Tuấn
Khanh: Những ngày ấy, mỗi người
30/4/1975 là biến cố của một đất nước, nhưng ngày đó cũng là biến
cố riêng của nhiều con người.
Trong dòng chảy tán loạn từ Huế, Đà Nẵng, Nha Trang vào Sài Gòn…
có vô vàn những câu chuyện chưa kể. Nguyễn Thị Xuân Phương, cựu phóng viên truyền
hình Bắc Việt kể lại rằng bà kinh hoàng nhìn thấy xác thường dân nằm ngập và
kéo dài suốt từ đèo Hải Vân xuống Đà Nẵng cũng với dòng người đi bộ, chạy… để
tránh Việt Cộng. Còn phóng viên Trần Mai Hạnh của Thông Tấn Xã Việt Nam, người
có mặt tại buổi trưa 30/4 với chiếc xe tăng tiến vào dinh Độc Lập, vừa ra một
cuốn sách về 4 tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh, đã nói rằng cuối cũng thì
điều ông tâm nguyện để lại, là sự thật.
Thỉnh thoảng, tôi vẫn tự hỏi vậy thì vào những thời khắc ấy – kể cả
sau đó, những người tôi biết – hay không quen – đang như thế nào, làm gì?
Gia đình của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ kể rằng khi ngày 30/4 ập đến,
chương trình biểu diễn tại Nhật của đoàn Hoàng Thi Thơ vẫn chưa chấm dứt, vì vậy
ông bị kẹt ở lại, sau đó định cư ở Mỹ. Nhưng con và cháu ông thì lại có cơ hội
chứng kiến nhiều điều mà đến mấy năm sau vẫn chưa thể kể cho nhau nghe, vì
không thể có thư từ liên lạc, rồi đến khi có, cũng không dám kể gì cho nhau, vì
thư luôn bị kiểm duyệt.
Hai đứa con của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là Hoàng Mỵ Thi Thoa và
Hoàng Thi Thanh bất ngờ nhìn thấy một đám đông lính Bắc Việt và những thành phần
“băng đỏ” đứng trước ngôi nhà của mình tại quận 1, đập cửa, quát tháo. Hai em
nhỏ vị thành niên này cùng người cậu của mình bị buộc phải ra khỏi nhà ngay lập
tức vì đang ở trong “nhà của tên có tội với nhân dân Hoàng Thi Thơ, nên đã bị
chính quyền cách mạng trưng thu”.
Tất cả mọi người được sự khoan hồng nên có được 5 phút để trở vào
ngôi nhà của mình, lấy 2 bộ quần áo cho mỗi người và ra đi, không kịp đốt nén
hương từ giã ông bà. Dĩ nhiên, ngay cả việc đi lấy quần áo cũng có người cầm
súng theo kiểm soát vì sợ hai em nhỏ này cất giấu hay tẩu tán tài sản.
Hai đứa con của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ gạt nước mắt ra khỏi nhà của
mình, đi cùng một người cậu về Gò Vấp, tới một căn nhà khác của ông Hoàng Thi
Thơ. Nơi đó, một người em họ của ông Thơ xuất thần trở thành người của cách mạng,
chiếm nhà và chỉ mặt Hoàng Vinh, người cháu của ông Thơ nói là đi cho mau, tha
không bắt lại vì “khoan hồng”, dù là người nhà của Hoàng Thi Thơ, là thành phần
“truỵ lạc”.
Với Phương, người nhạc sĩ của đôi song ca Lê Uyên Phương lừng
danh, thì ông hoàn toàn rơi vào một cú sốc khác thường. Việc chứng kiến một Sài
Gòn hỗn loạn và đổ nát, những con đường vất vưởng xác người cùng với loa phóng
thanh ra rả về khái niệm “giải phóng” khiến ông bước sang một giai đoạn khác.
Những cảm hứng về nhạc tình, hiện sinh và mộng mơ bị chôn vùi theo
mất mát của Sài Gòn. Lê Uyên Phương yêu đương dịu dàng ngày nào giờ đây hình
thành hai tập ca khúc Con người, một sinh vật nhân tạo (1973-1975). Mỗi ngày
ông ngồi ở cafe vỉa hè, đi bộ dọc theo những con đường phơ phất lá me xanh quen
thuộc nhưng giờ đầy các họng súng AK, và tự mình chiêm nghiệm về một thời đại của
những kẻ cùng tiếng nói nhưng khác mạch sống.
Cũng như nhiều nhạc sĩ khác bị cú sốc thời cuộc và chuyển khuynh hướng
sáng tác tình ca sang hiện thực ca như Phạm Duy (Tỵ nạn ca), Ngô Thuỵ Miên (Em
còn nhớ mùa xuân, Biết bao giờ trở lại), Anh Bằng (Nổi lửa đấu tranh, Saigon Kỷ
Niệm), Lam Phương (Chiều Tây Đô), Trầm Tử Thiêng (Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng,
Một ngày Việt Nam)… Phương là một nhạc sĩ khá đặc biệt khi ông dành rất nhiều
thời gian viết về những chuyển động quanh mình, về một thế giới mở và tang
thương của hàng triệu người Việt, qua tập ca khúc Trại tỵ nạn và các thành phố
lớn.
Những ngày ấy, mỗi người, mang vội theo những điều thương mến nhất,
bỏ lại tài sản, bỏ lại quê hương… gạt nước mắt chạy đi về vô vọng. Ca sĩ Khánh
Ly chạy đến chiếc tàu đi di tản, hành lý quan trọng nhất mà bà mang theo là hai
vali đầy những lá thư tình trong đời bà – những lá thư không chỉ là tình yêu mà
chứa cả khung trời thơ mộng và bình yên của miền Nam Việt Nam đã mất.
Nhiều văn nghệ sĩ táo tác như bầy kiến bị phá tổ, chạy đến nhà
nhau để hỏi thăm tin tức từng ngày về số phận của mình, số phận của thành phố
mình đang sống. Họ thì thào với nhau về những biến động khó hiểu từng ngày như
Doãn Quốc Sỹ, Duyên Anh, Nhã Ca vừa bị bắt… Rồi ai đó bị thẩm vấn, và ai đó đã
lặng lẽ xuống tàu giờ không còn nghe tin tức.
Thương gia đình, không nỡ bỏ xuống tàu vượt biên, nhạc sĩ Y Vân tiễn
một người bạn thân lên đường. Nhưng đó lại là một chuyến tàu vĩnh biệt. Và đó
là điều khiến ông trầm uất suốt nhiều năm liền, một ký ức sâu thẳm sau 1975.
Trong một lần nói chuyện với các anh chị đã qua thời khắc 1975,
tôi nói đùa rằng một ngày nào đó nên lập một giải thưởng vô địch về người vượt
biển nhiều nhất, vì tôi đã từng biết một chị người Công giáo ở khu Hoà Hưng đã
tìm cách đi vượt biên 25 lần nhưng đều thất bại. Im lặng nhìn tôi trong tíc tắc,
nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn chỉ nhà văn Võ Quốc Linh, nói “đây, người vượt biển 26
lần”. Rồi chỉ vào mình, anh Tuấn nói “còn mình, là 27 lần”.
Vài năm sau 1975, khi nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn tốt nghiệp thủ khoa
ngành sư phạm ở Nha Trang, khi bạn bè rủ nhau vui mừng lên bục nhận bằng, thì
hiệu trưởng đến bên, ghé tai buồn rầu nói với anh Tuấn “con đừng lên nhận bằng.
Công an đã đến tịch thu bằng vì nói gia đình con có vấn đề về lý lịch và có người
đi vượt biên”.
Nhiều năm sau, nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn lang thang khắp các bờ biển
miền Nam để tìm đường ra khỏi nước. Niềm tuyệt vọng và khát vọng tự do là sức mạnh
lớn nhất giữ anh sống sót qua các trại tù khắc nghiệt nhất.
Ở trại tù nhốt người vượt biển tại Phú Yên, nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn
bị một cai tù tàn ác luôn tìm cách đẩy anh vào lao khổ, thậm chí dù biết anh là
giáo viên, vẫn bắt anh làm công việc mỗi ngày phải hốt phân, gánh đi đổ cho cả
trại. Đó là thời gian như địa ngục. Thân thể của ông có tắm bao nhiêu lần cũng
không hết mùi hôi, những vết thương nhỏ nhất cứ lở loét chứ không thể lành.
Chuyến đi thứ 27, cuối cùng, nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn đến được Úc.
Anh xin nhận thêm công việc tiếp nhận và giúp đỡ và người tỵ nạn mới đến, như
trả ơn cho những ngày tháng tự do của mình.
Một đêm nọ, nghe tin có một chuyến tàu vượt biên vừa đến. Nhạc sĩ
Hoàng Ngọc Tuấn ra nơi tiếp nhận. Khi đang đi lướt qua những người vừa cập bến,
anh bất chợt nhìn thấy một gương mặt quen thuộc mà anh khó có thể quên trong đời:
đó chính là viên công an cai tù đã hành hạ anh. Sững người nhìn viên cai tù ấy,
ngược lại, nhân vật đó cũng bối rối quay mặt đi, né cái nhìn của anh Tuấn.
Nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn ôm đầu suy nghĩ suốt nhiều giờ, rồi chọn
cách gặp riêng nhân vật cán bộ cai tù đó để hỏi thẳng rằng hắn muốn gì khi đến
đây. Chỉ cần một lời tố cáo, cán bộ đó có thể bị trục xuất về Việt Nam, hoặc sẽ
bị chính quyền sở tại bắt giữ và đưa ra toà vì tội từng tra tấn và hành hạ tù
nhân.
Sợ hãi và tuyệt vọng, viên cán bộ thú thật là hắn đã lỡ yêu một người
phụ nữ đã có gia đình là “Mỹ Nguỵ” nên không còn cách nào khác là từ bỏ tất cả,
cùng người yêu vượt biển, mà không ngờ có kết cục như hôm nay.
Khi kể cho tôi nghe chuyện này, nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn ngừng giây
lát, rồi nói rằng “không biết bây giờ tay đó sống ở đâu đó, trên nước Úc này”.
Anh đã im lặng và điền hồ sơ cho viên cán bộ cộng sản đó cùng người yêu của hắn
tỵ nạn ở Úc. Vết thương chưa bao giờ của anh, một người bị hành hạ trong trại
giam cũng như bị xô đẩy ra khỏi đất nước mình, cũng đã thanh thản chữa lành với
lòng tha thứ.
Thật nhiều điều để ghi lại, từ hàng triệu người sống sót sau biến
cố tháng 4/1975. Cứ vào thời điểm này, nhà nước Việt Nam gọi là đại lễ và tổ chức
ăn mừng. Còn hàng triệu người Việt khác thì vào tưởng niệm, như buộc phải coi lại
cuốn phim bi kịch chung cũng như những đoạn phim cay nghiệt của riêng mình.
Những ngày ấy, mỗi người. Những cuốn phim một chủ đề nhưng có muôn
vạn phiên bản ray rứt đến nhiều đời sau.
Và trong một ngày ăn mừng “đại lễ” của nhà nước Việt Nam, tôi chợt
nhớ đến viên cán bộ cai tù vô danh ấy. Tôi tự hỏi, ông ta sẽ đứng đâu giữa lằn
ranh ngày 30/4 mỗi năm ấy?
Tuấn Khanh
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment