Nhu Cầu Dân Chủ Chân Chính Tại Việt Nam
Lưu
Nguyễn Đạt, TS, LS
August 24, 2013
August 24, 2013
KHÁI NIỆM DÂN CHỦ
Căn cứ vào các từ ngữ Democracy(Anh), Démocratie (Pháp) và Hy Lạp
δημοκρατία (demokratia), Dân Chủ có nghĩa là “dân”
(δημος demos) + (κρατειν kratein) “cai trị”. Vậy Dân Chủ là một
hình thức chấp chính mà người dân có chủ quyền trong việc cai trị đất nước, một
cách trực tiếp[1] hoặc gián tiếp, qua
hình thức ủy nhiệm,[2] bằng những cuộc bầu
cử tự do, sáng suốt của người dân.
Theo hình thức chấp chính này, toàn dân sử dụng quyền lực
chính trị và quyền lợi xã hội để bầu cử và kiểm soát chính phủ. Do đó,
chính phủ dân chủ có khuynh hướng và bổn phận thi hành việc nước theo ý dân, phục
vụ qua sự ủy thác của dân: nhà cầm quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp được
dân chúng chọn để ủy thác quyền chấp chính, gián tiếp đôn đốc, bảo vệ quyền lực
và quyền lợi của người dân.
Thông thường thì một xã hội dân chủ chọn lựa một chính phủ
dân chủ. Ngược lại một chính phủ dân chủ (được hình thành qua các cuộc bầu
cử) chưa chắc đã đôn đốc và tổ chức đất nước thành một xã hội dân chủ, chưa chắc
đã thực sự thực hiện những chương trình, những biện pháp dân chủ, thuận lợi cho
người dân, thực sự tôn trọng quyền lực và quyền lợi của người dân. Bầu
bán, ủy nhiệm chủ quyền là hình thức, là thể cách chọn lựa một chính phủ dân chủ.
Nhưng bảo trọng quyền lực và quyền lợi của người dân mới là nội dung cốt tủy,
là cứu cánh và mục đích chính yếu của nền dân chủ.
Về hình thức, dân chủ khác với các chế độ quân chủ,[3] quý tộc thống trị[4]và chế độ quyền phiệt phát xít[5] vì
quyền thế trực tiếp trong tay vua chúa, quân đội, nhóm đảng thống trị.
Nhưng về nội dung cốt tủy, dân chủ chân chính cũng khác với các tập đoàn chuyên
chính,[6] độc
đoán, tài phiệt,[7]khác với
chế độ cộng sản[8] theo
xã hội chủ nghĩa chuyên chính,[9] vì
những chế độ dân chủ giả mạo này, tuy về hình thức có mang danh hiệu “dân chủ”,
nhưng khi ứng dụng những thành tố và mục đích căn bản dân chủ (bảo trọng quyền
lực và quyền lợi của người dân) lại có tính cách “phản dân chủ”, vì dùng bạo lực
chuyên chính vô sản để đàn áp dân chúng, đi ngược lại ý dân và quyền lợi của
họ.
Trong những chế độ dân chủ chuyên chính,[10] dân chủ giả mạo, người dân, quá nhỏ bé,
xa lạ với cái hư danh “làm chủ” của họ, đã hoàn toàn bị tước đoạt chủ quyền, tước
đoạt quyền lực, tước đoạt quyền lợi.
VIỆT NAM VÀ KHÁI NIỆM
DÂN CHỦ
Theo định nghĩa trên, chúng ta có thể xác nhận rằng dưới Thời
Pháp Thuộc,Việt Nam không hề có dân chủ, khi đất nước đã bị tước đoạt, xâm chiếm,
dưới hình thức Thuộc Địa Pháp[11] tại
Miền Nam và Chế độ Bảo Hộ[12] tại
Miền Bắc và Miền Trung. Nhà Vua và triều đình đã mất hết chủ quyền quốc
gia trước áp lực của lực lượng quân phiệt, hành chính viễn chinh Đế Quốc Pháp,
dùng để khai thác Việt Nam, dưới hình thức thị trường cung cấp nhu yều phẩm
(lúa gạo, cao-xu, quặng, mỏ) và nguồn nhân lực rẻ mạt như nhân công thợ thuyền
không chuyên môn. Đương nhiên dân Việt Nam lúc đó không thể có quyền lợi,
quyền lực gì đáng kể trong các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Với
tư cách người dân bị thống trị, họ phải chấp nhận thân phận tiêu cực và bổn phận
cưỡng ép, hoàn toàn lệ thuộc vào chính sách cai trị độc đoán và nhu cầu lẫn hạch
sách của Đế Quốc Pháp lúc bấy giờ. Dân chủ từ hình thức tới nội dung đã vắng
mặt trên lãnh thổ Việt Nam, trong lòng và các sinh hoạt người dân bản xứ hơn 80
năm, cho tới khi Viện Cơ Mật Triều Đình Huế tuyên bố hủy bỏ (11.03.1945) Hiệp Ước
Bảo Hộ năm Nhâm Tuất 1884 với Pháp, để khôi phục chủ quyền cho Việt Nam.
Sau thời gian Cựu Hoàng Bảo Đại chính thức lập Chính Quyền
Quốc Gia Việt Nam (1949-54) và sau Hiệp Định Genève (1954) chấm dứt sự hiện diện
của Quân Đội Viễn Chinh Pháp[13] tại
Việt Nam, trong suốt giai đoạn hai nền Cộng Hoà (1955-1975) của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, chủ quyền quốc gia thu gọn phía Nam
vĩ tuyến 17, nên hình thức dân chủ cũng bị hạn hẹp theo vận mệnh đất nước.
Dưới nguy cơ nội chiến Nam-Bắc và nhất là dưới áp lực của cuộc chiến ý thức hệ
Quốc-Cộng, người dân tại Miền Nam tạm thời trì hoãn thực hành quyền lợi và quyền
lực của mình để thi hành nghĩa vụ công dân của một nước lâm chiến, bất ổn, bất
an. Chiến tranh cho phép nhà cầm quyền hạn chế quyền tự do dân chủ.
Trong những giai đoạn này, cơ cấu dân chủ được thực hiện, nhưng về thực
chất, chỉ mang tính cách tương đối hay tượng trưng. Những chính sách lập
ấp chiến lược, bình định, xây dựng nông thôn, bắt
lính quân dịch, nhân dân tự vệ, thiết quân luật, bế môn toả cảng dưới nhiều
hình thức, đều là những ưu tiên cấp bách, có hiệu lực hạn chế quyền tự do
dân chủ.
Như vậy, về mặt hiến định và pháp chế, người quốc gia đã biết
tới một số quyền lợi và quyền lực căn bản, có đi bầu bán, hội họp, biểu tình,
có thủ tục tố tụng, có tổ chức pháp đình phân minh. Nhưng vì thời cuộc
không cho phép, nên mức độ và phạm vi ứng dụng các nguyên tắc dân chủ không mấy
vẹn toàn, nếu không muốn nói là phiếm diện.
Đương nhiên với chế độ chuyên chính vô sản theo xã hội chủ
nghĩa, áp đặt tại Miền Bắc từ sau tháng bảy năm 1954, rồi trên toàn lãnh thổ Việt
Nam từ cuối tháng 4 năm 1975 tới bây giờ, Cộng Sản Việt Nam [CSVN] một
mặt dùng bạo lực để trấn át mọi ý nguyện, lựa chọn, mọi quyền lợi của
dân, mặt khác bao che, biệt đãi các đồng chí, đảng viên, thì làm sao có
dân chủ thực sự, có tự do, hạnh phúc cho người dân khi họ bị lợi dụng, phế
thải, tước đoạt tài sản, quyền hành? Khẩu hiệu dân chủ chuyên chính
vô sản theo xã hội chủ nghĩa trên toàn cõi lãnh thổ Việt Nam ngày hôm nay chỉ
có giá trị lộng ngôn lừa bịp dân ngu, cán dốt, lừa bịp chính bản thân kẻ lừa lọc,
khôn vặt. Họ xảo quyệt bẻ cong chữ nghĩa bằng tà thuật ma giáo vụn vặt,
mà không biết lúc nào chữ nghĩa sẽ phản lại họ, mở mắt họ.
NHU CẦU DÂN CHỦ CHÂN
CHÍNH TẠI VIỆT NAM
Dưới chế độ cộng sản, độc tài chuyên chính, đa số người dân
đã bị uốn nắn, nhồi xọ bằng những khẩu hiệu rỗng tuếch, vô nghĩa, xảo
trá. Người dân còn bị đe doạ, khủng bố, cưỡng ép, nên họ nhịn đắng nuốt
cay, rồi căn cứ vào linh tính phòng thủ theo “văn hoá chìm”, họ đã cam chịu
cảnh bịt mắt, che tai, đã lẩn trốn để bớt tai hoạ, đã hoá trang tinh
thần để tự vệ, để sinh tồn.
Chả lẽ cái đức tính khiêm nhường “chín bỏ làm mười”, cái
thuật ẩn núp sử dụng hơn nửa thế kỷ trên mảnh Đất Bắc, hơn ba mươi
tám năm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, lại trở thành một “nhân cách thứ
hai”, vĩnh viễn ngược lại nhân bản gốc? Chả lẽ người dân mãi
mãi ẩn dật, an bài trong cuộc mất trí nhớ tập thể, quên nói đúng, làm hay;
quên những đức tính cao thượng, hùng tráng, cương trực của ông cha, của các thế
hệ tiền bối?
Người dân Việt ngày hôm nay cần thức tỉnh, cần đứng thẳng dậy,
tận tay dành lại quyền lợi tư hữu và quyền lực chính đáng của người công
dân sáng suốt, đã quá lâu bị lấn át bởi chế độ bạo quyền chuyên chính
CSVN. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, và hiện tượng dân chủ chân chính vẫn
là một yêu sách bất diệt, bất biến, vì nó có tính cách nhân từ, tự nhiên, như một
nhu yếu bẩm sinh đã có sẵn trong lòng người Việt chúng ta, từ lúc lập quốc quân
bình Bách Việt, cộng sinh, cộng hưởng, từ cách thức cai trị nhân đạo Thời Lý-Trần,
từ những phương thức căn bản “Phép Vua thua lệ làng”, “ý dân là ý trời”.
Bản chất thông minh, tự trọng của người dân Việt, già cũng
như trẻ, quyết liệt sinh tồn theo đà cải tiến tư tưởng và kiến thức trên khắp
thế giới, chắc sẽ không cho phép nhà cầm quyền cộng sản mãi mãi duy trì áp lực
tăm tối, bất công của một chế độ độc tài, độc tôn, ngu dân, lật lọng.
Khi cơ hội tới, toàn dân sẽ giành lại tự do chọn lựa, và chắc chắn họ
sẽ mạnh dạn khước từ chế độ cộng sản như trút bỏ một gánh nặng quá đáng, lỗi thời,
vô giá trị.
Nhưng, với kích thước nhỏ bé, non nớt của nước Việt Nam hậu
cộng sản, đang cố gắng đầu tư vào dòng thịnh vượng toàn cầu, một hình thức dân
chủ tài phiệt tập trung quyền lợi kinh tế vào thiểu số giầu có ưu đãi, vẫn
không phải là cách tổ chức lý tưởng cho một xã hội cần toàn năng, cần sinh sống
hài hoà. Chỉ có chế độ dân chủ chân chính, kết sinh, cởi mở mới là giải
pháp ưu việt nhằm xây dựng lại quốc gia trong thể hội nhập toàn diện, bằng cách
trả lại giá trị nhân bản, quyền lợi và thế lực tương xứng cho mọi người dân,
không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, tư tưởng, khuynh hướng
chính trị.
DÂN CHỦ CHÂN CHÍNH BAO GỒM:
1. một chế độ dân chủ tự do, cởi mở,[15] theo đó người dân hưởng quyền tự do
cá nhân, quyền tư hữu, đồng thời tôn trọng trách nhiệm công dân, ôn hoà,
thượng tôn luật pháp;
2. một quốc tịch hay “tư cách thành viên” của
từng cá nhân đối với quốc gia của họ. Liên hệ “hội nhập” quốc tịch với quốc
gia/nhà nước có tính cách trực tiếp giữa cá nhân và tập thể, không cần có điều
kiện, “đặc ân” nào khác.
3. Sự thuận tình, hoà hợp giữa quốc dân và chính phủ, vốn
là cơ quan đại nhiệm chủ quyền quốc gia, thay thế quốc dân để thi hành việc nước,
theo quyền lợi và ý muốn của người dân.
4. Ý dân được thi hành, qua các quyết định của dân, trực
tiếp như trưng cầu dân ý[16] hoặc
gián tiếp, qua phiếu chống hay thuận của các đại diện dân cử, do dân bầu ra.
5. Một chính sách được coi là chính thống[17] khi đó là những quyết định của
chính phủ thi hành sứ mạng giao phó một cách vô tư, công bằng, trong tinh
thần thượng tôn luật pháp, nhằm thực hiện quyền lợi của dân và triển vọng đất
nước.
6. Dân tộc, quốc gia, nhà nước là một hiện tượng liên tục, thống nhấttrong
mọi quyết định trực tiếp hay gián tiếp, theo đa số. Thiểu số đối lập một
cách hài hoà, xây dựng, không đưa tới cảnh huống chia rẽ, ly khai.
7. Quốc gia phải có chủ quyền tự quyết đối nội lẫn đối
ngoại, không bị nội xâm bởi đảng phiệt và cũng không chịu áp lực
thống trị của ngoại bang.
MUỐN HỮU HIỆU, MỘT CHÍNH THỂ DÂN CHỦ CHÂN CHÍNH
PHẢI HỘI ĐỦ CÁC THÀNH TỐ SAU:
1. THỂ CHẾ PHÁP ĐỊNH
Thể chế pháp định[18] đặt
căn bản trên cam kết xã hội[19] của người
dân thượng tôn luật pháp, không những theo quyết định của đa số, mà còn
căn cứ vào lẽ phải, trật tự và công lý, quy định trong Hiến Pháp, là luật
tối cao trong Nước.
Thể chế pháp định dân chủ tự do gồm những quy tắc tổ chức
chính quyền qua sự ủy nhiệm quyền lực bảo vệ lẽ phải, trật tự xã hội, đồng
thời duy trì tự do và các quyền lợi căn bản, bất khả xâm phạm của toàn dân, như
quyền sinh sống, quyền tư hữu, quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội
họp, thờ phụng v.v.
Hệ thống pháp định phục vụ lẽ phải, trật tự và công lý phải
có uy lực với toàn dân, kể cả với giới chấp chính. Một chính phủ dân chủ
chân chính, được ủy nhiệm thi hành và bảo vệ luật pháp, phải tôn trọng căn bản
luật pháp, vì quyền lợi chung, chứ không nhân danh luật pháp – lợi dụng và lạm
dụng luật pháp để bảo vệ quyền lợi của giới cầm quyền, khi lạm quyền.
2. CHỦ QUYỀN CAI TRỊ ĐẤT NƯỚC THUỘC TOÀN DÂN
Hiến Pháp, sau khi được soạn thảo, muốn trở thành luật tối
cao trong Nước, cần được đa số toàn dân chuẩn chấp. Việc này cho thấy chủ
quyền cai trị không nằm trong tay chính phủ hoặc cá nhân, nhóm, đảng phiệt, mà
thuộc toàn dân, khi họ sử dụng lá phiếu để cam kết và chấp nhận đạo luật tối
cao này. Chính sách cai trị phải được toàn dân thuận nhận, yêu sách
hay tùy nghi ủng hộ, chứ không thể vĩnh viễn áp đặt bởi lý
thuyết hay ý thức hệ phe đảng.
Dù sau này người dân có uỷ nhiệm quyền hành của họ cho các
giới chấp chính thay mặt họ thi hành và bảo vệ luật pháp, họ vẫn giữ quyền kiểm
soát tối hậu bằng quyết định tái cử người đương nhiệm, hoặc chọn lựa người đại
diện khác. Như vậy, người dân vẫn gián tiếp giữ chủ quyền cai trị đất nước
qua hình thức dân chủ ủy nhiệm.
3. TỰ DO ĐẦU PHIẾU
Sự chính thống của nhà cầm quyền tùy thuộc vào quyết định
sáng suốt, minh bạch của người dân sử dụng lá phiếu. Quyền đầu phiếu phải
được thi hành tự do mới có giá trị. Mọi hình thức cưỡng ép đầu phiếu, bầu cử
gian lận đều phải coi là bất hợp pháp, tức vô hiệu.
Đồng thời, quyền đầu phiếu, có tính cách hiến định, bất khả
xâm phạm, bất khả tước đoạt, nên phải được mở rộng cho mọi công dân thành niên,
không kỳ thị, không phân biệt nam, nữ, sắc tộc, tôn giáo, tư tưởng, khuynh hướng
chính trị. Mọi vi phạm, hạn hẹp, chế ngự quyền đầu phiếu của dân chúng sẽ
giảm bớt tình trạng hợp lệ và sự chính thống của nhà cầm quyền.
4. TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ CHÂN CHÍNH
Chính quyền dân chủ chân chính về mặt cơ cấu cần được chia
thành ba ngành, Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp, để (a) phân quyền, phân nhiệm
rõ rệt, tránh nạn chuyên chính, độc đoán; tuần tự (b) kiềm chế mọi dự tính lạm
quyền, vi hiến của các ngành; đồng thời (c) kiểm nhận và bổ sung quyền hành lẫn
nhau, căn cứ vào quyền lợi chung, vào lẽ phải, trật tự và công lý như sau:
(a) Nhà Lập Pháp có nhiệm vụ
làm luật theo quyền lợi và nhu cầu của cử tri, của người dân ủy nhiệm
quyền hành này qua lá phiếu. Nếu không thi hành đúng sứ mạng giao phó,
người đại diện dân cử có thể bị giải nhiệm (thất cử) trong cuộc bầu cử kế tiếp.
Ý nghĩa dân chủ chân chính trong ngành “lập pháp” không hẳn
tùy thuộc vào môi trường lẫn kỹ thuật làm luật, mà thực sự có liên hệ mật thiết
với trách nhiệm của người làm luật theo đúng ý muốn cuả dân.
(b) Một hệ thống tư pháp độc lập sẽ
duy trì được nền tảng dân chủ tự do, công minh, hữu hiệu, khi thẩm phán được
dân bầu, song song với thành phần Tối Cao Pháp Viện, có nhiệm kỳ vĩnh viễn, bất
khả truất, do nguyên thủ quốc gia/Tổng Thống đề cử và được Nhà Lập
Pháp chuẩn chấp.
Thẩm phán địa hạt có thẩm quyền và bổn phận xét xử
theo luật lệ hiện hành. Tối Cao Pháp Viện xét xử chung thẩm những bản án phúc
thẩm và những tranh chấp quyền lực giữa các ngành chấp chính, căn cứ vào điều lệ
căn bản của Hiến Pháp Quốc Gia, mà không bị áp lực của hai ngành Lập Pháp vá Hành
Pháp.
(c) Quyền Hành Pháp trong
tay nguyên thủ quốc gia/Tổng Thống nhằm thi hành luật lệ trong nước để duy tri
trật tự công cộng, bảo toàn đời sống của người dân, phát triển đất nước theo đà
thịnh vượng nhân loại, nâng cao văn hoá, văn minh dân tộc.
Quyền hành cai tri trị đất nước (được dân ủy nhiệm qua lá
phiếu) rất rộng rãi. Nhưng quyền Hành Pháp vẫn có thể bị kiềm chế, kiểm
soát bởi thế lực đối tác của hai ngành Lập Pháp vá Tư Pháp, đồng thời bởi “đệ tứ quyền”
do các cơ quan ngôn luận nhiệm cách nhân danh quyền lợi của quần chúng.
Như vậy, chính phủ của nền dân chủ chân chính phải thượng
tôn và ứng dụng luật pháp một cách quang minh, công bằng và thích đáng, để
bảo vệ quyền lợi của toàn dân. Họ là những công bộc, những ủy nhiệm viên
đáng quý trọng của dân, chứ không phải là những bạo chủ, bạo chúa đáng ghê sợ.
5. BẢO TRỌNG QUYỀN LỢI VÀ TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN
Bản Hiến Pháp Quốc Gia phải hoàn tất căn bản bảo trọng quyền
lợi toàn dân theo hình thể dân chủ tự do. Những nguyên tắc căn bản bảo trọng
quyền lợi bất khả xâm phạm của người dân gồm có: quyền bình đẳng trước luật
pháp (trong việc thi hành tuân theo thủ tục hợp lệ, hợp hiến); được bảo vệ nhân
phẩm, giáo dục, an ninh và an sinh xã hội; được bảo đảm các tự do chính trị,
kinh tế, nghề nghiệp, tín ngưỡng, hội họp, sáng tạo; được bảo đảm quyền lợi
công dân và các tự do cá nhân chính đáng trước áp lực của chính phủ và các
đoàn thể quyền phiệt, tài phiệt.
Quyền
tư hữu và tự do mậu dịch kinh doanh phải được pháp chế hoá một cách toàn
diện, cân bằng, minh bạch, nhằm dung hoà phát triển kinh tế, bảo trọng
nhân phẩm, hoàn tất an sinh xã hội.
Nhà hữu trách phải có viễn kiến bảo toàn nhân phẩm
và quyền lợi của toàn dân trong mọi lãnh vực hành chính, tư pháp, chính trị,
xã hội, giáo dục, nghề nghiệp, kinh doanh.
6. QUYỀN LÃNH HỘI, HIỂU BIẾT
Một chính thể dân chủ thực sự luôn luôn minh bạch, sinh hoạt
công khai, không giấu giếm. Dù nhiều quyết định Chính phủ không phải
thông báo ngay, vì an ninh quốc phòng, bí mật quốc sự (chiến tranh, ngoại
giao), nhưng bất cứ lúc nào, người dân vẫn có quyền tìm hiểu, chất vấn, nhất là
khi quyết định của Chính phủ liên quan tới thủ tục tài chính, xử dụng công quỹ;
quốc nạn tham nhũng, lạm dụng quyền hành và vi phạm luật pháp.
Quyền
hạn lãnh hội, hiểu biết của người dân đặt căn bản trên nguyên tắc tự do thông
tin và trách nhiệm quản trị minh bạch,[20] ứng
dụng cho chính quyền và các tổ chức công cũng như tư, khi phục vụ quần chúng.
7. TỰ DO NGÔN LUẬN, THÔNG TIN, BÁO CHÍ
Chính Phủ có thể dùng các phương tiện thông tin, đài phát
thanh, đài truyền hình công cộng để thông báo và bạch hoá một số tin tức mà dân
chúng muốn biết. Ngoài ra các cơ quan ngôn luận tư nhân (báo chí, đài
phát thanh, đài truyền hình, các mạng lưới) cũng có thể tiếp tay với dân chúng,
với các hiệp hội, để tìm hiểu, chất vấn những quyết định của Chính Phủ, những
sinh hoạt của giới chức có thẩm quyền, kể cả những sinh hoạt của các tổ chức, hội
đoàn cung cấp dịch vụ công cộng.
Như vậy, tự do ngôn luận phải được ứng dụng một cách
công khai, minh bạch và được tôn trọng bởi những nhân vật thi hành công vụ,
có thế vị công cộng, có trách nhiệm với dân chúng.
Tuy nhiên tự do ngôn luận phải được thi hành một cách trung
thực, hợp pháp, đúng mức. Tự do ngôn luận cũng phải tôn trọng một số hạn chế có
tính cách khẩn trương, đặc biệt về an ninh quốc phòng, bí mật quốc sự, hoặc
có tính cách đối xứng, không vi phạm quyền lợi của người khác. Ngôn luận
khi lạm dụng, có tính cách vu khống, phỉ báng, vi phạm tiết hạnh, vô luân, vô
nhân đạo sẽ không được Hiến Pháp bảo vệ.
Cấm đoán tự do ngôn luận, kiểm duyệt thông tin, sáng tác;
gây khó khăn cho các công trình biên khảo, chất vấn đúng đắn, là những dấu hiểu
của một chế độ chuyên chính, độc tài, đi ngược lại với chủ trương dân chủ tự do
chính đáng.
8. BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÂN DÂN QUA TỔ CHỨC HIỆP HÔI
Ngày nay quyền lợi của người dân quá phức tạp, quá trừu tượng,
nên xa lạ với chính họ. Người dân lẻ loi, thất thế, thiếu kiến thức, dễ bị
lợi dụng, rồi quên lãng và quyền lợi của họ cũng bị gạt bỏ ra ngoài các sinh hoạt
chính thống. Cần giúp họ học hỏi, hiểu biết thêm, giúp họ tổ chức tương
trợ để bảo vệ quyền lợi chính đáng, một cách hữu hiệu.
Do đó, các tổ chức hiệp hội bất vụ lợi [21] trong nước và các tổ chức phi chính
phủ [22] toàn cầu thường có nhiều
khả năng chuyên môn và thế lực hỗ trợ nên rất hữu hiệu khi can thiệp hướng dẫn
và đòi hỏi quyền lợi cho người dân thất thế, thiệt thòi.
9. ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ THỰC HIỆN VÀ BẢO TRỌNG DÂN
CHỦ CHÂN CHÍNH
Đảng
phái chính trị trong hệ thống dân chủ tự do có thể định nghĩa là
- sự hội họp tự do của các công dân;
- nhằm tham dự vào guồng máy chính quyền bằng cách đề cử
ứng cử viên và tham dự các cuộc tranh cử tự do liên hệ;
- cũng
như có khả năng chính đáng gây áp lực chính quyền với tư cách đảng
đối lập trong một nền dân chủ đa nguyên nguyên, đa đảng.
Như vậy
đảng phái chính trị được thành lập với những nguyên tắc và quyền hạn sau đây:
- Đảng
phái chính trị phải được tự do thành lập, không bị trở ngại, quấy rầy,
không bị cấm đoán. Tiếng nói của đảng viên cũng phải được bảo vệ, không bị
cấm đoán, hay hạn chế;
- Tính cách Chính trị Đa nguyên phải được coi là cần
thiết cho môi trường sinh hoạt dân chủ tự do chân chính. Chính trị
đa nguyên là phương thức cung cấp cho người dân nhiều cơ hội so sánh để
lựa chọn đúng đảng và đúng người chấp chính theo ý muốn của họ;
- Đảng phái chính trị khi tham
chính, dù trong ngành lập pháp, hành pháp hay tư pháp, đều phải xác định
lập trường trung trực, không thiên vị, thượng tôn luật pháp, bảo
trọng công lý, quyền lợi chung của dân tộc, của đất nước.
10. BÁC BỎ KỲ THỊ TRONG MỌI LÃNH VỰC
Một nền dân chủ chân chính, dù tôn trọng quyết định chung của
đa số, vẫn tìm cách bảo vệ thiểu số; xây dựng quốc gia trong thể hội nhập toàn
diện; trả lại giá trị nhân bản, quyền lợi và thế lực tương xứng cho mọi người
dân, không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, tư tưởng, khuynh hướng
chính trị.
Giới
thiểu số hay nhóm người thất thế vì chủng tộc, giới tính, tuổi tác, giáo dục,
chính trị hay kém cỏi về mặt kinh tế, xã hội, cần được bảo vệ chính đáng để có
đủ điều kiện hội nhập vào đời sống công bằng, nhân bản.
11. QUÂN ĐỘI, CẢNH SÁT DƯỚI QUYỀN LÃNH ĐẠO DÂN SỰ, PHỤC VỤ NHÂN
DÂN
Dân
chủ chân chính phải là một chế độ dân chủ dân sự, vì phản ảnh thể cách, thế lực
và quyền lợi của toàn dân, cốt cách là dân sự.
Quân
đội phải thừa lệnh nhà cầm quyền dân sự phục vụ quyền lợi của toàn dân. Sứ
mạng của quân đội, cảnh sát là để bảo vệ người dân, chứ không để thống trị, uy
hiếp họ.
Nếu
làm sai sứ mạng này, hoặc lạm quyền giao phó, quân đội, cảnh sát sẽ hoặc đổi nền
dân chủ tự do thành chế độ quân phiệt, chế độ công an, hoặc dùng vũ lực bất
chính để củng cố một chế độ dân chủ chuyên chính, phản dân, hại nước.
12. HỆ THỐNG HOÁ QUYỀN LỰC NHÂN DÂN
Trên
căn bản thuần lý, chính phủ dân chủ phải coi trọng người dân, duy trì thế lực
và quyền lợi tối hậu của dân chúng. Nhưng thực tế đã cho thấy nhà cầm quyền,
dù được bầu lên bằng lá phiếu, vẫn phản bội sứ mạng ủy nhiệm để đổi thành thể chế chuyên
chính, độc đoán, phản dân chủ, như trường hợp các chế độ phát-xít, các chế
độ dân chủ trá hình theo xã hội chủ nghĩa, theo cộng sản; hoặc vì nghiêng theo thế lực của tập
đoàn tài phiệt, tham lam, tham nhũng, nên cũng phương hại tới đa số dân
chúng, nhất là giới trung lưu, nhiều bổn phận, ít quyền lợi.
Vậy,
hệ thống hoá quyền lực nhân dân là một thực tế cần thiết, do chính người dân phải
ý thức và thực hiện qua một số dự án và chương trình điển hình như sau:
(a) kết
hợp thực lực chính trị và kinh tế bằng cách tăng cơ hội bảo trì tự do, khả năng
chọn lưa, tiêu thụ, sinh sống theo nhu cầu và ý muốn của người dân v.v;
(b) kết hợp thực lực chính trị
và kinh tế một cách cởi mở, rộng rãi, không kỳ thị, không ưu đãi phe nhóm;
(c) kết hợp thực lực chính trị
và kinh tế một cách thực tế, gần gũi với hoàn cảnh địa phương, khả năng và nhu
cầu khu vực của người dân;
(d) kết hợp thực lực
chính trị và kinh tế một cách nhân bản, tôn trọng cá nhân, cá thể;
(e) kết hợp thực lực
chính trị và kinh tế một cách ôn hoà, cân nhắc quyền lợi cá nhân và bổn phận
công dân của các đương sự.
13. GIẢI QUYẾT NẠN THAM NHŨNG
Muốn
giải quyết nạn tham nhũng, cần tuần tự phối hợp một số biện pháp:
- Hội Đồng Giám Sát định thời
gian ân xá trong một thời kỳ hạn định [khoảng một năm], để các đương
sự tự giác, hoàn trả công quỹ, tư quỹ; được phép giữ lại một số lợi tức
tương xứng, sau khi chịu thuế phạt, giải chức, giải nghiệp, hoàn lương;
- Sau thời gian ân xá, Chính
Quyền áp dụng luật lệ, trừng phạt nghiêm chỉnh;
- Áp dụng thủ tục hành chính và
quản trị minh bạch;
- Hội Đồng Giám Sát thi hành các
chương trình khảo sát, đặc nhiệm khởi tố;
- Cổ võ cơ quan ngôn luận, thông
tin tư thi hành nghiệp vụ điều tra và thông tri những sai quấy, tham nhũng
trong các ngành công và tư;
- Đồng
thời duy trì thăng bằng lợi tức lương bổng, quyền lợi tương xứng với chức
vụ đảm nhận để tránh cảnh bất công, thiếu thốn, nghèo túng làm bậy.
Trong
một xã hội cân bằng và công bằng, đầy đủ tiện nghi, có văn hoá nhân bản thượng tôn
luật pháp, thì nạn tham nhũng sẽ giảm thiểu tối đa.
14. XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
Nhiều
thống kê đã cho thấy, mức độ tăng trưởng về dân chủ chân chính đưa tới tình trạng
gia tăng lợi tức quốc gia và sẽ gia giảm cảnh nghèo khó trong xã hội
đó. Đương nhiên, ”xoá đói giảm nghèo” không thể thực hiện bằng
chính sách a tòng tài phiệt ngoại bang bóc lột nhân công, xuất khẩu lao động,
bán dâu ngoại quốc.
Ngoài các yếu tố tư bản và kỹ
thuật tân trang, phương thức đầu tư nhận sự một cách thiết thực, lâu bền, cùng
thể thức tôn trọng pháp luật, bảo trọng quyền tư hữu và tự do mậu dịch vẫn là
những thành tố của một môi trường hữu hiệu trong việc xoá đói giảm nghèo.
Phối hợp viễn kiến quốc gia với lòng bác ái nhân từ của thế lực đa
phương cũng sẽ giúp đa số người dân vượt thoát cảnh
túng thiếu, chậm tiến.
ĐỂ TẠM KẾT
Chúng ta có thể khẳng định rằng
chỉ có chế độ dân chủ chân chính, cởi mở, tự chủ, tự phát mới là giải pháp
ưu việt nhằm xây dựng lại quốc gia, dân tộc, trong thể hội nhập toàn diện,
bằng cách trả lại nhân phẩm, quyền lợi, tự do và thế lực tương xứng cho mọi
người dân, không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, tư tưởng,
khuynh hướng chính trị.
Và chỉ trong thế hội nhập của
toàn dân kết sinh thực thi dân chủ, Việt Nam mới có chính nghĩa và đủ
nội lực bảo vệ đất nước khỏi nạn ngoại xâm, uy hiếp, diệt
chủng.
Vậy, đã tới lúc toàn dân
đứng lên thiết lập dân chủ chân chính để cứu lấy mình, để cứu
lấy nước.
TS-LS LƯU NGUYỄN ĐẠT
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment