Lời
sám hối như một nhóm lửa thức tỉnh bừng lên góp phần đốt cháy ngộn ngữ, chủ
thuyết lừa dối, giả trá gian manh và nung chí toàn dân đứng dậy lật đổ chế độ
Cộng Sản.
pv
Subject : Lời sám hối muộn màng
Lê Quốc Trinh
Lời sám
hối muộn màng
“Em
muốn nhắn gửi những người bạn không đồng quan điểm với em rằng: ‘Chúng mình là
người lớn. Hãy sống thế nào cho ra người lớn.’ Đừng để con trẻ phải gánh chịu.
Đừng để con trẻ chất vấn vì đó đúng là một điều đáng nhục. Mình chính là nhân tố
thay đổi xã hội, thay đổi thể chế để giúp Việt Nam trở nên tốt hơn, người dân
Việt Nam được sống an nhiên hơn.” – Anna Huyền Trang
Hôm
nay ngày 3 tháng 3 năm 2015, tôi quyết định viết bài sám hối này để dứt khoát với
những sai lầm trong quá khứ và nhân dịp chính thức xin lỗi tất cả người dân miền
Nam (từ vĩ tuyến 17 trở xuống) cùng với hàng triệu người Việt Nam di tản
trốn ngục tù cộng sản, đã hy sinh hay đang sinh sống khắp nơi trên thế giới.
Trước
hết tôi xin tự giới thiệu. Tôi tên là Lê Quốc Trinh, sinh năm 1948 cư ngụ tại
Canada từ năm 1967, là kỹ sư cơ khí về hưu, gia đình gốc Việt Nam, nuôi dưỡng
con cái theo truyền thống Việt Nam. Cha mẹ tôi là người miền Bắc, 1945 di cư
vào Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam, tại Saigon thân yêu; tôi
được hấp thụ một nền giáo dục cao thượng, nhân bản, nồng nàn yêu nước dưới
chính thể Việt Nam Cộng hòa; vì thế, tôi không thể nào quên công ơn của toàn thể
nhân dân và chính phủ miền Nam đã góp phần đào tạo tôi thành một con người
lương thiện, biết tư duy và có tình cảm.
Lời
xin lỗi
Trước
hết tôi thành thật xin lỗi cố tổng thống Ngô Đình Diệm vì hành động theo đuôi
phong trào Phật giáo xuống đường chống đối chính phủ trong lúc không hiểu rõ
nguồn cơn và sự thật của vấn đề. Năm 1963 tôi còn là một thanh niên trẻ tuổi bồng
bột; là một học sinh trường trung học Võ Trường Toản, sát cạnh dinh tổng thống
nên tôi dễ dàng bị lôi cuốn theo những đoàn biểu tình một cách thiếu ý thức.
Qua đến Canada tôi tìm, hiểu được thêm nhiều chi tiết lịch sử, được nghe các
nhân chứng kể lại về phong trào Phật giáo, và tôi truy ra được nguồn gốc của sự
kiện. Tôi sẽ trình bày rõ thêm về vấn đề sau này.
Thứ
hai, tôi thành thật xin lỗi gần hai triệu người tị nạn miền Nam Việt Nam đã vượt
biển, vượt biên đi tìm tự do(1), vì những hành vi khi tôi sinh hoạt và đóng góp
tích cực cho Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada (HVKYNTC), từ năm 1973 đến năm
1990. Tôi đã vô tình tiếp tay cho một tổ chức ủng hộ và phục vụ cho Đảng Cộng sản
và Nhà Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là CHXHCN Việt Nam, làm những
việc góp phần xây dựng cho một chế độ phi nhân bản, phản khoa học tại quê nhà.
Tôi sẽ tiếp tục trình bày cặn kẽ những sự kiện xảy ra ở trong tổ chức này này để
tất cả bạn đọc có thể thấy rõ bộ mặt thật của một nhóm người gọi là trí thức
thân Cộng trong thời gian Hội còn hoạt động (1969-1990) và cho đến ngày nay.
Thứ
ba, tôi thành thật xin lỗi các bác, các anh chị, công chức chính phủ và toàn thể
các chiến sĩ, sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh để bảo vệ tự do –
trong gần 21 năm, 1954-1975 – và đời sống của người dân miền Nam Việt Nam.
Tôi
rời Sài Gòn, du học từ cuối năm 1967, nên không có công lao gì trong công cuộc
chiến đấu đầy xương máu chống cộng sản xâm lược từ phía Bắc. Có quá nhiều tấm
gương hy sinh quả cảm của sĩ quan và binh sĩ quân lực Việt Nam Cộng hòa mà tôi
không biết đến, đó là lỗi lầm và thiếu sót của tôi. Đến nay nhờ thông tin quảng
bá trên mạng lưới Internet và qua thông tin cặn kẽ từ nhiều trang báo mạng hải
ngoại mà tôi mới thực sự hiểu nỗi thống khổ và hy sinh của các anh chị, các bác
trong hàng ngũ quân cán chính Việt Nam Cộng hòa.
Danh dự -Tổ quốc: Một chiến sĩ Thủy quân lục chiến VNCH bị
thương trong cuộc chiến đấu bảo vệ người dân Sài Gòn chúng trong cuộc tổng công
kích Tết Mậu Thân 1968. Nguồn: Angelo Cozzi/Mondadori Portfolio via Getty
Images
Nguyên
nhân dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ
Thật
tình mà nói, tôi đã hoạt động tích cực ở đủ mọi lĩnh vực trong một tổ chức thân
cộng hơn 17 năm ròng nhưng không hề bị tư tưởng Mác Lê ảnh hưởng vì những yếu tố
sau:
- Là
người suy nghĩ độc lập, bướng bỉnh, không a dua và không quỵ luỵ từ nhỏ;
-
Thích đọc sách, truyện, bị lôi cuốn theo lối sống miền Nam ngày trước, chịu nhiều
ảnh hưởng của nền văn hoá miền Nam dân chủ tự do.
- Gần
40 năm hoạt động trong ngành công nghiệp khai khoáng và hoá dầu của Canada tôi
đã học được nhiều điều hay về cách tổ chức, tư duy, cách làm việc trung thực của
hệ thống tư bản Bắc Mỹ. Điều này đã giúp tôi đã gạn bỏ đi nhiều tàn dư rơi rớt
trong lối học từ chương của Việt Nam thời xưa cũng như tinh thần bảo thủ phương
Đông; kinh nghiệm làm việc đã giúp tôi hiểu rõ xã hội tư bản hơn và tránh được
cạm bẫy dụ dỗ của ý thức hệ cộng sản Mác Lê, và đã giúp cho tôi có cái nhìn
chính xác về những con người trí thức thiên tả tháp ngà trong Hội VKYNTC.
-
Tôi cũng có được những tấm gương yêu nước dưới thời thực dân Pháp từ những bậc
tiền bối của gia đình. Ông ngoại tôi, cụ cử Nguyễn Hữu Cầu, ông bác tôi, cụ Từ
Long Lê Đại, là hai trong số những sáng lập viên Trường Đông Kinh Nghĩa Thục,
đã từng bị thực dân Pháp bắt giam đầy ra đảo hơn 17 năm trời. Bác tôi, cư sĩ Phật
học nổi tiếng Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, người soạn ra bộ Hán Việt Tự Điển lừng
danh, cũng từng bị Việt Minh đem ra đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất 1954 khiến
ông đã phải trầm mình tự tử để minh oan. Tôi sẽ có dịp nói nhiều đến những kỷ
niệm khó quên về mặt tâm linh với bác Hai Kha Thiều Chửu cùng con cháu hậu duệ
đã giúp tôi lần dò tìm lại truyền thống yêu nước của giòng giõi nhà Nguyễn Đông
Tác ở Hà Nội.
- Là
một trong những thành viên tích cực hoạt động giúp HVKYNTC vì tôi nghĩ rằng
mình đang góp phần giúp ích cho quê hương; với kinh nghiệm của một kỹ sư cơ khí
thích thiết kế và sáng tạo, tôi là người phụ trách chính về công cuộc cải tạo
xây dựng lại Hội quán, số 1450 đường Beaudry, Montreal, giúp cho Hội đoàn này
có cơ sở vật chất vững mạnh để phát triển thịnh vượng từ năm 1984 đến 1990. Và
tôi cũng có một số hiểu biết nhất định về nhiều vấn đề liên quan đến những công
ty kinh doanh do một số nhân vật trong ban lãnh đạo Hội đứng đầu. Tôi sẽ trở lại
vấn đề này ở những bài sau.
1450 Rue Beaudry, Montréal H2L 3E5: Trụ sở kinh tài của Hôi VKĐK
thời Việt Nam bị cấm vận đến khi tan vỡ (1984-1990). Nguồn: Google Maps.
- Mẹ
tôi là một hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, tận tuỵ tần tảo hy
sinh xây dựng gia đình, nuôi nấng con cái. Nhà in Hưng Long, ở Chợ Cũ Saigon,
do mẹ tôi thành lập từ 1960, đã từng in ấn rất nhiều kinh sách nhà Phật. Tôi là
thầy cò, có trách nhiệm kiểm tra văn tự, lỗi chính tả trước khi lên khuôn. Do
đó tôi có cơ duyên tiếp xúc với triết lý nhà Phật sớm; sau này, qua nhiều tác
phẩm của bác Thiều Chửu tôi lại có dịp tìm hiểu nghiên cứu thâm sâu về đạo Phật.
Mạng lưới Internet cùng với nhiều diễn đàn đã giúp tôi hiểu rõ phong trào Phật
giáo thời 1963, cùng với kinh nghiệm sống trong xã hội tự do dân chủ tư bản ở Bắc
Mỹ đã khiến tôi đã phải tự thay đổi tư duy để có quan điểm đúng đắn về lĩnh vực
tôn giáo tâm linh;
-
Tôi là người thích âm nhạc từ nhỏ, tự học thổi sáo, chơi khẩu cầm, đánh đàn
mandoline, và tôi đã đi vào thế giới tân nhạc Việt Nam với cả trái tim nồng nhiệt.
Tôi đã từng mời nhiều em khiếm thị ở trường Mù Saigon đến nhà giúp tôi học thêm
về lý thuyết và thực hành âm nhạc. Tôi biết đến nhạc tiền chiến rất sớm, thưởng
thức nhiều bản nhạc xa xưa ngay tại miền Nam trong những năm 1960, những tác phẩm
mà chính quyền cộng sản miền Bắc đã nghiêm cấm. Tôi sưu tầm những bản hùng sử
ca Việt Nam từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp để hiểu rõ thêm bối cảnh lịch
sử và tâm tư của nhiều nhạc sĩ dân gian nổi tiếng. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ thêm
sau này.
Đối
tượng của lời sám hối
Tôi
biết trước những hậu quả khó tránh khỏi khi viết bài đăng tải rộng rãi trên các
trang báo Mạng. Trước tiên là tình bạn hữu có thể sẽ bị sứt mẻ trầm trọng với
những người tôi từng sát cách sinh hoạt trong HVKYNTC; sau nữa là những thay đổi
có thể có trong quan hệ gia đình từ Canada cho đến Việt Nam. Tôi chấp nhận tất
cả và xem như đó là cái giá có thể phải trả; tôi sẽ chấp nhận, chịu đựng mọi hệ
quả để lương tâm được thanh thản không còn bị giầy vò.
Tuy
nhiên, tôi xin phép có đôi lời nhắn gởi đến với tất cả các anh chị bạn bè quý mến
trong Hội.
Thân
gửi các anh chị em quý mến trong Hội,
Tôi
đã kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của các anh chị em hơn hai năm qua, từ khi tôi viết
và đăng trên Mạng bài “Sự thật nằm sau bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”(2). Tôi
đã gửi riêng cho các anh chị bài viết đó qua e-mail để giúp các anh chị tìm hiểu
rõ hơn nội dung bức công hàm và bối cảnh lịch sử xung quanh sự kiện rất quan trọng
này. Thế nhưng tôi đã hoài công và vô cùng thất vọng, vì không được một câu trả
lời dù đồng ý hay phản đối lập luận của tôi. Tôi xin phép được nhắc lại bài viết
đó để anh chị đọc lại và cho cộng đồng người Việt hải ngoại cùng xem và phê
phán.
Hai
năm trôi qua, những gì xảy ra ở Biển Đông, xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa đã đủ để chứng minh cho những lập luận, phân tích và nhận định của
tôi. Trung Quốc càng ngày càng hung hăng, xâm lấn ngang ngược. Trong khi đó thì
tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà Nước CHXHCN Việt Nam lại càng
co vòi, lép vế, ngậm miệng nín khe. Họ cùng ngồi yên, nhìn ngư dân Việt Nam bị
cướp phá uy hiếp. Tất cả đều chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam chỉ là một bè lũ bù
nhìn, bán nước. Họ đã lấy giang san lãnh thổ đem bán – bằng văn tự – cho lũ
láng giềng hung tợn phương Bắc, để nhận được viện trợ vũ khí đạn dược, nhiên liệu
thực phẩm, hầu thực hiện mưu đồ chiếm nốt miền Nam trù phú phì nhiêu. Trong khi
đó, ngay sau khi Trung Quốc đưa Tuyên bố về Lãnh hải ngày 4 tháng 9, 1958
chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, bằng hành động, đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ ở
đảo Quang Hòa(3) và ở quần đảo Hoàng Sa bằng trận hải chiến năm 1974, cũng như
những công văn gởi đến Liên Hiệp Quốc phản đối CHNDTH vi phạm trắng trợn chủ
quyền Việt Nam(4).
Công văn của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi Chủ tịch HĐ Bảo an LHQ,
Gonzalo Facio, phản đối CHNDTH trắng trợn vi phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo
Hoàng Sa, trang 1/5 (New York, 18/01/1974). Nguồn: Wilson Center. Digital
Archive, International History Declassified
Các
anh chị theo dõi sát tình hình Biển Đông từ lúc dàn khoan HD-981 lừng lững đi
vào lãnh hải Việt Nam và ngang nhiên cắm sào thăm dò dầu khí của Việt Nam. Các
anh chị cũng đã xuống đường phản đối theo đúng chỉ thị… rồi sau đó mọi việc, một
cách êm thắm, lại đâu vào đó. Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang nhiên xâm phạm biển
đảo Việt Nam, và anh chị vẫn im hơi lặng tiếng. Đó có phải là hành động và tư
cách của những con người trí thức hải ngoại, những người đã từng hấp thụ một nền
giáo dục nhân bản, khai phóng của miền Nam Việt Nam, những người từng vỗ ngực tự
xưng là Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada?
Tôi
rất mong các anh chị suy nghĩ lại, đặt quyền lợi đất nước và con người Việt Nam
lên trên tất cả mọi quan hệ lợi nhuận riêng tư với chế độ cộng sản đương quyền,
để cùng nhau lên tiếng sám hối vì an nguy của cơ đồ tổ quốc. Cơ hội để cứu nguy
cho đất nước không còn nữa đâu! Hơn 60 năm qua, chủ nghĩa cộng sản ngấm quá sâu
vào não trạng người dân miền Bắc, toàn thể Bộ Chính trị đảng cộng sản và tập
đoàn lãnh đạo Nhà Nước Cộng sản Việt Nam đã và đang bị thế lực từ phương Bắc uy
hiếp, mua chuộc, ly gián. Bài học lịch sử về tình báo, nội gián Trọng Thủy-Mỵ
Châu vẫn là tấm gương lớn cho hậu thế luận cổ suy kim. Giặc bên ngoài và bè lũ
tay sai nội gián bên trong đã và đang gặm nhấm, bào mòn truyền thống yêu nước
chống xâm lược của dân tộc, các anh chị chưa thấy sao? Nếu quả thật văn kiện bí
mật từ Hội Nghị Thành Đô năm 1990(5) có thật, vì Đảng và Nhà Nước Việt Nam vẫn
còn ngậm miệng nín khe trước sức ép dư luận trong nước [xem thêm Kiến Nghị của
61 vị nhân sĩ tướng tá QĐND Việt Nam năm 2014], thì chúng ta chỉ còn không tới
5 năm để lên tiếng phản kháng và để nuôi hy vọng dân tộc Việt Nam sẽ thoát khỏi
ách thống trị Đại Hán. Các anh chị không cảm thấy quan tâm, áy náy và trăn trở
trước vấn đề nghiêm trọng này hay sao?
Nguyện
vọng tương lai
Nghĩ
lại thời gian đã qua, tôi thầm tiếc nuối cho một đời thanh niên đã bị lừa dối,
bị đánh cắp, và cảm thấy rất ăn năn vì đã không trực tiếp góp phần với cuộc đấu
tranh đòi lại công lý cho toàn thể nhân dân miền Nam. Tôi cảm thấy xấu hổ khi
có lúc đã sử dụng ngôn ngữ tuyên truyền của chủ nghĩa cộng sản một cách vô ý thức.
Nay là lúc cần phải phân tích và tìm hiểu cặn kẽ, nhận định rạch ròi xem ai mới
chính là những kẻ “phản động, phản quốc, bù nhìn, tay sai ngoại bang”.
Như thế là một phần nhỏ góp vào việc viết đúng sự thực lịch sử Việt Nam cận đại,
đặt quân cán chính và người dân miền Nam Việt Nam cũng như hàng triệu người tị
nạn cộng sản khắp nơi vào đúng vị trí trong lịch sử nước nhà. Lời sám hối của
chúng ta có thể là những nhúm lửa nhỏ đốt cháy những ngôn từ tuyên truyền của tập
đoàn cộng sản đang tiếp tục lừa bịp nhân dân Việt Nam và cả những thế hệ tiếp nối
của chúng ta.
Tôi
rất mong được đứng nghiêm, chào lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa và cất
cao tiếng, hát bài Tiếng Gọi Thanh Niên (Quốc Ca Việt Nam Công hòa) ngày trước.
Tôi rất mong được trở về quê hương như một kỹ sư đã nghỉ hưu, đem 40 năm kinh
nghiệm ở xứ người góp phần phục vụ đất nước trước khi chết.
Đường Hàm Nghi – Sài Gòn 1967, ngày ấy tôi đi. Photo: Donald
Jellema
Montréal,
Canada
4 tháng 3, 2015
4 tháng 3, 2015
(1)
1,642,179 người đã rời bỏ Việt Nam (kể cả người gốc Hoa và người miền núi) đi tị
nạn khắp thế giới trong giai đoạn 1975 – 1997. Canada đã nhận định cư cho
163,415 người. Nguồn: Robinson, W. Courtland, Terms of Refuge,United
Nations High Commissioner for Refugees, London: Zed Books, 1998 p. 270, 276,
Appendix 2; Far Eastern Economic Review, June 23, 1978, p. 20.
(2) Lê Quốc Trinh, Sự thật nằm sau “Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”, Dân Làm báo, 30/04/2013.
(2) Lê Quốc Trinh, Sự thật nằm sau “Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”, Dân Làm báo, 30/04/2013.
(3) Năm 1957, hãng thông tấn Tân Hoa (New China News Agency) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa tin “quân đội miền Nam Việt Nam của Ngô Đình Diệm” đã chiếm đóng các đảo Hữu Nhật (Robert), đảo Hoàng Sa (Pattle), đảo Quang Ánh (Money) thuộc quần đảo Hoàng Sa. (Nguồn: South Vietnam Troops Illegally Occupied Chinese Island, NCNA, New China News Agency Peking, March 6, 1957 in SCPM, no. 1486 (March 11, 1957), p.22 trích dẫn lại trong Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28).
Ngày 4 tháng 9, 1958 chính phủ nước CHNDTH công bố Tuyên bố Lãnh hải 12 hải lý kể cả các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như Bãi Macclesfield (quần đảo Trung Sa).
Ngày 22 tháng Hai, 1959, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã trả lời
Trung Cộng bằng hành động, Hải quân VNCH đã đến đảo Quang Hòa bắt 82 ngư dân
Trung Hoa (sau đó đã trả tự do) và một tháng sau đó lại khẳng định chủ quyền của
Việt Nam một lần nữa, cũng tại đảo Quang Hòa.
(Nguồn:Statement of the
Ministry of Foreign Affairs on the Encroachment upon Our Territorial
Sovereignty and the Capture of Our Fishermen by the South Vietnamese
Authorities, February 27, 1959, in Chung-hua jen-min kung-ho-kuo tui-wai
kuan-hsi wen-chien-chi, vol. 6, 1959, pp. 27-28; Further Statement by the
Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China Protesting the
Illegal Acts of the South Vietnamese Authorities on the Encroachment of Our
Territorial Sovereignty, Capture and Mistreatment of Our Fishermen, April
5, 1959, ibid., pp. 37-38 trích dẫn lại trong Hungdah Chiu & Choon‐Ho
Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development
& International Law, 3:1, 1-28).
(4) Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông Gonzlio Facio, Chủ tịch HĐ Bảo an LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp Quốc, Số 2142 UN/VN và 2143 UN/VN. Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông Kurt Waldheim, Tổng thư ký LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp Quốc, Số 2144 UN/VN.
(5) Nguyễn Trọng Vĩnh – Mặc Lâm (RFA), Hậu quả sau hội nghị Thành Đô? RFA, 2012-10-09
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment