Mua
vui cùng câu đối Tết Con Gà (Đinh Dậu 2017)
Hà Sĩ Phu
Tết Đinh Dậu 2017 năm nay, do điều kiện sức khỏe, xin lỡ hẹn cùng
bạn đọc không thể ra mắt 16 câu đối Tết như thường lệ, tôi chỉ xin nhắc lại một
chuyện vui về Tết Con Gà và nhân thể bàn cái thú giao lưu quanh Câu đối Tết để
hầu chuyện bạn đọc trong mấy ngày đầu xuân.
A/ Câu đối đùa bỡn Tết Con Gà (đã đăng báo Phụ nữ số Tết
1993):
(Đúng ngày ông Táo chầu Giời năm Đinh Dậu này, như thể nhắc tôi
năm nay chưa có Câu đối Tết, một ông bạn đã gửi cho tôi một đoạn trong Hồi ký
của nhà báo Lê Phú Khải trong đó tác giả trích ngay một Câu đối của tôi về Tết
Con Gà:
Thân tàn lại diễn trò con khỉ!
Dậu nát còn che đám cỏ gà!
Cảm ơn nhà báo LPK đã lưu trong trí nhớ câu đối ấy từ năm 1993,
nhưng vận vào tình hình văn hóa-xã hội ta năm nay chắc cũng chẳng sai: cái THÂN
(con Khỉ) càng già, càng tàn, thì càng diễn nhiều trò Con Khỉ cho thiên hạ bấm
miệng mà cười (nhất là cười một vị lãnh đạo tối cao tuổi Khỉ), trong khi xã hội
đã “nát đám cỏ gà” từ lâu.
Và tiện đây tôi xin nói rõ thêm: câu đối năm ấy đã đăng đàng hoàng
trên báo Phụ nữ Tết
Quý Dậu 1993, có lẽ bởi viết dưới dạng đùa bỡn như sau:
Nát đám cỏ gà!
(chuyện câu đối năm Khỉ sang năm Gà)
Lão THÂN già nhưng vẫn trăng hoa, ngồi kề mụ DẬU toan giở trò táy
máy. Mụ gạt lão ra, choang cho một “vế” rất khó nhai, tưởng lão phải cứng họng:
- THÂN tàn, chưa hết trò con KHỈ
!
Chẳng ngờ lão bợm ấy phá lên cười, rồi hấp háy con mắt đa tình,
đối lại, giọng rất “nhả”:
- DẬU nát, còn che đám cỏ GÀ
!
Mụ Dậu đã ở tuổi 49 (năm nay là năm tuổi của mụ), nam chinh bắc chiến
đã nhiều, những “trò tay chân” thì mụ có coi là “cái đinh” gì, thế mà nghe
mấy cái chữ nghĩa bầy hầy của lão, cái thẹn đã chết nghỉm trong mu từ lâu chẳng
hiểu sao bỗng hồi sinh khiến mụ cứ rần rần đỏ mặt lên mới lạ chứ? Mụ nghĩ thầm
trong bụng: Hóa ra chữ nghĩa mới là cái “trò con khỉ” tệ hại
nhất, khéo không nó làm “nát đám cỏ gà” của
mình thật chứ chẳng chơi! Nhưng chẳng phải tay vừa, đụng vào “đám cỏ gà” của mụ
thì không thể thoát thân an toàn, mụ liền đon đả cười mà lẩy một câu thơ Hồ
Xuân Hương rất đắt rằng: Vâng, cỏ gà,“cỏ gà lún phún leo…
quanh mép” nhà ông đây này! Vừa nói mụ vừa lấy ngón tay dí vào mấy sợi ria
quăn quanh mép lão Thân. Gậy ông đập lưng ông, Lão chỉ còn biết cười trừ trước
một đòn thua không gỡ.
[Đăng báo
Phụ nữ Xuân Quý Dậu 1993]
B/ Xuất đối và ứng đối với Hà Sĩ Phu trong mấy năm qua
Câu đối vừa là một nét văn hóa bình dân, cổ truyền, vừa là một thú
chơi, chơi chữ. Là một thể thơ đúc gọn trong hai câu, nhưng luật đối nghiêm
ngặt và có kịch tính, dù liên tưởng hay tả chân thì một câu đối hay vẫn phải
“nổ” ra một mâu thuẫn gì đó hoặc bật ra một điều gì mới mẻ. Để đáp ứng tính súc
tích như thế, câu đối cần sử dụng chữ đa nghĩa, đồng âm dị nghĩa, dùng chữ
trong sách vở, điển tích.
Hai vế có thể từ cùng một tác giả hay hai tác giả với ý tứ cùng
chiều hay đối lập Trong trường hợp đối lập, câu đối là một cuộc chiến qua chữ
nghĩa, vế đối “Đằng
Giang tự cổ huyết do hồng” của Giang Văn Minh trước Hoàng đế Trung Hoa và
vế đối “Thế Chiến
quốc thế Xuân Thu, thời thế thế thời phải thế” của Ngô Thì Nhậm trước Đặng
Trần Thường là những đối đáp tài giỏi và khí phách đã lưu trong lịch sử và cả
hai tác giả vế đối đều làm cho đối thủ ôm hận đến mức phải mượn oai quyền trừng
phạt mới hả. Dù
trong hai vế đối đáp có bên chính bên tà chăng nữa thì cả hai vế ghép lại vẫn là
một câu đối hay để truyền tụng. Ngược lại, nếu thấy quan điểm trái với vế xuất
thì đừng nổi khùng, hãy dùng vế đối của mình để đối lại, nhưng phải đối sao cho
xứng, câu đối cũng còn là một dạng bút chiến, thậm chí là cuộc đối đáp trai gái
chọc ghẹo nhau, nhưng vẫn trên cái nền của một luật chơi trí tuệ và tao nhã,
tinh tế của ngôn ngữ.
Hoa đào và cây quất vốn là hai cây cảnh ngày Tết, nhưng bối cảnh
xã hội tham nhũng và phi văn hóa năm Con Gà khiến tôi phải cho “đào” và “quất” giữ cả hai
chức năng, vẫn là danh từ, nhưng cũng vừa là động từ, bọn cậy quyền và cơ hội
đang “đào” đang “quất” vào đất nước,
nhân dân:
* KHỈ níu THÂN tàn “đào” đến Tết !
* GÀ chui DẬU thủng “quất” vào Xuân !
Những câu xuất đối của Hà Sĩ Phu trong ngày Tết cũng đã được nhiều
bạn thơ khắp nơi hưởng ứng và cũng đã có nhiều vế ứng đối tài giỏi. Tuy chưa có
điều kiện tập hợp đầy đủ cũng xin nêu một số ví dụ điển hình mà tôi biết được.
- Các
vế ứng đối Tết năm 2000
Sôi nổi nhất là Tết Canh Dần năm 2000 mở đầu thiên niên kỷ. Hết KỶ
Mão sang CANH Dần, HSP ra vế đối:
* Trời đã sang CANH, đừng
vị KỶ !
Vào thiên niên kỷ mới như đêm đã sang canh chờ rạng
sáng, thôi thúc lòng người và mọi chế độ hãy vượt qua mọi tính toán vị kỷ để cùng chung
xây hạnh phúc, thanh bình.
Vế xuất đối chơi 2 chữ trong “thập CAN” âm lịch đúng lúc giao thời
của hai chữ KỶ-CANH nên bật ra ngắn gọn, đơn giản như một ước vọng hay một mệnh
lệnh của lương tri nên quả thực kích thích bạn thơ ra nhiều câu ứng đối. Xin
kể:
1) Đa số quý vị đối lại bằng các chữ trong thập Can:
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Và thập nhị Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Ví dụ:
* Ông Từ Mai:
Đảng
chưa bỏ GIÁP, khó duy TÂN !
hoặc:
Đảng
mau bỏ GIÁP, gắng duy TÂN !
(Ý thức hệ Mác Lê hay tư tưởng HCM là áo GIÁP của Đảng; Quân đội,
Công an cũng là giáp, còn nhiều áo giáp khác nữa… Đảng cứ lăm lăm những thứ ấy
thì Chính trị chẳng đổi mới, mà kinh tế cũng khó đổi mới được, mọi lời hiến kế
tâm huyết cũng đều bị bật ra thôi! Chui vào trong áo giáp là cố thủ trong vỏ
ốc, cũng là vị kỷ! Vế đối có ý gắn bó tiếp nối với vế xuất. Chữ và nghĩa đều
chỉnh).
* Bà Mỹ Lan:
Nước
còn chẳng QUÝ, ích chi TÂN?
(Chưa quý trọng đất nước, đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền
lãnh đạo của Đảng thì đổi mới cũng chẳng ích gì).
* Ông Nguyễn M. Tùng:
Nước
thay mấy GIÁP, vẫn cùng ÐINH !
(Một giáp là 12 năm, từ 1975 tới nay đã hai [ba] “giáp” có dư mà
nước vẫn nghèo khổ! “Giáp” còn là vỏ bọc che chắn và nghĩa khác nữa).
* Vẫn ông Từ Mai:
Đảng ngưng chụp MÃO, chớ quen MÙI !
(Đảng đừng quen mui thấy mùi ăn mãi, hãy ngưng ngay trò chụp mũ
gán tội cho người khác đi!)
* Ông Lê Nguyên Phương:
Nước
còn ngăn DẬU, phải quên THÂN !
(Nước còn rào giậu ngăn sân thì muốn làm được điều tốt phải biết
quên thân mình! Vượt giậu thì có khi bị gai chọc vào người!)
* Một vị ở CH Séc :
Đất
tầm tri KỶ, mở canh TÂN !
(Ý nói qua cuộc Canh tân này, những người tri kỷ sẽ tìm thấy
nhau).
* Bà Ðỗ thị Thuấn :
Đất
còn quốc MẬU, sẽ cùng ÐINH !
(Còn ôm lấy Mậu dịch quốc doanh, thì dân
còn khốn cùng).
2) Một vài vị có sáng kiến dùng lại hai chữ KỶ, CANH nhưng đổi chỗ
để cho KỶ đối với CANH và ngược lại.
Ông Hồ Hiếu (trong nước):
Đảng
còn ích KỶ, khổ tàn CANH !
Ông Nguyễn Gia Kiểng:
Đời
thay thế KỶ, phải tân CANH !
3) Có vị lại dùng chữ nôm hoàn toàn, không nệ vào “điển tích” chữ
Hán nữa. Đối lại cặp CANH -KỶ, thì dùng một cặp chữ nôm như ÐÓ-ÐÂY , RUỘT-GAN…
hoặc hai chữ số.
* Ông Trần văn Lương :
Sĩ dù
thắt RUỘT, vẫn bền GAN !
(Ông Hà Sĩ Phu và kẻ sĩ nói chung dẫu gặp gian khổ, gặp chuyện đau
lòng vẫn bền gan vững chí).
* Bà Phạm Thị Phong Nhã:
Thời
tuy chưa CHÍN, chớ ngồi KHÔNG !
Đây là vế đối khá đặc biệt. Mới đọc có người tưởng bà Phong Nhã
không chú ý đối lại hai chữ CANH-KỶ. Nhưng không: Lấy hai con số, số 9 và số 0,
trong 10 số đếm đầu tiên để đối với hai chữ của Thập Can, được lắm chứ! Ý tưởng
này có phần mới mẻ. Nếu chú ý ta sẽ thấy các chữ mà những người khác thường
dùng lấy trong Mười Can,
Mười hai Chi, Bát
quái… thì tuy là Chữ nhưng đều nằm trong một dãy Số, liên hệ tới những con số
cả, thì sẽ thấy việc dùng Số để đối với Chữ cũng chẳng có gì là xa lạ! Mà hai
con số này gợi nhớ đến năm 1999 có ba số 9, và năm 2000 có ba số 0, tức là đúng
cái thực tế Tết Canh Thìn này. Kể cũng hơi cầu kỳ. Còn ý tứ thì khá hay: Tuy
thời cơ chưa CHÍN , nhưng nếu bi quan ngồi KHÔNG thì thời cơ bao giờ đến được?
Thời cơ nào mà chẳng cần tích cực chuẩn bị để đón: thời cơ của hạnh phúc lứa
đôi, thời cơ của công việc, chứ có phải chỉ là chuyện thời cơ chính trị đâu
nhỉ?
4) Riêng trong thập nhị Chi thì
một số vị gọi tên thật của con giáp thay cho tên tượng trưng: Rồng hay Long
thay cho Thìn, Mèo hay Mẹo hay Mẽo thay cho Mão, Khỉ thay cho Thân, Chó thay
cho Tuất…
* Cháu Phạm Huy:
Đất
chừ rất “CHÓ” , khó an THÂN !
(Chữ CHÓ dùng thay cho chữ TUẤT, kể ra thì dùng chữ kiểu này cũng
hơi ép. Nhưng cũng tạm chấp nhận được. Và tuổi thanh niên mà đã thấu hiểu mặt
trái của tình đời, có lòng ưu tư như vậy cũng hiếm có đấy).
5) Cũng nhiều vị lấy chữ trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn,
Tốn, Ly, Khôn, Ðoài. Và ngũ âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.
* Điển hình là mấy vế đối của Thiền sư Phi Dã:
Vận
tuy xuống GIỐC, chớ bi THƯƠNG ! (chữ trong Ngũ cung)
Vẹm
ăn quá TỐN, lại làm CÀN ! (chữ trong Bát quái)
Vế này thì quá hay. Đem Bát quái đối với Thập Can thì được quá đi
rồi. Kẻ nào ăn TỐN của dân? Phương ngôn ta vẫn có câu: Ăn như vẹm! Nhưng từ khi
có phong trào Việt minh thì hai chữ viết tắt VM cũng đọc là Vẹm. Ăn TỐN của dân
thì đích là bọn tham nhũng mà thủ tướng Kiệt đã gọi là quốc nạn. Nhưng nếu cái
ĂN của kẻ tham nhũng đã tai hại thì cái sự LÀM của nó còn tai hại hơn: làm CÀN!
Càn liên tưởng đến càn rỡ, cắn càn! Trong ngôn ngữ Việt con Vẹm cũng gây hại
song chưa phải là cái gì xấu lắm, nhưng con vật “cắn Càn” thì vẫn là điển hình
cho những gì “phi nhân tính” nhất trên đời! Hãy gác cái nghĩa bóng mà chắc chắn
có người rất thích, có người sửng cồ, nhưng phải nhận rằng vế đối này chữ nghĩa
gắn bó, câu văn tự nhiên thanh thoát, tương xứng nhất với vế xuất đối.
Tác giả Thiền sư Phi Dã còn có một vế đối nữa mà nhà sư nói là để
chia sẻ riêng với Hà Sĩ Phu:
Miệng
vừa mở TÝ, họa vào THÂN !
(Mới lên tiếng một tý, chỉ là tiếng nói của người nghiên cứu lý
luận, mà họa đã giáng xuống tấm thân của người trí thức không có gì để tự vệ!).
Vế này cũng hay lắm, tuy về chữ nghĩa chưa được chỉnh bằng vế đối bên trên.
* Ông Sean Tang:
Đất
bằng nổi CHẤN, phải sinh LY !
(Động đất, bão lụt miền Trung gây cảnh tử biệt sinh ly. Chấn, Ly
là hai quẻ trong bát quái)
* Ông Lê Nguyên Phương còn có câu:
Nước
còn gặp KHỐN, phải gian TRUÂN !
(Ðây là tên hai quẻ Trạch Thủy Khốn và Thủy Lôi Truân
trong Kinh Dịch)
6) Rất tiếc tôi không có một sưu tập tương xứng về các vế đối
trong nước. Vì không có điều kiện (!). Trong ngót 10 vế đối từ trong nước, thì
ngoài vế đối của ông Hồ Hiếu (Đảng còn ích KỶ, khổ tàn CANH!), còn có sự tham
gia của hai Ông Đồ.
Ông Đồ Ngang, dùng trọn cả năm chữ trong Ngũ Hành để tạo ra 4 vế
đối như một bộ tranh tứ bình về Đất về Nước, về Dân, về Đảng như sau :
* Đất còn lưu THỦY, khó
nên KIM! (Lưu thủy là điệu nhạc cứ vòng đi vòng lại
nhùng nhằng không bao giờ hết. “Nên kim” lấy ý từ câu Có công mài sắt có ngày
nên kim. Khó nên kim là khó nên cơm cháo gì).
* Đảng còn giữ MỘC, khó
nên KIM ! (Mộc là vũ khí để che chắn, chống đỡ).
* Dân chưa khai HỎA, khó
thành KIM ! (Thái Bình suýt nữa khai HỎA, nhưng bị cái Lưu
THỦY, cái MỘC, cái THỔ xúm vào làm tắt ngấm ngay!)
* Nước đang giữ THỔ, bán
thành KIM ! (Chú thích của tác giả: Thổ là đất. Cán bộ bây
giờ không bán nước, chỉ bán đất thôi. Lấy đất làm vốn để hợp doanh với nước
ngoài. Hoặc cấp đất cho nhau, bán đi một nửa là thừa tiền xây một vi-la. “Bán
THỔ thành KIM” là bán đất lấy đôla ấy mà, lại nghĩa là một nửa đất biến thành
tiền!). Chữ “bán” vừa là nôm vừa là Hán, vừa là một nửa vừa là mua bán, nhập nhằng
thế cũng hay. Điều thú vị là theo luật tương sinh thì THỔ sinh KIM thật, thế
thì nạn biến đất của dân thành Mỹ kim làm sao mà chống được!
Còn ông Đồ Cổ, theo quan điểm bảo thủ “Phi CỔ bất thành KIM”,
nhưng ông làm nghề khai quật đồ CỔ nên ông đem nghề của mình ra đối lại với Hà
Sĩ Phu như sau:
Đời
không quật CỔ, khó thành KIM !
(Ý nói không coi trọng việc khai quật đồ cổ thì làm gì có ngày nay
được, nhưng người không quen “nói tắt” như Đồ Cổ mà nghe chữ “quật cổ” chắc
cũng giật mình: Không quật cổ xuống thì khó lòng mà thành tử tế, văn minh
được).
Sau đó tôi lại được tin trong nuớc tạp chí Sông Hương số Tết
có đăng một câu đối như sau :
Trời đã sang CANH, đừng
vị KỶ !
Đất còn động CHẤN, hãy
tinh KHÔN !
Ghi tên tác giả chung là Sĩ Phu-Nhật Hồng, Vế ứng đối này chữ
nghĩa cũng hay, cũng có hàm ý, là của ông Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở
Giáo dục Lâm Đồng. “Đất
còn động chấn” lấy từ thực tế năm ấy có nhiều trận động đất, và cũng là
những chấn động chính trị-xã hội.
*
Mấy năm về sau tôi không theo dõi và ghi chép được đầy đủ những vế
ứng đối của bè bạn, chỉ lưu trong trí nhớ được hai câu:
- Một vế ứng đối Tết
2014.
Tết Con Ngựa 2014 tôi có ra một vế đối thế này:
“Đánh cho dân tộc tan hoang, trận đánh đẹp đáng ghi vào
lịch sử”
Có một cái tích là Đại tá công an Đỗ Hữu Ca chỉ huy một “trận
đánh”, dùng cả quân đội lẫn công an, bố trí mọi thứ y như một trận đánh địch để
đánh vào dân oan rồi tuyên bố đây là một trận đánh đẹp và đáng ghi vào sách.
Tôi nhại luôn câu đó.
(Thật vậy, nói về chiến công của ĐCSVN thì hai cuộc đánh Pháp và
đánh Mỹ vẫn có những điều cần phải bàn lại, đánh Trung Quốc thì đánh xong lại
phải xin lỗi ở Thành Đô, là chiến công mà tự mình lại phủ định (và còn giấu như
mèo…) nên trong tâm lý người dân tin vào Đảng có lẽ chẳng còn gì ghê gớm nữa,
chỉ duy cái “chiến công” chua chát mà tôi cho là to lớn nhất của Đảng là đánh vào chính dân tộc
Việt Nam, sử dụng triệt để những ưu điểm của dân tộc để đạt những kết
quả nhưng rồi làm tiêu biến những ưu điểm ấy, biến một Dân tộc ôn hòa, nhân
hậu, đang có tiềm năng phát triển lành mạnh thành một Dân tộc lai căng, chẳng giống
ai, phát triển tràn lan hai mặt giả dối và bạo lực,
đồng thời không dám bộc lộ lòng
yêu nước trước nạn bành trướng của Tàu Cộng. Một dân tộc rất yêu nước,
thế mà nay nói chuyện chống Tàu bành trướng, cứu nước cứ phải thì thầm riêng tư,
chỉ sợ bị quy là phản động! Tóm lại, ai đã đánh cho dân tộc Việt Nam mất hết
tất cả những truyền thống tốt đẹp đó? Trước đây Pháp tám mươi năm đô hộ không
đồng hóa được Việt Nam, Tàu một nghìn năm đô hộ không làm mất được cái chất dân
tộc Việt Nam, thế mà chỉ có mấy chục năm cai trị của Đảng Cộng sản là mất đến
tận gốc! Tôi xin dùng lại chữ của ông Dương Trung Quốc là“chúng ta ngày nay đã bị mất gốc hoàn toàn”.
Tôi cho rằng đánh được cho dân tộc Việt Nam mất gốc hoàn toàn thì đấy là “trận đánh đẹp nhất đáng
ghi vào sử sách” theo cách nói của viên Công an Đỗ Hữu Ca).
Vế đối của tôi tưởng đã là nói thẳng, nhưng cái vế của người ứng
đối cũng sắc sảo không kém. Đó là một nhân vật tên là Mai Xuân Hương, giới
thiệu trên trang Ba
Sàm, một trang chuyên về chính trị, kinh tế, ít đi vào văn học. Ông ấy đối
rằng:
“Tiêu vì chiêu bài giải phóng, lính đánh thuê sao gọi đấy anh hùng”
Tiêu tức là chết, chết vì
cái chiêu bài giải phóng Miền Nam. Một
cái Miền Bắc chưa văn minh, lại đánh vào Miền Nam là cái anh ở trong một hệ
thống tuy còn là dân chủ sơ khai nhưng cũng là cái văn minh bình thường của thế
giới, tóm lại là một nền văn minh kém lại đòi giải phóng một nền văn minh cao
hơn. Chính vì thế mà chết, cho nên “Tiêu vì chiêu bài giải phóng”. Nửa thứ hai
của vế đối này mới đặc biệt: “Lính đánh thuê sao gọi đấy anh hùng”. Lấy “lính đánh thuê” đối với “trận đánh đẹp“! Câu này muốn nói rằng mọi
cuộc chiến tranh của ta chẳng qua là đánh thuê, đánh thuê cho Liên Xô, đánh
thuê cho Trung Quốc. Chính ông Lê Duẩn đã công nhận rồi, ông ấy nói là ta đánh
đây cũng là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc! Nhưng có một điều mà ít người nghĩ
tới là cả dân tộc mình đánh thuê cho Đảng Cộng sản Việt Nam! Bỏ rất nhiều sinh
mệnh, tài sản, công lao vào chiến tranh, để rồi sau đó chiến công, thành quả có
cái gì là Đảng giữ hết chứ dân được gì đâu, được mấy cái ghế của 16 ông vua và một
tập đoàn lợi ích nhóm! Tóm lại nhân dân là lính đánh thuê với giá rất rẻ cho
Đảng. Mà đã gọi là lính đánh thuê, hy sinh trong ngộ nhận thì không thể gọi là
anh hùng, thậm chí khó gọi là liệt sĩ dù cho sự hy sinh đó là phi thường, là
rất đáng cảm phục! (đọc đầy đủ tại đây
và tại đây
) .
Tóm lại, câu đối đáp năm ấy là:
* Đánh cho dân tộc tan hoang, trận đánh đẹp đáng ghi vào
lịch sử!
* Tiêu vì chiêu bài giải phóng, lính đánh thuê sao gọi
đấy anh hùng?
- Một
vế ứng đối Tết 2016
Năm nay nhân TBT Phú Trọng có câu ca ngợi “Bác Hồ” như sau: “Thời
đại Hồ Chí Minh là một thời đại rực rỡ nhất
trong lịch sử dân tộc Việt Nam” (http://vov.vn/chinh-tri/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-ky-niem-sinh-nhat-bac-401809.vov.
Rực rỡ nhất là thời đại Bác? Vâng,
HSP tưởng tượng nếu Bút Tre sống lại biết đâu ông ấy có thể ngắt câu thế này:
RỰC RỠ NHẤT là THỜI…/ĐẠI BÁC !?
(chữ “thời đại” sẽ được Bút Tre ngắt ra thành thời… đại bác là thời
dùng toàn súng ca-nông để choảng nhau)
Chỉ một ngày sau, nhạc sĩ Thanh Hiển, một người bạn của HSP đã gửi
cho HSP một vế ứng đối như sau:
VẺ VANG THAY một GIẤC…/MƠ HỒ !?
“Giấc mơ” là điều rất đẹp nhưng ngắt ra thành giấc… “mơ hồ”, một
niềm tin mơ hồ, một chủ thuyết mơ hồ thì nguy lắm chứ vẻ vang gì? Chữ “rực rỡ”
( toàn vần r) đã mỉa mai thì “vẻ vang” (toàn vần v, với dấu hỏi và than cuối
câu) cũng mỉa mai không kém, và lấy “GIẤC MƠ… HỒ” đối lại “THỜI
ĐẠI… BÁC” thì
thật tài tình.
Nhưng anh bạn tôi không gửi đăng ở đâu cả, vì chỉ gửi chơi chữ với
nhau để mua vui ngày
Tết mà thôi.
Vâng, nhân Tết Con Gà, xin điểm lại mấy câu ứng đối tuyệt cú… mèo
của bạn thơ khắp nơi như vậy cũng chỉ để bạn đọc MUA VUI được dăm ba phút ngày
xuân, lúc trà dư tửu hậu.
H.S.P.
Mồng ba Tết Đinh Dậu 2017
Tác giả gửi BVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment