tri City City flee from fighting, 4/5, five miles south of Quang Tri. — Image by © Bettmann/CORBIS
Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị
giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ
tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả
chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính
khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận
mạc cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa.
Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân
dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về
cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan
trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có
nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một
chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di
cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng
130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?
Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn
vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền
Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân
cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền
Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau
năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách
thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ
độc đảng toàn trị hay không? Không.
Với cương vị một người công dân Đức, tôi không
can dự gì đến cuộc chiến này hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in
this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng nhằm chú
giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu
có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều
đau thương.
Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời
với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam
khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách
Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang
theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ
chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng
lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn
là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị
cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng.
Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc
về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về
hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc
đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay
bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi
thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau
khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc
bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã
chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi
trận đánh cuối cùng này.
Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả
những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng
lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ
đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933),
Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú
(sinh năm 1927).
Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng
nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho
bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt
Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi
biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết
án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo
mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại
Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống
của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn
vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng
xuống đầu người miền Nam nhân danh HCM. Những tội ác mà cho đến ngày nay những
kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại
sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến
đấu để giải phóng họ?
Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm
một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso
Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế và anh Otto
Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển
một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện
Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam
cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành
động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một
cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị
dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư
trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống
Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường
mòn HCM trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc
gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một
trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận
thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên VC canh
chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại
chỗ. Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do
dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn
luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất.
Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy
SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên
cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc
hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust
(Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012). Chính cái ánh mắt thù hận của
những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn
cả.
Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với
họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá
ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị
và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý
kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy
League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê
Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy
huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên
Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh
trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc
gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một
buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã
xẩy ra như sau:
Giáp: “Tôi
đã đánh bại ông, thưa Đại tá”
Charton: “Không,
ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự
hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân…“.
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm
các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó
là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không
được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự
nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ
cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí
nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh
bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi
một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt
bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó
còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh
thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt
trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động
của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì
cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở
đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là
lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương
lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản
dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội.
Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp
tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một
người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối
cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát
khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xảy
ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp
hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người
khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài
niềm hy vọng
Reader's email
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment