Lâm Thế Nguyên (ĐVDVN)
Gần hai thế kỷ qua, Việt Nam liên tục ngập chìm
trong chiến tranh, khủng hoảng và rối loạn. Nhưng ở hiện tại, vấn đề không còn
từ sự xung đột của chủ nghĩa mà phần lớn do sự những thuẫn ở niềm tin. Người
Việt, bao gồm đại khối trong nước và tập thể đang sinh sống ở ngoài nước, kể cả
Cộng sản, đều bị khủng hoảng trầm trọng ở những niềm tin chung, và niềm tin với
nhau.
Đảng CSVN, trong tư thế
cầm quyền đang mất niềm tin ở chủ nghĩa, ở sự lãnh đạo của đảng, cũng như sự
hậu thuẫn hữu nghị quốc tế đúng nghĩa. Ngày nay, dù với quyền lực tuyệt đối
đang nắm, đảng CSVN vẫn không tự tin được vào sự ủng hộ của đảng viên và quần
chúng. Vì vậy, nhà cầm quyền lúng túng rõ rệt trong việc bảo vệ chủ quyền đất
nước và sự phát triển xã hội công dân. Có thể nói, nếu không có sự kềm kẹp thô
bạo đối với hệ thống báo chí nhà nước và các mạng truyền thông ngoài luồng, Nhà
nước Việt Nam (cũng là đảng CSVN) sẽ nhanh chóng bị mất kiểm soát toàn diện.
Những vụ đàn áp, xử tù nghịch lý những người yêu nước và ủng hộ dân chủ tự do...
cho thấy nỗi lo bị đào thải của đảng cầm quyền.
Nhưng tình trạng mất
niềm tin không phải chỉ ở nội bộ đảng CSVN. Cho đến nay, sĩ số người dấn thân
cho quyền yêu nước, đòi thực thi dân chủ và các quyền tự do căn bản... một cách
công khai vẫn còn quá khiêm nhường (dưới tỷ lệ một phần ngàn). Đáng chú ý nhất
là đa số thành phần trí thức, các tầng lớp trẻ và đại thể quần chúng vẫn chưa
thật sự nhập cuộc. Những người đang xông pha ở tuyến đầu đấu tranh dân chủ
trong nước đang rất khó khăn và cô đơn. Nhận định này không phải và cũng không
nhằm quy trách nhiệm cho bất cứ ai nhưng là một dấu chỉ cần thiết để nhận diện
thực tế. Cái gì đã ngăn cản sự bất mãn cùng cực của đại khối nhân dân và đông
đảo đảng viên CS biến thành hành động đấu tranh cụ thể? Có phải chăng cho đến
nay vẫn chưa có được một niềm tin chung xứng đáng để mọi người xả thân đấu
tranh cứu dân, cứu nước?
Niềm tin vào sự thay đổi
đất nước bao gồm nhiều yếu tố cần và đủ. Đó là:
·
nhu cầu cách mạng xã hội, hay cải cách chính trị;
·
sự quyết tâm làm tốt hơn của các tầng lớp chủ đạo xã hội;
·
sự ủng hộ của đông đảo quần chúng và cộng đồng quốc tế;
·
thực lực của lực lượng đối lập, bao gồm các thực thể chính trị khả tín; và
·
một định hướng ổn định và phát triển đất nước mang tính thuyết phục (sau khi có
thay đổi).
Cho đến nay, những yếu
tố căn bản trên chỉ mới được thành hình một cách cơ bản, rời rạc và chưa có bảo
đảm có thể tồn tại được trong lâu dài; và hiện tình thay đổi vẫn là những nỗ
lực đơn lẻ, kể cả của đảng cầm quyền. Bế tắc đầy khó khăn và phức tạp này không
nằm trong khả năng giải quyết riêng của bất cứ tập thể nào, kể cả đảng CSVN.
Đây là một nhu cầu tổng hợp nhiều lãnh vực, phạm trù mà chỉ có một ý thức mạnh
mẻ và đồng bộ từ nhiều tập thể khác nhau mới có thể tạo thành hiện thực.
Nhưng bế tắc đó không
hẳn là giới hạn của “cơ trời vận nước”. Người Việt ta vẫn có thể vận
dụng được cách giải tỏa nếu như phục hồi lại được những niềm tin chung.
Trước nhất là niềm tin ở
sự thay đổi cơ chế lãnh đạo quốc gia.
Cho đến nay, ngoại trừ
thành phần CS bảo thủ, quá khích…, ai cũng hiểu và tin rằng sự thay đổi cơ chế
lãnh đạo sẽ tạo điều kiện giải quyết những bế tắc lớn của đất nước; chứ KHÔNG
gây ra những khủng hoảng nghiêm trọng, nguy hiểm như Nhà nước Việt Nam vẫn tuyên
truyền. Mặt khác, với sự thay đổi bằng tiến trình dân chủ hóa ôn hòa, chắc chắn
là các bộ máy hành chính, quân đội và công an vẫn sẽ được tiếp tục lưu dụng chứ
không bị giải thể toàn diện như Cộng sản đã làm với chế độ Việt Nam Cộng hòa
vào năm 1975. Sự đãi lọc về nhân sự tất nhiên sẽ phải có nhưng sẽ là những cá
thể có trách nhiệm với những tội lỗi, sai lầm nghiêm trọng. Đối với đại đa số
quân nhân, công chức, công an… sự khác biệt chỉ là đối tượng phục vụ: Sẽ là
Quốc gia thay vì là đảng CSVN.
Quan trọng là với một
thể chế dân chủ đa đảng, không một cá nhân, đảng phái, tổ chức nào có thể lạm
quyền để làm những điều nghịch lý, đi ngược lại quyền lợi quốc gia, dân tộc
cũng như nguyện vọng chung của nhân dân; vì ai làm sai, kể cả nguyên thủ quốc
gia, sẽ bị đào thãi bởi những lá phiếu tự do.
Thứ hai là niềm tin ở
khả năng phát triển của đất nước.
Chỉ cần nhìn vào sự cố
gắng giao thương, hợp tác hiện nay của cộng đồng thế giới đối với Việt Nam,
chúng ta có quyền tin rằng mức độ liên lập giao thương với Việt Nam sẽ tăng gấp
bội khi nước ta thật sự có tự do, dân chủ. Thật vậy, dù Việt Nam hiện vẫn còn
trong chế độ độc tài, đầy khiếm khuyết theo tiêu chuẩn quốc tế (như nạn tham nhũng
hối lộ, đàn áp báo chí, vi phạm nhân quyền, pháp luật không quang minh, v.v…) mà
cộng đồng thế giới vẫn còn cố gắng giao thương. Điều này cho thấy là quốc tế
chỉ vì quyền lợi, chứ không phải là lý tưởng gì cả. Do vậy, khi Việt Nam trở
thành một nước dân chủ, tiến bộ hẳn trong các lãnh vực vốn bị khiếm khuyết nặng
nề, thì sự đầu tư, giao thương, hợp tác sẽ tăng cao gấp bội -- vì tài sản của
họ sẽ được bảo đảm, và quyền lợi của họ sẽ gia tăng hơn nhiều lần. Đó là chưa
kể sự trợ giúp, đầu tư của tập thể người Việt sinh sống ở ngoài nước – một
nguồn hậu thuẫn to lớn và vững mạnh về nhiều mặt.
Kế đến là niềm tin ở
hàng ngũ nhân tài của đất nước.
Đất nước chúng ta đang
có nhiều vấn đề đáng tiếc, đáng lo song dù vậy, chúng ta vẫn có thể có một niềm
tin mãnh liệt rằng: Việt Nam vẫn đang có một hàng ngũ chuyên viên có khả năng
và tâm huyết.
Trong bối cảnh chính trị
phức tạp hiện nay, nhân tài của Việt Nam không có nhiều điều kiện để có thể
giúp dân giúp nước một cách hiệu quả. Nhưng một khi bế tắc chính trị đã được
khai thông, Việt Nam sẽ có cơ hội “cất cánh” như mọi người hằng mong đợi trong bao
nhiêu năm qua. Cùng lúc đó, hàng ngũ trí thức và nhân tài ở ngoài nước sẽ về
nước, sẽ cùng hợp tác, yểm trợ cho hàng ngũ chuyên viên, trí thức trong nước.
Mong đợi này là một tương lai khả thi trong tầm tay của người Việt chúng ta.
Tiếp nối niềm tin ở nền
tảng Dân Chủ, Tự Do.
Khác với luận điệu của
nhà nước đương quyền, Dân chủ và Tự do là hai yếu tố vô cùng quan trọng để xây
dựng một xã hội nhân bản; ở đó quyền con người được tôn trọng, và quyền lực
lãnh đạo quốc gia được kiểm soát, cân bằng một cách hiệu quả nhất.
Dân chủ, Tự do không
phải là yếu tố duy nhất để tạo dựng hạnh phúc cho con người và sự phát triển
của một quốc gia. Nhưng thiếu nó, không đất nước nào có thể trở thành hùng mạnh
và được thế giới nễ trọng. Chỉ căn cứ vào những vấn đề nhức nhối nhất của xã
hội hiện nay, nếu có một cơ chế tam quyền phân lập quang minh thì có
nhiều vấn đề đã không xảy ra, và phần lớn những vấn đề khác sẽ được giải quyết
ổn thỏa, công minh như ở các nước dân chủ.
Đối với vấn đề bảo vệ
chủ quyền quốc gia, nếu Việt Nam có một chính phủ dân chủ đa đảng thì Trung
Cộng đã không thể gây áp lực một cách phi lý như đối với đảng CSVN được. Các
siêu cường, dù là phía nào, có thể uy hiếp một triều đình, một đảng phái vọng
ngoại song không thể trấn áp được ý chí của cả một dân tộc. Lịch sử thế giới
chứng minh điều này, và lịch sử nước ta cũng ghi đầy những kinh nghiệm quý báu
đó. Vấn đề là chúng ta có quyết tâm để thoát khỏi ách nô lệ nhục nhã đó hay
không? Muốn độc lập, người Việt ta cần phải giải phóng lấy chính mình ra khỏi sự
độc tài toàn trị.
Cuối cùng là niềm tin ở
kết quả của sự đoàn kết đấu tranh
Khi vững lòng tin vào
thể chế dân chủ pháp quyền sắp tới, chúng ta KHÔNG cần phải lo ngại là tổ chức
này hay đảng phái kia sẽ tiếp tục lạm dụng quyền lực và áp đặt một hình thái độc
tài khác sau khi cơ chế chính trị có thay đổi.
Sự lạm quyền lãnh đạo sẽ
rất khó xảy ra trong một chính phủ liên hiệp, đa đảng. Nếu một bộ phận nào đó
vi hiến hay vi luật, các cơ quan truyền thông báo chí, hiệp hội nhân quyền, và
tất nhiên là các chính đảng, tổ chức chính trị, xã hội... khác sẽ có biện pháp
can thiệp, ngăn chận ngay.
Ngày nay, hàng ngũ dân
chủ có nhu cầu xây dựng một tổng lực để có khả năng đấu tranh áp lực thành phần
bảo thủ trong đảng CSVN. Sự liên minh, hợp tác này có lợi ích chung, và giúp
cho nỗ lực của mội đoàn thể được hữu hiệu hơn. Tổ chức hay chính đảng nào dẫn
ngọn cờ đầu sẽ có vinh hạnh ghi danh vào trang sự hào hùng của dân tộc. Nhưng
sự thành công trong nỗ lực giải thể độc tài không phải là sự đồng nghĩa với một
quyền lãnh đạo duy nhất và tuyệt đối.
Một khi đất nước đã thay
đổi, lá phiếu của toàn dân sẽ quyết định thành phần lãnh đạo quốc gia. Những ai
cố công, đoàn thể nào có quá trình đóng góp to lớn sẽ nhận được sự tín nhiệm
nhiều hơn của nhân dân nhưng không có nghĩa là sẽ mặc nhiên lãnh đạo đất nước
trong lâu dài. Với kinh nghiệm của các nước hậu Cộng sản, việc chọn thành phần
lãnh đạo phát triển quốc gia cần được ưu tiên cho các tầng lớp trẻ và mới. Với
nhận thức đó, chúng ta có thể bình tâm ở tiến trình dân chủ hóa đất nước. Đó
cũng là một niềm tin vô cùng cần thiết cho hành trang đấu tranh giải trừ nạn
độc tài, tham ô và bất công.
Đã đến lúc để những
người yêu nước đến với nhau, bắt tay nhau và đồng lòng đấu tranh cho đất nước
và dân tộc. Chỉ có sự cảm thông, hòa đồng và đoàn kết mới tạo dựng được những
niềm tin đã mất. Khi có được niềm tin những niềm tin lớn, chúng ta sẽ có khả
năng giải quyết những vấn đề lớn của đất nước.
Tương lai của Việt Nam
sẽ được xây dựng bằng niềm tin của những thế hệ hôm nay và mai sau.
Lâm Thế Nguyên
(ĐVDVN)
Nguồn: www.vidan.org
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment