--
Kính Chuyển
MG
Nhìn
Lại " Tình Đồng Chí Chiến Lưọc " Giữa Mỹ-VC,
Sau
Ngày VNCH Sụp Đổ 30-4-1975
Mường Giang
Năm 1927, Tổng thống Coolidge và phu nhân mở tiệc khoản đãi các phái bộ ngoại
giao. Trong bữa tiệc, người ta xếp phu nhân của đại sứ Bỉ ngồi cạnh viên đại sứ
đầu tiên của Ðức, kể từ sau Ðại Chiến lần thứ I (1914-1918), đồng thời còn kiêm
thêm chức giám đốc KRUPP. Vị phu nhân trên đã tuyên bố thẳng thừng trước mặt mọi
người “ Tôi không ngồi cạnh tên sát nhân này “.Tái mặt trước một sự kiện bất ngờ,
các viên phụ tá tức tốc phải đổi chỗ ngồi cho bà. Sau đó, Tổng thống Coolidge ra
lệnh cho Bộ Ngoại Giao chỉ định một trưởng ban Nghi lễ tại Bạch Cung để lo việc
tiếp tân.
Ðiều này cho thấy người Mỹ rất coi trọng tới các qui tắc ngoại giao nhưng
tại sao lại cắt bỏ các nghi lễ, khi đón tiếp Nguyễn Minh Triết tại Bạch cung
lúc y sang thắm Mỹ quốc ? Sự kiện này một lần nữa lại đến với Trương Tấn Sang
vào năm 2013, thế nhưng lại cho Nguyễn Phú Trọng thực chất chỉ là TBT của một đảng
phái vào họp tại phòng bầu dục vào tháng 7-2015. Những khác biệt này đối với
các nước dân chủ văn minh là một biến cố lớn làm nhục quốc thể nhưng với CSVN lại
là một chuyện bình thường, vì nhiệm vụ của Triết, Khải, Dũng hay Sang..Trọng tới
đây, chỉ để cầu cạnh Hoa Kỳ đổ tiền vào nuôi béo đảng và sự giúp đỡ về kinh tế,
quân sự cho VN. Tóm lại ngày nào Chính phủ Hoa Kỳ còn chưa tỏ rõ lập trường
chính trị dứt khoát đối với VC, chừng đó đừng mong đảng dừng tay hay nhân nhượng
với ai về nhân quyền, dân chủ.
Suốt một thập niên qua, khi thế giới đi vào xu hướng toàn cầu hóa thì chủ nghĩa
khủng bố cũng thay đổi bộ mặt và là công cụ phục vụ cho bọn lãnh đạo độc tài khắp
năm châu, trong đó có đảng VC. Tại Hoa Kỳ sau biến cố lịch sử 9-11-2001, làm sụp
đổ hai tòa cao ốc tại khu thương mại quốc tế ở New York, thì Tổng thống
W.G.Bush luôn nói tới việc diệt trừ khủng bố mà ai cũng đã thấy qua các cuộc
chiến tại A Phú Hản, Iraq, Phi Luật Tân.. vừa giúp Hoa Kỳ nhổ cỏ tận gốc tổ chức
khủng bố Al-Qaeda, mà còn có cớ trở lại vùng Ðông Nam Á Châu, để lập lại những
căn cứ chiến lược đã bỏ trống, từ sau khi rút khỏi Nam VN, với mục đích ngăn chống
sự bành trướng của Trung Cộng xuống khu vực. Trong chiến lược toàn cầu này,
CSVN được cả Trung Cộng và Hoa Kỳ để ý tới vì bản chất chịu làm tay sai bất cứ
ai, miễn các ông chủ chịu bỏ tiền mướn thích đáng và trên hết là phải hứa bảo vệ
mạng sống cá nhân cho lãnh tụ và sự tồn tại của đảng.
Ðó là thực chất của sự bang giao Mỹ-VC, khởi đầu từ lý do Hoa Kỳ đã chon liên
minh quân sự với kẻ thù VC, qua lời tuyên bố công khai của đại sứ Mỹ tại VN là Marine
vào ngày 3-2-2007 và mới nhất là sự lập lại của ngoại trưởng Mỹ John Kerry khi
tới thăm VN vừa qua.. Sau đó còn công khai khiêu khích Trung Cộng, khi bãi bỏ lệnh
cấm vận vũ khí, để VC từ nay tha hồ mua chịu quân nhu đạn dược của lái súng
Nga, Tây Phương kể cả Hoa Kỳ, giúp tối tân quân đội VN vốn đã tuột dốc thê thãm
vì tham nhũng, nên mạnh ai nay chỉ lo làm giàu. Có thể vì vậy, mà nhiều đời Tổng
thống Mỹ bất chấp dư luận phê phán của thế giới, quên hết những lời tuyên bố mạnh
mẽ trước kia, là chống các chế độ chuyên chế độc tài, để vực dậy cái xác chết
chưa chôn của đảng CSVN, bằng hành động tô son đánh phấn, cho chủ nghĩa toàn trị,
qua các thái độ thật đột ngột, khiến ai cũng phải khựng điếng , trước những ban
phát liên tiếp nhiều ân huệ, của Tổng Thống W.Bush, dành cho đảng CSVN, từ việc
bỏ tên Bắc Bộ Phủ ra khỏi danh sách CPC để đảng có điều kiện tổ chức hội nghị
APEC tại Hà Nội với sự hiện diện của nhiều nguyên thủ quốc tế trong đó có Mỹ. Kế
tiếp là cho qui chế PNTR và sau cùng được gia nhập WTO và kế tiếp là TPP, coi
như những thắng lợi vàng ròng, giúp đảng VC vẽ vang trên các diễn đàn ngoại
giao quốc tế. Vì vậy, nên Mỹ đã làm ngơ trước sự bạo tàn của đảng, để chúng mặc
sức khủng bố đồng bào.
Ngay từ thời Hồ Chí Minh còn sống, dù đã tôn thờ chủ nghĩa Lê-Mác và luôn hướng
về Mạc Tư Khoa, Hồ vẫn nổ lực đu giây giữa hai nước đàn anh Nga-Tàu, để kiếm viện
trợ và sự ủng hộ trên các diễn đàn chính trị quốc tế. Nhưng cả Nga lẫn Tàu, thật
sự chỉ muốn lợi dụng VC, bởi vậy đâu có ai ngạc nhiên khi biết năm 1963, Khrushchev
đã cực lực chống Bắc Việt mở cuộc chiến tranh tại Miền Nam, vì lúc đó Nga đang
hòa hoản với Mỹ trong chiến tranh lạnh, qua kế hoạch giảm bớt số lượng bom
nguyên tử. Tương tự vào năm 1972, cả Nga lẫn Trung Cộng vì đang giao hảo tốt với
Tổng thống Richard Nixon, nên để mặc cho Mỹ oanh tạc Bắc Việt khủng khiếp. Quan
trọng nhất dưới con mắt của hai đàn anh lớn, tư thời HCM hay bây giờ là Nguyễn
Phú Trọng VC vẫn luôn bị nghi ngờ là phương xét lại, lật lọng, láu cá, phản
phúc lưu manh không thể tin tưởng. Ðó là lý do khiến cho Hà Nội phải bắt cá ba
tay, khi quay ra làm quen với các nước Ðông Nam Á, Nhật, Ấn Độ, Âu Châu và kẻ
thù không đôi trời chung là Hoa Kỳ.
Tháng 9-1976, VC được nhận vào Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund
- IMF). Vì là nước cọng sản đầu tiên được vào tổ chức này, nên Hà Nội đã bị Nga
và cả khối cộng sản quốc tế phản đối dữ dội vì bị cho là đi lệch hướng, khi chia
xẽ bí mật quốc gia cho kẻ thù. Ngoài ra vì đang đi dây giữa nhiều thế lực để kiếm
lợi, nên VC đã từ chối không gia nhập Khối Kinh Tế Ðông Âu (Comecon), nên bị Mạc
Tư Khoa hủy bỏ nhiều dự án hứa giúp VN lẫn quân viện, kể cả gạo viện trợ của
Trung Cộng cũng bị cúp luôn. Tóm lại bắt đầu năm 1977, VC hoàn toàn bị cô lập
trước thế giới, đồng thời cũng kẹt cứng trong mối liên hệ an ninh quốc gia, giữa
Khmer Ðỏ và Trung Cộng.
Ngày nay qua núi sử liệu trong và ngoài nước đã bật mí, ta mới biết được VC
ngoài miệng lúc nào cũng nói chống Mỹ, Tây Phương, Nhật, Tư Bản nhưng trong tận
cùng tim óc lại rất thèm thuồng sự bang giao với họ, nhất là kẻ thù không đội
trời chung Hoa Kỳ. Bởi vậy khi Sài Gòn vừa bị cưởng chiếm lúc trưa 30-4-1975,
thì chỉ hai tháng sau VC đã trơ trẽn mời hai ngân hàng lớn của Mỹ trở lại VN, để
bàn thảo phát triển kinh tế và thương mại. Với người Mỹ sau khi chiến tranh
Ðông Dương lần 2 kết thúc, càng mệt mõi thất vọng vì sự tháo chạy nhục nhã tại
VN thêm vụ nghe trộm Watergate, nên đã bầu Jimmy Carter, điền chủ trồng đậu phụng
ở miền Nam, thuộc đảng Dân Chủ làm tổng thống. Lúc đó Carter nghĩ rằng muốn xóa
bỏ hội chứng VN trong lòng người Mỹ, thì phải thiết lập ngoại giao và bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước. Hơn nửa giữa hai cưụ thù cọng sản là Trung Cộng và
VC, thì Hà Nội được Mỹ chấp nhận dễ dàng hơn vì sau ngày hai phía ký hiệp định
ngưng bắn 27/1/1973, thực chất đã là đòng minh (chứ không phải VNCH), nên không
có một vấn đề gì nhiêu khê, như vụ Ðài Loan đối với Bắc Kinh.
Nhưng ý tưởng khờ khạo trên của Tổng thống Carter, đã làm cho Bắc Bộ Phủ lúc đó
hiểu lầm và tăng thêm sự kiêu căng phách lối trong những bộ óc đặc sệt bùn đất
và rác rưởi, nên cho là Mỹ đã gục ngã trước chiến thắng thần thánh siêu nhân của
các đỉnh cao, cùng với sự ưu việt của chũ nghĩa xã hội, qua ba dòng thác cách mạng,
đã đánh gục ba đại cường Pháp-Nhật-Mỹ, khiến cho tư bản giẫy chết. Bởi vậy Hà Nội
cần gì liên hệ với tên đầu sỏ tư bản là Mỹ, đang cầu cạnh tới làm quen.
Chính sự chủ quan thiển cận đó, đã làm cho Mỹ quay mặt với VN và quyết
tâm kết thân với TC, đẩy Hà Nội vào con đường tận tuyệt phải chạy theo Liên Xô,
gây nên cuộc chiến long trời lở đất, giữa Hoa-Việt tại biên giới hai nước vào
tháng 2-1979. Kết quả 5 tỉnh thượng du Bắc Việt bị giặc Tàu tàn phá bằng bom đạn,
thành những đống gạch vụn, nhiều vạn đồng bào và bộ đội thương vong thảm thiết
và kinh hoàng nhất là cả nước từ nam ra bắc, đắm chìm trong ngục tù thù hận, địa
ngục đói nghèo, hơn 10 năm dài vì bị cả loài người quay lưng nguyền rũa, khi đối
mặt với hàng triệu thuyền nhân VN, liều chết bỏ quê hương ra biển tìm tự do
trong nổi chết chực chờ.
Bị căn bệnh hoang tưởng không còn thuốc chữa, thêm vào đó các lãnh tụ cọng sản
vĩ đại của Bắc Bộ Phủ, từ Lê Duẩn-Trường Chinh-Phạm Văn Ðồng tới Lê Ðức Thọ..,
lại quá tham lam không bút mực, nên lúc nào cũng tin là Mỹ phải trả nợ số tiền
3,25 tỷ Mỹ kim viện trợ + 1,5 tỷ tái thiết, theo lời hứa mà Tổng Thống Richard
Nixon đã viết trong một lá thư mật gửi choThủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Ðồng, khi
hai bên ký kết Hiệp Ðịnh ngưng bắn Paris 1973.
Ngày 16-3-1977, một phái đoàn Hoa Kỳ lần đầu tiên trỏ lại Hà Nội, sau khi người
Mỹ bỏ chạy khỏi VNCH vào sáng ngày 30-4-1975 trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ tại Sài
Gòn. Mục đích của chuyến đi, nói là tới tìm kiếm người Mỹ mất tích (MIA) tại
Ðông Dương. Dịp này, ngoài đại sứ lưu động Leonard Woodcock được Carter cử làm
trưởng phái đoàn, còn có rất nhiều thương lái quan trọng khác tháp tùng, gồm đại
diện của hai hảng xe Mỹ General Motors và Chrysler, các nghị sĩ quốc hội Mike Mansfield,
đại sứ CharlesYost, dân biểu Sonny Montgomery, nhà hoạt động nhân quyền Marian
Edelman với vài ký giả săn tin.
Nhưng tất cả đều xấu hổ vì đã trở thành trò hề vô nghĩa, lố bịch trước bệnh tưởng
tượng vĩ đại của các đỉnh cao trí tuệ loài người, đang ngất ngưởng ngự trên chiếc
ngai vàng được xây bằng máu xương Việt từ năm 1930 tới nay. Còn gì trắng trợn và
tàn nhẩn hơn, qua cuộc đối thoại đầu tiên giữa Woodcock “ Tôi hy vọng cuộc viếng
thăm này, sẽ tạo được căn bản cho mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước “ và được
từ miệng Nguyễn Duy Trinh tới Phan Hiền.. trả lời theo lệnh của Lê Duẩn “ không
có tiền, thì không có tin tức gì về lính cả “.Tóm lại theo VC, thì Hoa Kỳ phải
bồi thường chiến tranh trước như đã ký trong hiệp đinh Paris 1973, rồi mới nói
tới chuyện kiếm xác lính Mỹ mất tích ‘.Nhưng Woodcock lúc đó là đại diện cho nước
Mỹ, đã thẳng thắng trả lời với Bắc Bộ Phủ “ HIỆP ÐINH PARIS ÐÃ BỊ BỨC TỬ, VẤN ÐỀ
CÒN LẠI CỦA VN HÔM NAY, CHỈ ÐƯỢC GIẢI QUYÊT BẰNG LÒNG NHÂN ÐẠO MÀ THÔI “.
Thế là trận mưa đô la Mỹ sẽ vĩnh viển chẳng bao giờ đổ xuống cung đình Hà Nội như
lòng ham muốn vô đáy của các chóp bu luôn bệnh hoạn tưởng tượng. Nhưng vốn là những
kẻ lì lợm tráo trở, nên vừa “ thua me đã vội bày bài cào “ để gở bằng cách lại
sử dụng những bộ xương khô của lính Mỹ mất tích trong cuộc chiến vừa qua, để
làm “ mồi câu cá mập “.Ðồng thời còn hứa hẹn sẽ trao cho Hoa Kỳ tất cả những
tin tức và dử kiện về xác Mỹ càng sớm càng tốt, nếu có tiền bồi thường chiến
tranh.
Sau này qua các tài liệu mật được công bố, cho biết lúc đó TT Jimmy
Carter rất chú trọng tới VN, không phải do “ lòng thương lính Mỹ mất tích “ mà
vì các tiềm lực tài nguyên thiên nhiên, trong đó có dầu hỏa đã được phát hiện
ngoài thềm lục địa VNCH từ trước tháng 4-1975. Riêng đối với bọn tài phiệt tư bản
lái buôn lái súng, thì chỉ biết có tiền, phần lớn là chủ ngân hàng, hảng xe,
các cơ sở thương mại, hảng dầu của Hoa Kỳ.. nên mờ mắt trước lời rao hàng của
VC về “ lao động rẽ, tài nguyên nhiều..” đã gây áp lực chính phủ Hoa Kỳ bãi bỏ
lệnh cấm vận giao thương với VC, vì sợ món hàng quí trên lọt vào tay tư bản Nhật
và Âu Châu.
Ðể tỏ thiên chí và cũng cám ơn về 12 bộ xương khô do Woodcock mang về Mỹ, nên Carter
vào tháng 5-1977, đã chấp thuận giúp VC nhiều vấn đề, từ ngân khoản 5 triệu mỹ
kim nhân đạo, cho tới sự đồng tình với Liên Hiệp Quốc, qua chương trình cho vay
tiền phát triển VN.
Giữa lúc hai phái đoàn Mỹ (Holbrooke) và VC (Phan Hiền) đang thương thảo tại Ba
Lê, thì vào ngày 19-12-1977, một vụ án gián điệp ngay trên đất Mỹ được FBI khám
phá, đó là vụ Ronald Humphrey và David Trương (con trai Trương Ðình Dzu, một tên
thân cộng từng bị chính phủ VNCH câu lưu trước năm 1975). Thế là qua áp lực của
quốc hội, bắt buộc TT Carter hủy bỏ việc giao thương giữa hai nước, đồng thời chấm
dứt luôn việc LHQ cho vay tiền và các dự án đầu tư tại VN. Tới lúc đó từ Lê Duẩn,
tới Phạm văn Ðồng, Lê Ðức Thọ, Trường Chinh cả Võ Nguyên Giáp.. mới sáng mắt,
nên lại lặn lội sang Trung Cộng, Liên Xô, Ấn Ðộ, Tây Âu.. để cầu viện, nhưng ở
đâu cũng bị từ chối vì thái độ kiêu căng phách lối, dù đang đi nhờ thiên hạ
giúp đỡ.
Từ đó VC mới mặn nồng trở lại với Liên Xô. Cuối tháng 5-1977 gia nhập khối
Comecon do Nga làm chủ. Ngày 6-6-1977 Phạm Văn Ðồng gặp tổng bí thư LX là
Leonid Brezhnev, để ký hiệp ước liên kết hữu nghị Việt-Xô. Ðây là một thành tựu
vĩ đại của đảng ta, vì Nga hứa là sẽ giúp VC từ A-Z, trong đó có 40 công trình
xây dựng. Cuối tháng 7-1977, một phái đoàn quân sự Nga gồm 21 nhân vật quan trọng
của đảng, bí mật tới các hải cảng Ðà Nẳng, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu và rồi
tháng 10-1977, VC ký một thỏa ước đặc biệt với Nga, để nước này “ chở các chiến
lợi phẩm thu được của VNCH “ như thiết giáp, máy bay.. sang bán cho Ethiopia
(Châu Phi), để mua lại những quân dụng cu của Nga, gồm 2 tàu ngầm, một khu trục
hạm, một số tuần duyên hạm và một phi đội chiến đấu cơ Mig-21. Từ đó VC theo hẵn
LX, mở màn cho hai cuộc chiến biên giới Việt-Khmer đỏ (12-1978) và Việt-Hoa
(2/1979-1990).
Tháng 1-1979, Carter cùng Ðặng Tiểu Bình lúc đó đang nắm quyền Trung Cộng bình
thường hóa bang giao, còn Nga và VC thiết lập liên minh quân sự. Không phải nhờ
lịch sử đã vô tình xếp đăt, mà thực sự chính Brzezinaki kẻ có khuynh hướng thân
Tàu, khi đá được Vance lên nắm quyền Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ, đã ngụy tạo bức
tranh chính sách mập mờ giữa Hoa Kỳ-Ðài Loan, để Ðặng vin vào đó mà có cớ hợp tác
với Mỹ.
Tháng 1-1979 Ðặng sang thăm Carter tại Hoa Thịnh Ðốn, đồng lúc Mỷ-Nga đang
thương thuyết ký hiệp ước SALT II tại Jerusalem (Do Thái) và cao điểm là lúc
Hoa Kỳ đang bán vũ khí chiến lược cho Ðài Bắc. Nhưng Ðặng vẫn điềm tĩnh che lấp
sự gượng ép bên trong, để ký kết liên minh với Mỹ vì không còn con đường nào lựa
chọn. Sáng ngày 30-1-1979, tại Tòa Bạch Ốc ở Hoa thịnh Ðốn, Carter riêng rẽ gặp
Ðặng và nhờ viên thông dịch duy nhất, dịch ngay tại chổ bức thơ ứng khẩu có nội
dung “ CẢM TƯỞNG CỦA TÔI LÀ QUYẾT ÐỊNH NÀY ÐÃ CÓ SẲN TỪ LÂU. ÐÓ LÀ VC PHẢI BỊ
TRỪNG PHẠT”. Tóm lạị tổng thống Carter rất quỷ quyệt dùng bức thơ miệng
không phổ biến, để vừa đồng thuận với Tàu đỏ tấn công VN, gián tiếp dằn mặt những
đỉnh cao trí tuệ kiêu căng phách lối tại Bắc Bộ Phủ. Ðồng thời chạy được tội
trước nhân loại sau này, khi dư luận thế giới lên án Trung Cộng bá quyền, tấn
công VN tại diễn đàn LHQ.
Rốt cục chỉ có dân lành ba nước Việt-Miên-Tàu lãnh chịu nổi đau bom đạn, cùng với
sự tàn phá kinh khiếp của chiến tranh. Hưởng lợi nhiều nhất trong cảnh “ trai
cò tương tranh “, là Mỹ, quốc gia Tây Phương duy nhất “ ca tụng việc Trung Cộng
tấn công VN “ giữa ngàn muôn thóa mạ của cả thế giới. Nhưng ghê tởm nhất là
trong buổi họp của Ðại Hội Ðồng LHQ vào tháng 9-1979, Hoa Kỳ đã trân tráo bỏ
phiếu ủng hộ Khmer Ðỏ của Polpot, vẫn đại diện cho Kampuchia trong tổ chức này.
Bài học lịch sử muôn đời vẫn còn đó, cho thấy Người Mỹ hay bất cứ người nào,
cũng chỉ biết có quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Ngoài ra không bao giờ cần
biết tới danh dự, đạo đức hay dư luận gì hết. Giản dị như vậy, thế mà người Việt
(Quốc Gia cũng như Cọng Sản), chẳng bao giờ thấu triệt, khi quan hệ chính trị với
siêu cường. Tất cả là chiến lược chiến thuật của Mỷ đó, hay nói nôm na là, khi cần
thì gì cũng cho nhưng lúc hết xài rồi, có ai dại vồn vã tiếp đón những thứ phế
thải dư thừa ?
Từ
năm 1978-1986, vì tranh chấp với Trung Cộng và Khmer Ðỏ, lại căm thù Mỹ hắt hũi,
nên Hà Nội đã rước Nga vào VN, mặc dù trong trận chiến đẳm máu tại biên giới Hoa
Việt vào tháng 2-1979 sau đó kéo dài tới đầu thập niên 90, LX chỉ phản ứng bằng
nước bọt, khi hai nước đã ký liên minh quân sự. Chính sự hiện diện của Nga tại
Ðông Dương và trên hết là sự gia tăng lực lượng Hải quân, kể cả Tiềm Thủy Ðỉnh trong
vịnh Cam Ranh, đã làm Hoa Kỳ phải xét lại chiến lược ‘ đở lưng’ cho Trung Cộng,
khi Ronald Reagan của đảng Cộng Hòa thắng cử lên làm tổng thống Mỹ, thay Carter
của đảng Dân Chủ. Người Mỹ qua Reagan, lại tái xác nhận liên hệ với Ðài Loan, để
tiếp tục bán vũ khí lên tới hàng chục tỷ đô la. Ðể trả đủa, Trung Cộng lại quay
về với Liên Xô từ 24-3-1982. Hai nước bắt đầu nối lại sự phát triển thương mại,
kinh tế, văn hóa và cao điểm vào tháng 5-1985, Mạc Tư Khoa đồng ý giúp Bắc Kinh
canh tân 17 xưởng kỹ nghệ cũ và xây dựng thêm 7 cơ xưởng mới, đồng thời ký hiệp
ước gia tăng thương mại giữa hai nước lên 12 lần.
Trước tình trạng công khai trở mặt của các đàn anh, Hà Nội chỉ còn cách muối mặt,
tìm đủ mọi cách quay về làm đầy tớ cho Trung Cộng, từ cuối tháng 12-1985 cho tới
nay vẫn còn là đầy tớ rất trung thành với chủ. Mục đích cũng chỉ để mong giữ đảng
và quyền lực xiết cổ họng đồng bào nô lệ cả nước với một cổ ba tròng ‘ VC, TC và
tư bản thế giới ‘.
Tháng 1-1985 gần đúng 10 năm người Mỹ tháo chạy nhục nhã tại Nam Vang và Sài
Gòn, Hoa Kỳ quay lại Ðông Nam Á , nói là để ngăn chận sự bành trướng của Nga lẩn
Tàu. Ðây cũng là thời điểm đánh dấu nổ lực mới của Việt Cộng, trong canh bạc mời
gọi Hoa Kỳ trở lại VN, trước tiên bằng các phái đoàn tìm kiếm xương khô lính Mỹ
mất tích. Rồi giấc mộng theo Mỹ chính thức trở thành sự thật vào tháng 4-1991,
khi Tổng thống .G.Bush (cha) ‘ Bải bỏ lệnh cấm vận VN ‘.Kế tiếp Tổng thống Bill
Clinton ‘ Bình Thường Quan Hệ Ngoại Giao’ giữa hai nước vào năm 1995 và ký ‘ Hiệp
ước Thương Mại Song Phuơng Việt-Mỹ’’năm 2001.
Cuối cùng mới có cuộc thăm viếng Hoa Kỳ của Thủ Tướng VC Phan Văn Khải, từ ngày
19-6-2005 tới 25-6-2005, nói là tới nhờ Mỹ giúp vào WTO, rồi Nguyễn Minh Triết,
Nguyễn Tấn Dũng., Trương tấn Sang..kể luôn Nguyễn Phú Trọng. liên tiếp qua Mỹ như
đi chợ, để cầu thân mua bán.. nhưng mặt thật sang để cam kết làm hết những điều
khoản bí mật chưa làm theo lời hứa. Tất cả chỉ có trời biết, đất biết, chóp bu
giữa Mỹ và CSVN biết mà thôi. Nhưng chắc chắn có một điều mà mọi người đều rõ,
đó là VC đang đồng thuận với Mỹ trong vở kịch ‘ VC sẽ chống Tàu đỏ cứu nước ‘
như trước đây Hồ Chí Minh đã diễn với Pháp trong vở tuồng ‘ chín năm chống thực
dân Pháp cứu nước ‘ Có như vậy, Mỹ bây giờ giống như Pháp lúc trước, một lần nữa
lại vực dậy một cái xác chết là đảng CSVN trong chuyến thăm VC sắp tới của TT
Barack Obama vào tháng 5 năm 2016, để tiếp tục tô son trét phấn cho êkip tứ
trụ mới của đảng vừa đưọc bầu bán trong kỳ đại hội XII vừa qua.
Thực chất của bang giao My-VC, sau bốn mươi mốt năm là thế đó ! chỉ tội nghiệp
cho Thân phận dân tộc VN , không biết bao giờ mới thoát đưọc ách nô lệ của
VC. .
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
tháng 4-2016
MƯỜNG GIANG.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment